CHƯƠNG MƯỜI HAI
Kết Luận
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm. Vào lúc
kết thúc ba mươi chương về những
giáo huấn về sự hợp nhất của Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện tôi muốn tổng hợp nghĩa của những
giáo huấn này. Orgyen Rinpoche nói, “Tổng hợp của nghĩa là để đem lại sự
thích thú ý vị với những
giáo lý.” Cách để tổng hợp nghĩa được Orgyen Rinpoche gợi ý với
lời tiên tri, “Sự
hiện thân lưu xuất về ngữ của tôi với tên là Dipamïkara sẽ là một
Bồ tát, người ấy sẽ tịnh hóa xứ
Tây Tạng.” Đúng theo sự
tiên tri ấy, bậc đáng
tôn kính, Atisha
vinh quang, ngài như viên ngọc vương miện giữa năm trăm
pháp sư ở
Ấn Độ, đã đến
Tây Tạng.
Vào thời đó, đại dịch giả Rinchen Zangpo, ngài là một
hiện thân lưu xuất của
Văn Thù, đã học và tu dưới hơn hai mươi
pháp sư ; và ngài giống như nguồn tuyết của mọi dòng suối Pháp của Trường Phái
Tân Dịch Thuật. Ngài nghĩ, “Ngày nay không có ai có những phẩm tính vĩ đại hơn tôi, và tôi không có gì để hỏi
Pháp Sư (Atisha).
Tuy nhiên, do một
điềm lành trong một
giấc mộng, tôi sẽ đến
đảnh lễ ngài.” Trong một
giấc mộng đêm ấy một người màu trắng
xuất hiện và nói với ngài, “Ngài rất
hãnh diện về sự
phục vụ chúng sanh của ngài. Ngài vẫn còn nhiều câu hỏi để hỏi. Dù ngài có
hỗn hợp tất cả dịch giả và
pháp sư làm một người, thì người ấy cũng không có đủ tất cả những phẩm tính của
pháp sư kia.
Tây Tạng đã chưa nhận tất cả những
giáo huấn truyền miệng.” Rồi người đó biến mất.
Rinchen Zangpo bèn làm một cuộc
hành trình dài để gặp Atisha và mời ngài đến chỗ của mình, mời ngài ngồi trên một chỗ ngồi cao bằng mình. Trong phòng thờ ở tầng trệt có những bổn tôn của thừa chung (
Tiểu thừa), trong phòng ở tầng nhì là những vị của
Đại thừa, và trên tầng ba là những
hình tượng những bổn tôn của Mật thừa. Atisha làm những
bài kệ tán thán tất cả các vị. Lần đầu tiên biết được
đức tin trong những lời, những kệ của Atisha, dịch giả cất bỏ ba lớp của chỗ ngồi đến không còn tấm đệm nào. Dịch giả hỏi ngài nhiều câu hỏi, và lần đầu được nghe nhiều điều mới lạ, ông bị
chấn động bởi
hiểu biết của Atisha, và sự kiêu hãnh của ông sụp đổ. Với mọi câu hỏi của Atisha, ông chỉ
trả lời điều ông biết.
Atisha cũng
hài lòng với dịch giả, và ngài bình phẩm, “Với người như ngài ở
Tây Tạng, không cần ai phải mời tôi đến
Tây Tạng.” Rồi ngài hỏi, “Thưa dịch giả, nếu ngài
hỗn hợp tất cả những
giáo lý này trong một thời
thiền định và
thực hành chúng, ngài làm như thế nào ?” Dịch giả
trả lời, “Tôi không
hỗn hợp các thừa. Hơn nữa, tôi giữ mỗi cái riêng biệt
với nhau, không trộn lẫn chúng, tôi
thực hành mỗi cái riêng biệt.” Đức Atisha bấy giờ
nhận xét, “Điều này chỉ ra rằng ngài dịch giả đã lầm.
Cuối cùng tôi
cần phải có mặt ở
Tây Tạng !”
Đêm ấy dịch giả
thiền định trong ba thời,
quán tưởng ba thừa theo thứ tự trong ba chỗ của
thân thể của ông.
Pháp Sư biết điều ông đang làm và nói với ông, “Thưa dịch giả, thế chưa tốt. Ngài sẽ không có kết quả đâu !” Rinchen Zangpo hỏi ngài, “Vậy thì ngài làm thế nào ?”
“Bất cứ điều gì tôi nói, bất cứ nơi nào tôi ở, bất cứ ai tôi cùng đi, bất cứ điều gì tôi làm, tôi lấy
giới luật làm nền tảng. Bởi vì tất cả
chúng sanh đã là mẹ của tôi, tôi phải
thiền định về họ như vậy. Tôi
tu hành cái thấy
thanh tịnh nhìn họ là mẹ của tôi. Những bổn tôn vốn
vô sanh, tôi
thiền định về các vị như vậy. Nếu ngài không biết làm sao
hỗn hợp những cái này, ngài sẽ không có được cái
tinh túy.”
Đức Atisha cũng nói :
Bậc Thầy của
chúng ta đã dạy
rõ ràngRằng
giới luật là
căn bản của mọi phẩm tính
tuyệt hảo.
Bồ đề tâm, nối kết với
đại bi,
Được
tán thán vượt trên tất cả.
Giác ngộ thì
chắc chắn với sự hợp nhất của hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu,
Chúng không bị
ràng buộc bởi những dấu hiệu của những
tư tưởng thiện.
Đây là những công việc của những
cá nhân khả năng nhỏ, lớn cũng như vừa :
Hãy
nhấn mạnh (
sự thiền định về)
vô thường,
cúng dường, và
thỉnh cầu (
chuyển pháp luân).
Nếu ngài bỏ
chấp ngã, ngài đang theo lời dạy của bậc
Điều Ngự.
Những
luận bàn rộng rãi về điều này dành cho người học.
Chân chính là những
cá nhân tổng hợp
tinh túyVà
thực hành nó.
Cao cả là những người
cẩn trọng này
Họ không
coi thường những hành động và những
hậu quả của chúng.
Biết mọi thứ, nhưng bám chấp vào một thứ là một khuyết điểm của những
học giả.
Không dấn thân vào
thực hành là một
lỗi lầm.
Không lấy (tốt) và bỏ (xấu),
Hãy
thực hiện một
mặt tiền trống không của sự cao cả.
Hãy sống với
trí huệ, Rinchen Zangpo !
Đây là sự khuyến tấn của bậc
Đại Bi.
Sự
tin chắc sanh khởi trong tâm của dịch giả Rin-chen Zangpo, và ngài phát một
lời nguyện dành
cuộc đời còn lại để ẩn
tu thiền định. Như một kết quả của
thực hành, ngài đi đến Khasarpana mà không để lại thân xác. Đức Atisha cũng
ban cho những
giáo huấn thực hành về bốn loại tantra trên chỉ một đệm thiền và ngài viết những bản luận bằng tiếng Ấn về sự
thực hành năm nhánh. Do đó, Phagmo Drušpa
vinh quang có 5.800
đệ tử lỗi lạc, tất cả đều
được giải thoát chỉ nhờ
thực hành năm nhánh. Bậc
Bảo Vệ Jigten Sumgošn nói :
Đại Ấn giống như một con
sư tử,
Nhưng không có
thực hành năm nhánh nó như một người mù.
– Những
thực hành năm nhánh là (1) trau dồi
Bồ đề tâm, (2)
thiền định về thân của chính bạn là thân của một bổn tôn, (3)
thiền định về người hướng dẫn
tâm linh của bạn là bổn tôn, (4) trau dồi cái thấy về
vô niệm, và (5) niêm dấu sự
thực hành của bạn với những
cầu nguyện hồi hướng.
Thực hành bốn loại tantra trên chỉ một đệm thiền có nghĩa là làm điều đó chỉ trong một thời khóa
thiền định. –
Có kể lại rằng do huấn luyện những
đệ tử bằng
thực hành năm nhánh, 180.000 người đã đạt
tri giác siêu
giác quan và những khả năng siêu thường. Về
thực hành ấy, có nói rằng :
Hãy trau dồi
Bồ đề tâm và bổn tôn đã chọn,
Hãy
thiền định về thầy và Đại Ấn
Và hãy
thực hành Pháp hồi hướng.
Không có loại
thực hành nào của
Kinh thừa hay Mật thừa theo Trường Phái
Tân Dịch Thuật mà không gồm trong năm
chủ đề này.
Truyền thống của những
giáo huấn này thêm vào đó Nhảy Qua của
Đại Toàn Thiện, bởi thế làm đầy đủ những
thực hành của chín thừa. Bạn nên
thực hành chúng chỉ trên một nệm thiền, hay chỉ trong một thời thiền
duy nhất. Tôi sẽ cho một tổng lược khúc chiết nghĩa của chúng như được dạy trong
Phác Họa Đại Ấn của Đức Phagmo Drušpa và Ba Pháp của Jigten Sumgošn.
Nếu bạn không
thiền định về một bổn tôn, sẽ có những
chướng ngại.
Lầm lẫn nhân dạng đích thực của bạn, dù bạn có
thực hành trọn đời, sự
thực hành của bạn thiếu sự
biết ơn, và nó sẽ
đi lạc. Không có một bổn tôn đã chọn, bạn vẫn là một người
bình thường ; và không
thiền định về một bổn tôn, bạn sẽ không
đạt được thức tỉnh tâm linh dù
thực hành cái gì.
Truyền thống Kinh đòi hỏi ba
vô số kiếp để đạt
thức tỉnh tâm linh. Do
thiền định về một bổn tôn, những quỷ cái là những
tư tưởng xấu có do
chấp ngã, sẽ được làm bình lặng, mọi
con người mạnh mẽ đều nằm dưới
ảnh hưởng của bạn, những
xuất hiện hình tướng được
chế ngự, và
trí huệ bổn nguyên của sự
phân biệt sanh khởi, những
đam mê được thăng hoa, bạn
hấp dẫn những người theo, và bạn không
lầm lẫn về nhân dạng của chính bạn.
– Những năm trước Dalai Lama khuyên tôi
thực hành Vajra-kalya như bổn tôn,
bình luận rằng ngài cũng theo
thực hành đó, và ngài đã cho tôi một số viên thuốc được
ban phước phù hợp với bổn tôn đã chọn này. Tôi đã theo
lời khuyên của ngài.
Thời gian sau khi ở Nepal, tôi gặp Đức Ngài Dudjom Rinpoche, và ngài cũng
ban cho tôi những
giáo huấn y hệt. Tôi
trả lời rằng Dalai Lama đã gợi ý điều này trước kia và tôi đã làm theo, Dudjom Rinpoche nói rằng tôi đã làm cái
cần thiết.
Thiền định về một bổn tôn đã chọn nói chung và về Vajrakalya nói riêng là rất quan trọng.
Cần phải chống lại những
chướng ngại sanh khởi do thiếu
công đức và những
chướng ngại của những dấu in của nghiệp
quá khứ khi bạn
thực hành. Để gạt chúng đi, rất có ích khi
thiền định về bổn tôn. Nhưng hãy chắc rằng bạn
không tưởng tượng bổn tôn có chất thể như một bức tượng. Hãy nghĩ đến bổn tôn có
xuất hiện nhưng không có
tự tánh. Hãy
thiền định về bổn tôn này như là một
biểu lộ thuần túy của
trí huệ bổn nguyên. Theo cách này, sự
thực hành bổn tôn sẽ là một sự hợp nhất của hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu, với sự
xuất hiện của bổn tôn là giai đoạn phát sanh và
tánh không là giai đoạn
thành tựu. Nhưng hãy nhớ rằng không phải sự
xuất hiện là một cái và
tánh không là cái kia. Chúng là một
bản tánh. Cái
xuất hiện chính là cái trống không.
Theo
truyền thống Kinh, bạn không phát sanh chính mình là bổn tôn, bạn
thờ phụng và
cúng dường bổn tôn được
quán tưởng trước mặt bạn.
Thực hành như vậy, cần ba
vô số kiếp để
đạt đến Phật quả. Do
thiền định về bổn tôn, những
đam mê,
tham muốn, khao khát của bạn được thăng hoa hơn là dẫn bạn thêm nữa vào
sanh tử. –
Không có Đại Ấn, không có
giải thoát khỏi
vòng sanh tử. Do
thiền định về Đại Ấn,
mê lầm tiêu tan ; loài rồng được làm cho an lặng ; bạn
thoát khỏi vòng sanh tử ;
trí huệ bổn nguyên của
không gian tuyệt đối của những
hiện tượng được
chứng ngộ ; bạn thành một
đạo sư của
sanh tử và
niết bàn ;
Pháp thân và
Tự Tánh thân được
đạt đến.
Như vậy, những
thiền định về giai đoạn phát sanh của bổn tôn đã chọn thuộc thân và giai đoạn
thành tựu về nghĩa của
tánh không thuộc tâm được người bắt đầu tu
thực hành trong những phần đoạn trước và sau của thời thiền. Khi đã quen với việc đó, hãy
thiền định chúng hợp nhất, vì đó là
thực hành chính dạy trong
Kim Cương thừa.
– Người mới tu
trước tiên thực hành giai đoạn phát sanh và rồi chuyển qua giai đoạn
thành tựu trong phần sau của thời thiền.
Bản tánh sâu xa của tâm bạn là bổn tôn, và
bản tánh cốt lõi của nó là
tánh Không. Là người mới tu, bạn thấy khó giữ được điều này trong tâm cùng một lúc.
Sự quán tưởng
ban đầu thiếu sót và mờ ảo. Về sau, khi bạn đã
duy trì được một
quán tưởng mạnh mẽ, hãy nhớ rằng
bản tánh cốt lõi của tâm là
tánh không, việc này đưa vào giai đoạn
thành tựu. Sự phát sanh của bổn tôn phát xuất
từ tâm và
hoàn toàn tan biến
trở lại trong tâm, và
bản tánh của tâm đó là trống không. Điểm chánh của
thực hành này là
tri giác mọi
xuất hiện,
đặc biệt là những
xuất hiện thị giác là thân của bổn tôn, mọi
âm thanh là ngữ của bổn tôn và mọi
biến cố của
tâm thức là tâm của bổn tôn. –
Cách tốt nhất để xua tan những
can thiệp và nâng cấp
thực hành hai giai đoạn (phát sanh và
thành tựu) là guruyoga, thế nên cái này là cốt yếu. Nếu bạn không
thiền định về nó, bạn sẽ không
chứng ngộ trạng thái tâm của thầy bạn, bạn sẽ không nhận được những
ban phước ; không có những
chứng ngộ thực nghiệm ; thậm chí những người theo bạn sẽ không có
tôn kính hay sùng mộ. Do
thiền định về thầy, kiêu hãnh được thăng hoa ; loài deva-putra được làm an lặng ; người
ghen ghét được ở dưới
ảnh hưởng của bạn ; tánh giác được thấu hiểu và bạn được
ban phước ;
trí huệ bổn nguyên của
bình đẳng sanh khởi ; bạn được
mọi người tôn kính, và bạn
đạt được trạng thái của thầy bạn.
Trau dồi
Bồ đề tâm ban đầu quan trọng cho
giác ngộ, vì nó như
hạt giống. Trong giai đoạn giữa nó như nước và phân bón, và
cuối cùng nó giống như một vụ thu hoạch đầy dẫy. Nếu
Bồ đề tâm không được trau dồi, thì dù bạn có để cả
cuộc đời hiến mình cho Pháp, bạn cũng chỉ hướng vào những
trạng thái của
Thanh Văn và
Bích Chi Phật ; bạn không
đạt đến quả
giác ngộ ; bạn không thu hút người ta theo ; và dù có những người theo, họ bị mắc vào những
cãi nhau,
lộn xộn. Nhờ
nuôi dưỡng Bồ đề tâm, giận ghét được thăng hoa ; những nội ma và
ngoại ma được làm cho bình lặng ;
mọi người thù ghét được đặt dưới
ảnh hưởng của bạn ; những nhu cầu của
thế giới được
đáp ứng ;
trí huệ bổn nguyên như tấm gương
sanh khởi ; những người theo bạn
hòa hợp với nhau ; và bạn
hoàn thành kết quả của những
hóa thân khác nhau.
Thực hành tâm linh giống như một con ngựa tốt trên đó bạn đặt yên và chỗ đặt chân, và sự
hồi hướng giống như hướng dẫn con ngựa bằng dây cương, đi bất kỳ đâu bạn muốn. Thế nên điều này là quan trọng. Không có
hồi hướng bạn không
đạt được những kết quả bạn muốn. Dù bạn có
hấp dẫn một
thời gian ngắn người theo, họ cũng rơi vào
ảnh hưởng của người khác. Nếu bạn
thực hành hồi hướng,
ghen ghét đố kỵ được thăng hoa ; loài rồng và quỷ được làm cho bình lặng ; người
ghen tỵ được đem đến dưới
ảnh hưởng của bạn ; những
thiện căn không bị hướng sai đường ;
trí huệ bổn nguyên của
thành tựu sanh khởi ; và những người theo bạn không rơi vào
ảnh hưởng của những người khác.
– Nếu bạn
đi vào thực hành tâm linh, bạn có được những nhân để sanh vào cõi
thanh tịnh Cực Lạc. Dù
nguyên nhân có đó, nhưng không
hồi hướng sự
thực hành, những
cản trở khác có thể
can thiệp vào, nên
hạt giống đó sẽ không có quả mong muốn. Do
hồi hướng công đức của
thực hành để sanh về
Cực Lạc, nó
chắc chắn sẽ
thành quả. Điều này giống như đổ một chén nước nhỏ của
đức hạnh của bạn vào
đại dương, nó không thể tiêu mất
trừ phi hết thảy
đại dương bốc hơi.
Tương tự, bằng cách
hồi hướng những
thiện căn, bạn
bảo vệ chúng, và
chúng tăng trưởng
cho đến khi
giác ngộ thành tựu. Đó giống như tưới nước cho cây
giác ngộ. Không có
hồi hướng công đức, những
thiện căn sẽ không
tăng trưởng, và chỉ một sự
bùng nổ cơn giận cũng có thể hủy hoại chúng.
Một
hồi hướng tổng quát là lời
cầu nguyện đơn giản rằng chư Phật
quá khứ đã
hồi hướng công đức của các ngài như thế nào, con cũng
hồi hướng như vậy. Điều này đem lại niềm vui tạm thời lẫn
hạnh phúc tối hậu cho tất cả
chúng sanh trong
sanh tử. –
Nếu bạn không
thiền định về “Nhảy Qua” thuộc phần tịnh quang, sự
thực hành chín thừa sẽ không đầy đủ ; những
giáo huấn về
giải thoát qua sự
quan sát không nhận được ; bạn vẫn còn
lận đận với một cái thấy kèm theo sự nắm bắt của phân tích thuộc trí óc ; và khi những
xuất hiện mê vọng của
trung ấm sanh khởi, sẽ khó
nhận biết chúng. Nếu Nhảy Qua thuộc phần tịnh quang được
thường trực quán sát, cái thấy của bạn không còn vướng vào phân
tích trí óc ;
năm trí huệ bổn nguyên được
tri giác trực tiếp ; trong
trường hợp tốt nhất, bạn trực tiếp gặp gỡ
chúng hội những bổn tôn
an bình và hung nộ ; dù bạn không gặp các ngài, khi bạn thấy các ngài trong
trung ấm, bạn sẽ
nhận ra được và
chắc chắn giải thoát ; sự
thực hành chín thừa đầy đủ
trọn vẹn ; những hồn linh trái đất được làm bình lặng ; những dakini và
hộ pháp săn sóc cho bạn như con ; và
cuối cùng bạn
đạt được thân cầu vồng, nhất là thân đại
chuyển di của
Pháp thân. Bạn sớm thấy những bindu sáng chói,
rực rỡ phi thường của ánh sáng cầu vồng ; và khi bạn thấy chúng, đó là cái nhìn thấy của
tri giác trực tiếp về tự thân
thực tại.
– Khi bạn còn ở trong sự bám nắm của phân
tích trí óc, bạn
tiếp tục gán nhãn hiệu và xếp loại những
thực hành, “Đây là bổn tôn. Đây là
tịnh độ. Đây là sự
xuất hiện. Đây là
tánh Không.” Theo cách đó bạn tạo lập lớp này đến lớp khác của sự bám nắm
ý niệm.
Bạn có thể nghĩ bạn
quen thuộc với
sanh tử, còn
niết bàn thì rất xa, hầu
như không thể đạt đến.
Thực ra, không phải thế. Không
nhận biết bản tánh của
niết bàn là không
nhận biết bản tánh của chính bạn.
Toàn thể thế giới hiện tượng gồm năm
nguyên tố : đất, nước, lửa, gió và
không gian.
Bản tánh thuần túy của chúng là năm phối ngẫu, năm
biểu lộ nữ tính của
giác ngộ, nối kết chặt chẽ với
năm trí bổn nguyên, hay năm bộ Phật. Tất cả
chúng sanh đều được hợp tạo bởi năm
nguyên tố đó.
Quan điểm của Dzogchen là tất cả những
nguyên tố đó đều là những
thể hiện sáng tạo của tánh giác. Khi
thật tánh của năm
nguyên tố không được
nhận biết, bấy giờ chúng tạo thành
sanh tử. Khi
chúng ta nhận biết thật tánh của năm
nguyên tố, chúng là
niết bàn. Những
xuất hiện chúng ta đã
kinh nghiệm hôm qua không là gì khác hơn tâm. Những
kinh nghiệm giấc mộng chúng ta sẽ có đêm nay không là gì khác hơn tâm.
Tác nhân làm
thiện hạnh và
ác hạnh là tâm. Những
kinh nghiệm vui và buồn không gì khác hơn là tâm. –
Những
lợi lạc của điều đó được dạy trong Tantra
Bí Mật của
Mặt Trời của
Pháp Giới Trong Sáng Chói Ngời của những Dakini :
Tất cả chư Phật của
ba đời,
Năm bộ chư
Như Lai, ba bộ
hộ pháp,
Và những dakini và vira
an bình và hung nộ
Được thấy nhờ
tri giác trực tiếp.
Những che chướng thuộc nghiệp và những khuynh hướng
thói quen tan biến.
Một nhà
tham thiền thấy điều này
Không có
tên tuổi nữa trong
ba cõi sanh tửVà ba
hiện thân được xác lập.
Với con, nếu con thấy nơi chốn
giải thoát này chỉ
một lần,
Thì tiến trình
quá độ của
trở thành vừa
sanh khởi,
Chắc chắn con sẽ chọn một
tái sanh diệu kỳ
Trong một cõi
hóa thân tự nhiên.
Như thế, cốt yếu phải dấn thân vào sự
thực hành thường trực sáu cái này : Bổn tôn đã chọn, Đại Ấn, vị hướng dẫn
tâm linh,
Bồ đề tâm, tịnh quang và
hồi hướng. Dù bạn ở nơi
ẩn cư mười ba năm, sáu năm... hay thậm chí chỉ một tuần, đây là sự
thực hành. Về thời khóa biểu
đều đặn, hoặc một ngày bốn thời, ba, hai thời, hay chỉ một thời, bạn cần
thiền định về điều này.
Thiền định này được
thực hiện bằng tư thế
ngồi thiền. Hãy
xem xét, “Than ôi ! Mọi sự đều có
bản chất là
vô thường. Hôm nay ta phải
thực hành cho được. Ngày mai sẽ
tồn tại được gì ?” Hãy trau dồi một
động lực tốt đẹp, nghĩ rằng, “Vì
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh ta phải
đạt đến thức tỉnh tâm linh hoàn toàn. Để làm được điều đó, ta sẽ
thực hành hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu.” Với
động lực đó,
quán tưởng rõ ràng thân bạn trong
hình tướng của Bậc
Đại Bi. Màu sắc của thân là trắng như
mặt trăng mùa thu. Mặt bạn
bình an và
mỉm cười. Bạn trang sức bằng một vương miện quý bằng ngọc và vị hướng dẫn
tâm linh của bạn, đức
A Di Đà hiện diện trên đỉnh đầu bạn. Bạn có bốn cánh tay, hai bàn tay thứ nhất chắp lại ở trái tim, tay ở thấp hơn bên phải cầm một xâu chuỗi
pha lê trắng, tay thấp hơn bên trái cầm một
hoa sen tám cánh màu trắng. Bạn mang một khăn choàng, váy nhiều thứ tơ, và tấm da sơn dương đắp qua vai trái. Bạn ngồi trên một dĩa
mặt trăng trong
trung tâm một
hoa sen nhiều màu, hai chân trong thế
kim cương. Một chữ Hrih trắng đứng thẳng trong
trung tâm một dĩa
mặt trăng tròn ở trái tim trong thân bạn. Thân này bên trong trống không và
tinh khiết. Trên chu vi của dĩa là sáu chữ sắp theo chiều kim đồng hồ.
Từ những chữ ấy, những
tia sáng đủ màu phóng ra
mười phương như những
tia sáng của một cầu vồng. Tất cả những vị hướng dẫn
tâm linh, bổn tôn, chư Phật và
Bồ tát trong
mười phương trong ba thời
vân tập lơ lửng như những bông tuyết trong một cơn bão tuyết. Tất cả những vị thầy hàng đầu và truyền dòng của bạn tan và Đấng của
Gia Đình A Di Đà, đó là sự tổng hòa của tất cả các vị thầy. Tất cả bổn tôn, chư Phật và chư
Bồ tát tan vào trong bạn như Bậc
Đại Bi. Đó là tổng hòa tất cả bổn tôn đã chọn. Những
thần chú gốc của các vị, những âm
cốt lõi và những âm phụ, tất cả tan vào trong sáu âm ở tim bạn, nhờ đó tổng hòa tất cả
thần chú,
minh chú và
đà la ni.
Thiền định về điều này không chỉ
một lần mà với sự nhiệt thành lớn lao. Đây là
lời khuyên dạy
thực hành để
thành tựu mọi sự với một vị thầy, một bổn tôn, và một
thần chú.
Bấy giờ sáu âm phát ra những
tia sáng khi chúng
đi vòng,
chuyển hóa toàn bộ vũ trụ bên ngoài thành cõi
Cực Lạc, và
chuyển hóa tất cả
chúng sanh trong sáu
trạng thái sanh tử thành những
sắc tướng của Bậc
Đại Bi. Hãy
quán tưởng mỗi người bạn thấy là
sắc tướng của Bậc
Đại Bi. Dù bạn không
duy trì điều đó một cách
rõ ràng, hãy tưởng tượng rằng họ chính là Bậc
Đại Bi. Đó là sự
chuyển hóa những
xuất hiện hình tướng thành thân thiêng liêng, và nếu điều đó
rõ ràng, cũng tốt nếu bạn không
hoàn thành sự
nhập thất. Về việc thấy người khác và v.v... trong khi
ẩn cư, đây là
lời khuyên dạy
thực hành để không phạm lỗi bỏ dở sự
ẩn cư.
Bấy giờ nếu bạn tụng sáu âm với một giọng rất to, điều này không nên, và nó sẽ mất một
thời gian dài để
hoàn thành ; và nếu những hồn linh xấu ở nơi đó có mặt, chúng có thể làm hại bạn. Nếu giọng của bạn quá yếu, những âm sẽ không rõ, thế nên
thần lực của chúng không khởi lên. Hãy tụng chúng
rõ ràng và
tinh chất với
âm thanh ngâm nga của một con ong. Hãy tưởng tượng khi bạn ngâm bài ca của bạn phần riêng mình, tất cả
chúng sanh của sáu cõi đều tụng cùng bạn. Hãy tưởng tượng rằng mọi
âm thanh của lửa, gió, chuyển động và mọi tiếng khác đều ngân vang sáu
âm thần chú. Đó là sự
chuyển hóa những
âm thanh thành ngữ thiêng liêng. Nếu điều đó
rõ ràng, thậm chí một tiếng
đơn độc cũng được nhân lên hàng trăm triệu lần. Đây là
lời khuyên dạy
thực hành để
hoàn thành trạng thái của một bậc thánh với một trăm
thần chú. Nếu điều đó là
rõ ràng, cũng tốt dù nếu bạn không
duy trì sự
im lặng được. Khi bạn đang
nhập thất, cũng là tốt dù nó bị lẫn với nói chuyện, bởi vì tất cả ngữ là
thần chú. Có nói rằng nếu bạn đang
thực hành với xâu chuỗi, điều đó sẽ
đền bù cho những
bỏ sót và lỡ thêm âm.
Nếu sự
thực hành của bạn tốt, khi
bạn thiền định về những điểm này mà không động lìa khỏi
bản tánh của tâm bạn, đó là sự hợp nhất
tối thượng của giai đoạn phát sanh và giai đoạn
thành tựu. Điều đó sẽ xảy ra một khi khởi tưởng xảy ra như
thiền định. Giai đoạn phát sanh là khởi tưởng ; khởi tưởng là tâm ; và tâm là
tánh không. Tâm và khởi tưởng như nước và những làn sóng, thế nên khi sự chuyển động nhỏ nhất này khởi sanh như
thiền định, đó là sự hợp nhất. Nếu sự hợp nhất đó
vượt quá khả năng của những người mới học,
trước tiên bạn cần
thiền định nhất tâm về những
quán tưởng của giai đoạn phát sanh.
Bạn có thể hơi
mệt mỏi vì những
quán tưởng này. Sự yên lặng của tâm trong việc
quán tưởng là định tĩnh. Khi
quan sát tâm của thiền giả, bạn sẽ có một cái nhìn thấy
đặc biệt về
tánh không, nó là không có nền tảng, không đặt nền trong mọi sự ; và đó là
quán chiếu. Hãy an
trụ tâm một cách
vững chắc và bình lặng đến mức độ nào có thể được trong
trạng thái này. Nếu
tư tưởng tuôn chảy
trở lại, hãy
quan sát bản tánh của chúng và để cho chúng
giải thoát tự chính chúng. Đó là kỹ thuật cho những người mới học đã có
kinh nghiệm.
Một khi bạn đã quen với điều này, không còn
cần phải canh chừng theo sự tuôn chảy của những
tư tưởng từ
bản tánh cốt lõi. Như khi bạn
thưởng thức ngắm nhìn một mặt hồ
trong sáng lấp lánh vào
mùa xuân, hãy
quan sát một cách nghỉ ngơi
bản tánh của tâm,
đơn giản và không
xao lãng. Như những làn sóng khởi lên từ nước và tan lại vào hồ, mà không làm hại hồ, dầu có một chuyển động nhỏ khởi lên từ
trạng thái tĩnh lặng, nó không làm hại sự tĩnh lặng ; và nó tan lại vào
trạng thái tĩnh lặng. Một khi bạn đã quen với điều này, dù nhiều
tư tưởng xảy ra, chúng không làm
biến chất sự tĩnh lặng ; mà như những bông tuyết rơi xuống một hồ nước, chúng tan vào
kinh nghiệm của sự tĩnh lặng. Bằng cách tự làm quen với điều này, những
tư tưởng sẽ
xuất hiện như
thiền định. Khi khởi tưởng
sanh khởi như
thiền định, đó là sự hợp nhất của hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu, vì giai đoạn phát sanh là khởi tưởng.
Nếu tâm còn có cái gì để
quan sát, đó là nó đang không thấy
bản tánh của nó. Bấy giờ hãy thống nhất người đang
quan sát và cái được
quan sát. Bấy giờ bạn sẽ có được cái
hiểu biết chắc chắn về một
tánh không chói sáng, an vui, đồng nhất, và sẽ không còn cái gì để bám nắm. Không có cái gì để bạn có thể nói, “Đây là nó”, và không có cái gì để bạn có thể nói, “Đây là thiền định”. Cái này không giống bất cứ cái gì bạn đã
kinh nghiệm trước kia, nhưng
nghi ngờ có thể
sanh khởi. Hãy yên lặng, ngừng
cố gắng, và chỉ
đơn giản không
xao lãng, không có điều gì để làm cả. Khi điều này xảy ra,
bản tánh của thức
bình thường đã được thấy. Nếu tháp canh của
chánh niệm bị mất, bạn sẽ lang thang vào
mê lầm như cũ. Chỉ
đơn giản không mất tháp canh của
chánh niệm không
xao lãng. Đó là nghĩa của lời
tuyên bố của Tilopa :
Nếu
tâm không có đối tượng
có chủ ý, đó là Đại Ấn.
Nếu bạn làm quen và rất
quen thuộc với nó,
thức tỉnh tối thượng sẽ
đạt được.
– Không phải ngồi thẳng lưng, mắt không chớp mà cho đó là
thiền định thực sự.
Đặc biệt có những thiền
giả thực hành giai đoạn phát sanh,
quán tưởng chính họ, môi trường chung quanh và những bổn tôn như là thật có
bản chất ; rồi đến giai đoạn
thành tựu, họ lại
phá hủy tất cả những gì họ đã
quán tưởng. Đây là cách tiếp cận
sai lầm hai giai
đoạn thực hành. Thật ra, hai
thực hành này có cùng một
bản chất. Những
hiện tượng trong những
thực hành đó
xuất hiện, tuy chúng không có
tự tánh. Sự
xuất hiện của chúng và sự không có
tự tánh của chúng, hai cái đó cùng một
bản chất, với giai đoạn phát sanh tương đương với sự
xuất hiện, và giai đoạn
thành tựu tương đương với sự không có
tự tánh, tức là
tánh không. Thật vậy, điều này đúng với tất cả mọi
hiện tượng – chúng
xuất hiện, nhưng
vô tự tánh.
Sự
tiến bộ của hai cách tiếp cận của
thực hành định tĩnh là
thiền định với những dấu hiệu và rồi không có dấu hiệu.
Ban đầu, bạn trau dồi và dần quen với
thực hành định tĩnh với những dấu hiệu, trong khi
mục tiêu cao hơn là
thực hành định tĩnh không có một đối tượng và không có một dấu hiệu. Thiền giả là bạn, và cái bạn đang
thiền định là bạn. Cả hai đều không có nền tảng, nghĩa là
vô tự tánh. Như thế ba thời
quá khứ,
hiện tại,
vị lai, sự
xuất hiện và sự biến mất đều
vô tự tánh.
Sự kiện tâm không có một đối tượng chủ định nữa không có nghĩa là rơi vào
hư vô vô ký. Bạn không trống trơn, mà tâm đang
thiền định như thế phải được
thấm nhuần sức mạnh của
trí huệ –
bản thân tánh giác là
trí huệ. Như một kết quả với sự
quen thuộc với nó, bạn sẽ
đạt được quả của Dzogchen, tức là
Phật quả. –
Nếu
bạn thiền định mà không mất tháp canh của
chánh niệm, đó là
quân bình thiền định (định). Nếu tháp canh của
chánh niệm bị quên mất, đó là
trạng thái sau
thiền định.
Cách tốt nhất để
chống lại những lực lượng
cản trở, tránh sa bẫy, và nâng cấp
thực hành của bạn là guruyoga. Hãy
quán tưởng A Di Đà, Đấng của Bộ
Liên Hoa, như là tháp canh của
chánh niệm trên đỉnh đầu bạn với
tư cách là Bậc
Đại Bi. Thân ngài màu đỏ giống như
san hô, và có mọi dấu hiệu và
tượng trưng của
giác ngộ, với một đảnh
nhục kế. Hai tay ngài trong ấn
quân bình thiền định, cầm một
bình bát đầy
cam lồ. Hãy tưởng tượng ngài trên một
hoa sen và một chỗ ngồi
mặt trăng, hai chân trong tư thế
kim cương. Hãy mời tất cả những vị thầy hàng đầu và
nối dòng, và các vị tan vào trong ngài. Hãy nghĩ đến bất cứ lời khẩn cầu nào bạn biết, hãy tụng đọc, “Con
cầu nguyện A Di Đà pháp thân. Con
cầu nguyện Bậc
Đại Bi báo thân. Con
cầu nguyện Padma-sambhava
hóa thân. Con
cầu nguyện những vị thầy hàng đầu và
nối dòng của con.” Tụng sáu âm theo một lối
cầu xin, hay tụng một chuỗi hột
thần chú vajrasattva, vì đây là
tinh túy của những
cầu xin. Từ sâu thẳm của lòng bạn, không chỉ ngoài môi,
hoàn toàn đặt
đức tin của bạn vào ngài với sự quyết chắc, “Ngài biết tất cả những điều gì xảy ra trong
cuộc đời này, trong những đời tương lai và trong
trạng thái trung ấm”. Hãy làm điều đó với sự
tôn kính và sùng mộ
thành tâm đến độ tóc lông dựng lên và bạn chảy nước mắt.
Mỗi khi bạn
cầu khẩn như vầy, hãy làm theo cách kêu cầu vị thầy của bạn từ nơi xa. Do làm như vậy, những
tư tưởng phân tán bên ngoài sẽ trôi đi, và những
tư tưởng bên trong sẽ
sanh khởi trần trụi như
quang minh trống không. Bất cứ
kinh nghiệm nào
sanh khởi nhờ
thần lực của những
ban phước từ
cầu nguyện theo lối ấy, hãy
duy trì nó. Có nói rằng như một kết quả, sẽ không có một lực lượng
cản trở hay sự sa bẫy.
Bấy giờ đây là cách để nâng cấp sự
thực hành của bạn
dựa vào Bồ đề tâm, từ và bi. Tất cả
chúng sanh trong sáu cõi đã từng rất tốt với bạn vì họ đã là
cha mẹ bạn nhiều lần trong
vô số đời
quá khứ. Như vậy, hãy phát sanh lòng bi mãnh liệt khi bạn thấy rằng họ không có cơ may thoát ra khỏi được khổ đau của sáu cõi. Rồi khi bạn
thở ra qua hai lỗ mũi, hãy tưởng tượng rằng tất cả
công đức và
thiện căn của bạn êm ả tan vào tất cả
chúng sanh ; và hãy tưởng tượng họ
tìm thấy niềm vui và
hạnh phúc vô lượng và có
công đức không
thể tính đếm như là
nguyên nhân của niềm vui. Hãy tụng hoặc bằng lời hoặc trong tâm, “Nguyện tất cả
chúng sanh được đầy đủ niềm vui và những
nguyên nhân của niềm vui.”
Khi
thở vào, hãy tưởng tượng tất cả những khổ đau, cái xấu và những che ám của tất cả
chúng sanh hội tụ và tan vào trong
bản thân bạn.
Hình tướng của bạn như
Quán Thế Âm sáng chói
rực rỡ, như gỗ thêm vào lửa, và tất cả
chúng sanh thoát khỏi khổ đau của
sáu cõi luân hồi. Hãy tưởng tượng rằng họ
thoát khỏi những khổ đau của tất cả những cái xấu và che ám, chúng là những
nguyên nhân của khổ đau. Hãy tụng hoặc bằng lời hoặc trong tâm, “Nguyện tất cả
chúng sanh được
thoát khỏi khổ đau và những
nguyên nhân của khổ đau.” Đó là sự trau dồi lòng bi. Nếu bạn chảy nước mắt vì từ và bi, đó là
đại từ và
đại bi. Nếu bạn có một cảm thức
bình đẳng, không
thiên vị, với tất cả
chúng sanh, đó là
lòng từ vô lượng và lòng
bi vô lượng. Hơn nữa, nếu bạn có thể
thiền định khi ở trong một
trạng thái thực hành không
xao lãng về
bản tánh của tâm, đó là samadhi bẩm sinh vốn sẵn của
đại từ và
tánh không mang
tinh túy của lòng bi. Đây là gốc Pháp của
truyền thống Kinh của
Đại thừa.
Có nói rằng không có gì
sâu xa hơn điều này về việc
hoàn thiện công đức, tịnh hóa những che chướng, và nó như là một bánh xe của sự
bảo vệ. Có nói đến 640.000 Tantra Atiyoga, trong đó mười bảy cái còn
thịnh hành hiện nay. Có mười bảy tantra “con nhỏ”, mười bảy tantra mẹ và con của Loại Tâm,
Tinh Túy của Những Dakini,
Tinh Túy của
Pháp Giới Trong Sáng, Bình Giảng
Tinh Túy của Vị Hướng Dẫn
Tâm Linh và v.v... Nghĩa chủ yếu của tất cả những tantra đó là cái tịnh quang của Nhảy Qua này. Đây là
giáo huấn thực hành về
thức tỉnh mà không có
thiền định, và nó là
giáo huấn thực hành sâu xa về
giải thoát nhờ sự
quan sát. Cái nhìn thấy ánh sáng năm màu này không giống như thấy một cầu vồng ; nó là một cái nhìn thấy
năm trí huệ bổn nguyên một cách trực tiếp thuộc
tri giác. Có nói rằng không có sự khác biệt giữa việc này và việc thực sự gặp gỡ năm bộ Phật. Khác với khi bạn làm những
quan sát đầu tiên, bạn sẽ thấy một sự
rực rỡ lạ lùng. Có nói rằng nếu khi điều đó được
chứng nghiệm, khi những
hội chúng những bổn tôn
an bình và hung nộ
xuất hiện trong
trung ấm,
chắc chắn bạn sẽ
được giải thoát trong
trạng thái đó. Không có
con đường nào ngắn hơn
con đường này. Nếu bạn nhìn ngắm
thường trực, bạn sẽ trực tiếp thấy nhiều bổn tôn
an bình và hung nộ, gồm năm bộ Phật. Có nói rằng khi các vị ấy được thấy, không
cần phải đi qua
trung ấm. Bởi thế, quan trọng là bạn chăm chú nhìn ngắm
thường trực suốt sáng và chiều.
– Nếu bạn muốn tích tập nhiều hơn
công đức để
quán đảnh truyền pháp và nâng cấp sự
thực hành tâm linh của bạn, thì không có cái gì
sâu xa hơn
thực hành tonglen này của guruyoga, trong đó guru thì không chia biệt với bổn tôn đã chọn và bạn nhận lấy sự khổ đau của những người khác và
ban cho họ
hạnh phúc. Nếu bạn muốn xóa tan những che ám của
dòng tâm bạn, không có
phương pháp nào
quyền năng hơn. Nếu bạn chú ý đến những che ám và những lực lượng xấu ác, không có bánh xe
bảo vệ nào
hiệu lực hơn.
Một lần nữa, nhắc đến
giác ngộ mà không
thiền định không có
nghĩa không cần gì cả đến
thiền định. Nó có nghĩa là bạn có
thể đạt đến
giác ngộ rất nhanh chóng.
Cũng thế, khi
thực hành Nhảy Qua, những cái nhìn thấy đến
dần dần khi bạn càng ngày càng quen hơn với
thực hành. –
Buổi tối, khi bạn sắp ngủ, bạn cần đóng dấu ấn niêm với những
cầu nguyện hồi hướng bất cứ
đức hạnh nào bạn đã làm trong ngày. Nếu bạn
hồi hướng bằng việc sự vật hóa người
hồi hướng, đối tượng
hồi hướng, và
bản thân sự
hồi hướng, sự
hồi hướng là có nhiễm độc ; thế nên nó không dẫn đến
con đường thức tỉnh.
Thực hiện một
hồi hướng trong một
trạng thái không
xao lãng khỏi
bản tánh của tâm là một
hồi hướng toàn hảo về cả ba,
tác nhân, đối tượng và hành động ; thế nên nó dẫn đến
con đường thức tỉnh.
Dù Pháp nào hay
thực hành nào, một
kết thúc bằng
lời nguyện hồi hướng với một
tâm không xao lãng chắc chắn sẽ
thành sự thật về sau. Bởi thế, quan trọng là không có hiểu sai trong việc
hồi hướng. Hãy xem điều bạn muốn trong tương lai là một kết quả của sự nhận lãnh những
giáo huấn và của việc dấn thân vào
thực hành. Tốt nhất là hiến dâng chính
bản thân mình, và
cầu khẩn được
phụng sự cho những nhu cầu của
chúng sanh bao giờ
cho đến khi
vòng sanh tử còn
tồn tại.
Có nói rằng trong chư Phật chỉ có một Phật
Thích Ca Mâu Ni, và trong chư
Bồ tát, chỉ có những Bậc
Bảo Vệ của Ba Bộ (Manjushri, Avalokiteshvara, và Vajrapani).
Chúng ta có thể
trở thành các vị không ?
Chúng ta có
sợ hãi những
thống khổ của
sanh tử ? Một người không băn khoăn hay choáng váng trước
viễn tượng sẽ
kinh nghiệm những
thống khổ của sanh và tử nhiều trăm triệu lần, mà
đạt đến thức tỉnh tâm linh trong một
trạng thái hoan hỷ và
hạnh phúc được gọi là một
Bồ tát uể oải, lười biếng, và có nói
Phật Di Lặc là một vị như vậy. Tôi nghĩ rằng không có gì
sai lầm khi
chúng ta cũng làm như ngài. Làm như vậy,
rốt cuộc chúng ta sanh ra trong một
tịnh độ. Dù nếu
chúng ta được sanh ở Potala, Tusita hay Núi
Vinh Quang Màu Đồng, không
bảo đảm chúng ta sẽ không rớt
trở lại. Có nói rằng, người ta không thể sanh trong những
cõi tịnh độ khác như Abhirati
cho đến khi người ta
đạt đến ít nhất sơ địa. Thế nên dù nếu người ta
cầu nguyện cũng sẽ rất khó đến đó.
Những
Bồ tát tình nguyện phụng sự chúng sanh thì không e ngại những
thống khổ của
vòng sanh tử. Ngược lại,
chúng ta sợ hãi sanh tử, nếu
chúng ta muốn
đạt đến thức tỉnh tâm linh trong một
trạng thái hoan hỷ và
hạnh phúc,
không kinh nghiệm khổ đau,
chúng ta nên
cầu nguyện sanh về
Cực Lạc. Nếu
chúng ta cầu nguyện sanh về đó – trừ những tội phải đền đáp
tức thời và sự
từ bỏ Pháp – sự sanh ra ở đó của
chúng ta sẽ nhờ vào
thần lực của những
lời nguyện của
A Di Đà. Nếu
chúng ta được sanh ở đó,
chúng ta sẽ không có chút khổ đau nào, và sự
hoan hỷ và
hạnh phúc sẽ tràn đầy.
Chúng ta sẽ có thể đi một cách diệu kỳ đến Abhirati, Núi
Vinh Quang Màu Đồng, và Tusita (
Đâu Suất), gặp (chư Phật ở đó) và nhận Pháp. Với
tri giác siêu
giác quan vô ngại và những khả năng siêu thường,
chúng ta sẽ có thể dẫn dắt những người có mối
liên kết với chúng ta ra khỏi
trung ấm. Trong
vô số trăm triệu kiếp, không có bệnh, già và chết.
Chúng ta sẽ thấy được khuôn mặt của Phật
A Di Đà và
nghe Pháp.
Vô số đám mây của những đồ
cúng dường sẽ được
hoàn thiện và
chúng ta sẽ
giác ngộ.
Dễ như thế nào việc sanh ra ở đó ? Có nói rằng nếu người ta
cầu nguyện nhiệt thành mười lần, người ta sẽ sanh ở đó. Không có điểm nào
nghi ngờ về chuyện bạn có được sanh ra ở đó hay không. Nếu bạn
nuôi dưỡng những
nghi ngờ, bạn sẽ sanh ra ở cõi
thanh tịnh ấy, nhưng
hoa sen (trong đó bạn sanh ra) sẽ không nở trong năm trăm năm. Có nói rằng trong
thời gian đó, bạn sẽ
kinh nghiệm hoan hỷ và
hạnh phúc, và bạn sẽ nghe tiếng nói của Phật, nhưng không may là có một sự trễ nãi trong việc thấy khuôn mặt ngài. Bởi thế, không chứa chấp những
nghi ngờ, ban đêm khi bạn sắp ngủ, bạn nên
hồi hướng bất cứ
thực hành nào đã làm trong ngày để
tái sanh về đó. Nếu bạn biết, hãy tụng
Cầu Nguyện của
Hạnh Lành và
Cầu Nguyện Cực Lạc, nếu bạn không biết hai bài
cầu nguyện đó, hãy nói, “Nguyện con sanh trong
Cực Lạc !” là đủ. Do làm thế, khi bạn chết – dù bạn có thể
duy trì thực hành hay không, hoặc
thành công trong sự
chuyển di, hoặc
nhận ra hội chúng những bổn tôn
an bình và hung nộ trong tiến trình
quá độ của tự thân
thực tại hay không – hai
tuần sau khi bạn chết, bạn sẽ xác định rằng bạn đã chết ; và trước khi
sứ giả của thần chết Yama đến, và trước khi có lời
phán quyết về những hành động của bạn và những
nghiệp quả của chúng, với
tri giác siêu
giác quan có
nhiễm ô bạn sẽ
ý thức những đời
quá khứ và tương lai và những
trạng thái trung ấm. Bạn sẽ có thể
biểu lộ những khả năng siêu thường khác nhau, và bạn sẽ có
tự do lớn lao để đi đến nơi nào bạn muốn. Vào lúc đó, hãy giữ lấy Phật
A Di Đà trong tâm, và đi đến
Cực Lạc. Không chút
nghi ngờ gì bạn sẽ đến đó chỉ bằng cách nghĩ đến nó.
Ráng
cố gắng không quên nghĩa của Pháp bạn đã nhận bây giờ đây.
Mọi người chắc chắn có thể
thực hành điều này, vì nó là một
bàn luận giản phác của Pháp. Đây là
tinh túy của những
lời Phật dạy, của những kinh, những tantra và những kho tàng
giáo lý. Ồ, bây giờ trong khóa học một tháng này
chúng ta đã
hoàn tất mười tám thời
Pháp chính và mười hai thời Pháp phụ.
– Trọn bản văn này có nhiều
bàn luận phức tạp, khó khăn và cao tột về
Đại Toàn Thiện và Đại Ấn.
Tuy nhiên, những
giáo lý này về
tái sanh trong
Cực Lạc gồm những
thực hành đơn giản và dễ làm.
Bây giờ
chúng ta đã
hoàn tất những chương phụ trong ba mươi
thời giáo lý của Karma Chagmé, và tôi muốn có một ít
nhận xét kết luận. Chớ
cố gắng với những
thực hành quá tầm với của mình. Quan trọng là
nhận thức của bạn ở mức độ
thực hành nào và rồi dấn thân vào đó. Sự
thực hành cầu nguyện sanh vào
Cực Lạc cũng thế. Chỉ bằng
cầu nguyện được
tái sanh trong
Cực Lạc,
chúng ta được
bảo đảm điều đó sẽ xảy ra. Bốn
truyền thống Phật giáo Tây Tạng đều
đồng ý điều này, và nó được
rộng rãi chấp nhận trong
Phật giáo Trung Hoa và
Nhật Bản.
Hoàn toàn không có
nghi ngờ gì về điều này. Làm những
cầu nguyện như thế, khi
chúng ta chết,
ít nhất chúng ta cũng có thể
hoàn thành sự
an toàn hạnh phúc cho riêng
chúng ta, và thậm chí có thể
hoàn thành hạnh phúc cho những người khác. Dù bạn là một vị thầy hay một
học giả,
địa vị xã hội cao hay thấp, giàu hay nghèo, một người ăn xin hay thậm chí một người khờ dại, không có ai có thể nói là bạn không thể đến
Cực Lạc. Những ngày hôm nay có nhiều
bàn luận về
nhân quyền. Trong tất cả mọi
nhân quyền, quyền đi đến
Cực Lạc là cái vĩ đại nhất ! –
May mắn thay có sự
hiện hữu của Acarya Padmasambhava !
May mắn thay có sự
hiện hữu của Bậc
Đại Bi !
May mắn thay có
đại dương những vira !
May mắn thay có
đại dương những dakini !
May mắn thay có
đại dương những
hộ pháp đã
thề nguyền !
Rồi làm những
cầu nguyện hồi hướng bài dài. Hãy nói lên những
bài kệ tán thán, rải hạt từ tay bạn, điều này
kết thúc thời Pháp này.
Kỳ diệu thay ! Đây là một tổng hợp
ý nghĩa của tất cả Kinh và Tantra của những trường phái Tân và
Cựu Dịch.
Đây là một tổng hợp của những
ban phước của Tân và
Cựu Dịch và những
giáo lý kho tàng.
Đây là một tổng hợp của những
thực hành của tất cả những
giáo huấn cốt lõi của Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện.
Đây là một tổng hợp những trích dẫn từ
toàn bộ đại dương của những kinh và những tantra.
Đây là một tổng hợp của những
tham thiền của tất cả vidyadhara và siddha.
Đây là một tổng hợp của những
thực hành của tất cả những người
căn cơ cao và thấp.
Đây là một tổng hợp của tất cả những
hệ thống triết học,
vượt qua hết thảy chúng.
Nhờ
thần lực của lòng
bi Quán Thế Âm,
Cái này được
kết hợp hoàn hảo bởi Raga Asey,
Nhà
tham thiền về Bậc
Đại Bi trong những
thời suy đồi này.
Bhiksu Tsondru đã viết ra.
Bất cứ những sự thiếu
nhất quán,
lỗi lầm hay khuyết điểm có thể có trong này,
Tôi
sám hối với
hội chúng những bổn tôn của
Tam Bảo.
Do
công đức tạo luận, nguyện cho tôi, người chép,
Và
mọi người tìm thấy một nối kết với những
giáo huấn này
Hưởng tuổi thọ và
sức khỏe tốt
trong đời này, và mong những
chứng ngộ qua
kinh nghiệm của
chúng tôi tăng trưởng.
Khi tới lúc đi ra khỏi đời này,
Nguyện
chúng tôi được
tái sanh kỳ diệu trong cõi
Cực Lạc,
Không có
đời nào khác
đi vào những chốn nửa chừng.
Bấy giờ nguyện
chúng tôi làm
hài lòng Bậc
Bảo vệ Amitabha bằng cách
cúng dường,
Và trong
hiện hữu thân thể đó nguyện
chúng tôi trở thành giác ngộ.
Một khi
chúng tôi đã
hoàn toàn giác ngộ,
Nguyện
chúng tôi lưu xuất để
đáp ứng những nhu cầu của
thế gian đến
chừng nào không gian còn
tồn tại.
Đối với mỗi phẩm tính của mỗi thân lưu xuất,
Nguyện
chúng tôi có
uy lực như một tỷ Vajrapani,
Trí huệ tối thượng như một tỷ Manjushri,
Những khả năng siêu thường như một tỷ Padmasambhava,
Và khả năng thống nhất để
đáp ứng những nhu cầu của
thế gian như một tỷ Avalokitesvara.
Nguyện dòng
giáo lý của những
giáo huấn này và những
khẩu truyền của chúng,
Ngày càng
tăng trưởng, và trong sáu trăm năm
Nguyện chúng không
suy vi, mà lớn mạnh và nở hoa
thịnh vượng.
Nguyện hải hội của chư
Hộ Pháp đã
thề nguyền, gồm cả Ekajati và Mahakala,
Làm phát triển Pháp này và làm nó hưng thịnh.
Xin hãy
bảo vệ những người
thực hành Pháp này !
Nguyện hải hội những bổn tôn
sung túc, gồm cả Vaisravana,
Cung cấp những thứ
cần thiết của cuộc sống cho những người
thực hành Pháp này.
Nguyện những
chúng hội của (mười hai) drïdïha, (mười ba) anh em thần rừng, (hai mươi mốt) upasaka, và những thần địa phương
Làm phát triển Pháp này và giúp nó hưng thịnh.
Chớ
vi phạm thề nguyền xưa kia và samaya của các vị.
Về sự chỉ dạy,
suy nghĩ và
thiền định về Pháp này,
Nếu có những
kẻ thù, những lực lượng
ngăn cản, hay những người hướng dẫn
giả mạo tạo ra những nhiễu loạn,
Và người nào làm
biến chất Pháp này với những tạo tác
của riêng họ,
Hãy
trừng phạt họ
tức thời và
nghiêm khắc !
Thần lực của
đại dương những
Hộ Pháp đã
thề nguyền có
hiện hữu hay không ? Vào lúc này tôi sẽ
trông chờ, thế nên hãy nhớ điểm này trong tâm.
Trong những
giáo huấn này những
ban phước có hay không ?
Hãy
thực hành như bạn được dạy trong luận văn, và điều đó sẽ
rõ ràng.
Cái này có
tương hợp với nghĩa của những kinh và những tantra hay không ?
Hãy nhìn xem
rộng rãi vào những Dịch Phẩm Tân và Cựu và những
giáo lý kho tàng.
Hãy nhìn theo sự
thực hành của những giai đoạn phát sanh và
thành tựu.
Một vài người bạn có
thành kiến và có
hiểu biết ít phần
Có thể
chỉ trích cái này,
Nhưng tôi không
ân hận, những kinh và tantra là người làm chứng của tôi.
Nguyện
vinh quang của
dịp may chiếu sáng, và nguyện cái này là một
trang hoàng cho
thế giới !
Mangalam !