CÕI THƠ THIỀN SƯ HUYỀN QUANG
Như Hùng
Có thể nói khởi đi của thơ bắt nguồn từ thi kệ. Hầu hết
thiền sư đều là những nhà thi sỹ vĩ đại. Ở đây thơ được hiểu là sự tuôn trào không
biên giới khi chọc thủng vào tận cùng đối tượng, đẩy nó bay bổng ra ngoài
suy
tưởng để vụt khởi. Chặng đường nầy không khởi đi
từ ý niệm, bởi lẽ
ý niệm không bao giờ rượt kịp theo đối tượng, có thể
ý niệm phủ trùm và quyết đoán về một cái gì và điều ấy không hẳn là đối tượng. Khi đề cập về cái gì, tức còn đứng bên ngoài để nhìn ngắm, như vậy chỉ mới trông thấy
bóng dáng giả hợp trãi dài của sự vật. Đây là lối mòn thông tục thường
xuất hiện ở trong ta, nếu đứng từ ngoài thì làm sao trông thấy được
bản thể linh hiện của từng hiện hữu? Nhất là những
ý niệm được dựng
nên từ sự suy tư trong
ý niệm, thì kết quả sẽ trái ngược, vì trong
ý niệm không có cái gì
hoàn toàn bất biến,
bản chất của nó vốn đong đưa
biến hóa và
không thật.
Thơ, không phải sự khởi đi
từ ý niệm móng
động. Nhờ
vận hành phục hoạt của đối tượng đẩy thẳng, đập vào khiến nguồn thơ chợt trổi dậy, bởi lẽ những dong ruổi của nó không còn khoảng trống để đối tượng có thể
xen vào ngự trị. Trừ khi sự dừng lại để nguồn thơ
xuất hiện, điều nầy càng
tố giác chính đối tượng là môi năng khiến thơ vụt khởi. Tuy vậy hai thể đó không tách rời ra để
tồn tại, hoặc phải
bám vào một trong hai lối. Thông thường nương vào
ý niệm để bài thơ hình thành, điều nầy
diễn tả phần nào về đối tượng và hẳn
nhiên không hoàn toàn biến thành đối tượng,
nếu không vứt đi
quan niệm khởi đầu. Chỉ
khi nào
đạt được sự thể nhập
vô cùng của
tâm cảnh, cuả trong ngoài, có không, của
bất nhị, nó mới trỗi dậy làm cuộc
lên đường về nơi
vô tận.
Những
đào khoét cùng quẩn trong
thế giới hiện tượng, chỉ là sản phẩm
đơn thuần cọ xác giữa
ý thức tạo nên. Truy tìm thật thể của
thực tại vẫn còn
là điều
bí mật, bởi lẽ
thực tại vốn hằng viễn, uyên nguyên theo nghĩa phong kín
vô ngôn, không dùng đến
suy luận của
ý thức.
Thực tại là
vô cùng,
vô ngôn, thống hận hay là sự nở hoa của cuộc đời?
Đâu đó đang chớm
nở trong ta, trong sự câm nín nào đó của thơ. Một bài thơ hay nhứt là bài thơ ấy không bao giờ được viết nên lời, hoặc hình thành
từ ý niệm. Nó
thể nhập trọn vẹn vào sự vật, không bị uốn nén trong
phạm trù sai biệt của
ngữ ngôn, khiến mọi
cơ năng rung động mãnh liệt bay bổng ra ngoài.
Dĩ nhiên nếu không nương vào
ngữ ngôn nó sẽ không tựu nên, dù ở những dạng thái câm nín, khó có kẻ cảm nhận. Bởi lẽ nó không khởi đi từ
quan niệm cố hữu, trong việc trông thấy
thực thể về một
thực tại thoát ly ra ngoài tầm nhìn
phiến diện. Có những nhà thi sỹ
suốt đời ẩn mình trong
thâm sơn cùng cốc, vui với gió nội mây ngàn, gởi đến
nhân gian lời
thơ vút qua trong mỹ cảm, của từng chớm nụ, bặt ngôn trọn ý. Nhưng có ai bảo
cuộc đời của họ không phải là một bài thơ? Chỉ có đất trời mới cảm nhận được lời thơ phong kín
vô ngôn nầy. Nó lãng đãng bay theo mây trời, phủ trùm lên núi đồi,
nhân gian, cây cỏ. Thơ là cái gì đẹp nhất, có mặt trong tận cùng của an vui hoặc tột cùng của khổ đau. Một khi chất
liệu thơ tuôn trào, nó được vận chuyển qua từng thực trạng,
tùy theo mức độ cảm nhận, trăn trở của thi nhân. Cưộc đời
nếu không có thơ tô điểm sẽ trở nên
vô vị, nhưng nếu dùng
vô vị đó để làm thơ, thì sẽ
gieo rắc khổ đau,
đen tối thêm cho đời, như thế vô tình ta phản lại
ý nghĩa uyên nguyên của thơ rồi vậy.
Ngữ ngôn chỉ là
phương tiện chuyên chở
bóng dáng trãi dài của
ý thức, khi
ý tưởng bắt đúng cung bậc thơ sẽ tuôn trào. Nhưng
ngôn ngữ không
hoàn toàn khai mở đúng mức về thực trạng
linh hiện
ẩn mình trong từng hiện thể. Dù
quyền năng của thơ có thể đưa
sự vật đến ngưỡng cửa
biến dạng, nhưng không có nghĩa truy
tìm ra uyên nguyên,
ban sơ,
vô cùng của nó. Nếu chưa biến mình hòa cùng sự vật, sống
và thở như chính nó, thì chẳng bao giờ tóm thâu được
ý nghĩa chung cuộc. Khi nào còn vận dụng đến
tri thức so đo, tính toán,
sai biệt, chưa
có cơ may lọt hẳn vào tận bên trong, chưa
thể nhập vào
vô cùng, ta vẫn là kẻ đứng ngoài cuộc chơi. Những gì còn đứng từ bên ngoài để nhìn, để ngắm thì sẽ không bao giờ
tìm thấy được
giá trị hiển nỡ của từng siêu thể vắng bặt
ý ngôn.
Thiền
phục hoạt và
tác động như một nghệ thuật, kiến chiếu vào
tự tánh để
giác ngộ vụt khỏi. Đây không phải điều còn nằm trong đo lường của
ý thức, và được hiểu như
biểu tượng nổ lực của
tư duy,
thể nhập vào tận cùng từng
hiển hiện,
thoát ly ra ngoài
suy tưởng. Sự thẩm đinh nầy nếu có,
chắc chắn không có
bóng dáng của
ý niệm sai biệt. Bởi lẽ cách nhìn để khơi dậy Thiền thi không nằm trong lối mòn
thông tục và càng không đi qua tâm ý
suy luận, dù
xuyên qua cửa ngõ nầy. Khi thơ được tuôn trào không nằm ở khuôn mẫu, hoặc
biên giới cố định , nếu lôi kéo chèn ép thơ vào định ước, hồn thơ sẽ ai oán
não nề. Điều
rõ ràng nhất, khi nghệ sỹ muốn hình thành lời thơ, nếu dùng đến óc
năng động dệt nên, thơ sẽ tràn ngập những dong ruỗi của
ý thức, và
gieo rắc hoang tưởng vào kẻ
tiếp nhận.
Thông thường, khi rung cảm bắt gặp đối tượng khiến thơ tuôn trào, không có nghĩa ta truy
tìm ra những linh hiện nằm trong
thâm sâu của từng hiện thể đó, cho dù mức độ
suy tưởng của ta
dồi dào phong phú đến độ
dư thừa, chỉ càng làm cho ta
chết chìm vào sự hưng động đó mà thôi. Làm sao để hình thành bài thơ
đạt đến sự
tự do đúng nghĩa của siêu nghệ thuật? Một bài thơ mà kẻ
tiếp nhận bỗng chốc thoát ra ngoài
mộng huyễn tử sinh?
Đối với những
Thiền Sư,
vấn đề nầy khác biệt ở những phân định để
nhận ra từng biến hiện. Trước hết cách nhìn
sự thể được chiếu rọi, sáng soi bởi con mắt
trí tuệ,
tỉnh thức, một sự đào khoét
thẩm định vi diệu mà ngay sự vật cũng không
hề hay biết. Từ trong tận cùng nào đó của thời không, vút qua ngưỡng cửa màu
sắc âm thanh,
đi vào nơi
vĩnh cửu. Ở đó không còn vướng bận mà
thoang thoảng như hương quyện với đất trời, cây cỏ. Còn lại những vần thơ
bất diệt và sự
bất diệt nầy không có mặt trong
ngữ ngôn. Nó hòa lẫn với đất trời, ngự mãi trong cõi
mênh mông xa vắng. Vẫn còn đó những huyền lực linh hiện của thơ chìm ngập trong
vô cùng, phong kín
bí mật muôn đời của có không
tự tại, trong dòng
luân chuyển của
nhân sinh, một
bí quyết không thể nghĩ bàn.
Thiền Sư Huyền Quang (1254-1334) tổ thứ ba của Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử, được kể như một nhà thi sỹ lớn trong nền
thi ca Việt Nam và
Phật Giáo, những bài thơ của ông
phảng phất
hương vị
thanh thoát, chìm lặng trong
vô cùng. Dưới đây bài thơ Hoa Cúc
được ông
sáng tác khi tuổi về chiều nhưng lời thơ hàm chứa sức sống linh hiện trào dâng.
Đường nhà Tưởng Hủ tre reo gió
Vườn cảnh Tây Hồ đẹp nét mai
Nghĩa khí chẳng đồng, tình chẳng hợp
Cúc hoa nở sáng khắp vườn ai
Ngàn sông không đủ thấm lòng già
Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa
Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn
Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta
Quên thân quên thế thảy đều quên
Thiền tọa giờ lâu lạnh thấm giường
Trong núi năm tàn không có lịch
Thấy hoa cúc nở:
tiết trùng dươngNăm năm nở đúng tiết thu qua
Gió diụ trăng thanh ý
mặn màCười kẻ không hay hoa
huyền diệuKhi về, mái tóc dắt đầy hoa.
Người ở trên lầu, hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nở tung.
Phương phi xuân sắc trắng hay vàng
Thời tiết tuỳ loài hợp sắc hương
Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Đông hoa cúc vẫn chưa tàn.
Nguyễn Lang dich
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1 ( trang 371)
Ghi chú: Tưởng Hủ và Tây Hồ là hai vị xử sĩ, một người ưa chơi trúc, một người ưa chơi mai.
(Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sanh kính
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên xứ xứ thổ hoàng hoa
Thiên giang vô mộng cán khô trường
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khứ sầu ngâm hồn vị ổn
Thi biều
thực vị cúc hoa mang
Vương thân vương thế dĩ đô vương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc
hoa khai xứ tức trùng dương
Niên niên hòa lộ hướng đương khai
Nguyệt đạm
phong quang thiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai
Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
Xuân lai hoàng bạch các
phương phiÁi diễm liên hương diệc tự thì
Biên giới phồn hoa toàn truy địa
Hậu điêu
nhan sắc thuộc đông ly)
Cái
phảng phất mênh mang chìm khuất trong
vô cùng đó, được thi sỹ
Huyền Quang đưa vào khung
cảnh huyền nhiệm, khơi dậy vẽ đẹp muôn màu của hoa cúc.
Huyền Quang yêu nhất là hoa cúc,
đành rằng đã là thi sỹ ai lại không yêu hoa bao giờ? Nhưng đối với
Huyền Quang thì khác, cung cách
thưởng ngoạn và
diễn tả về thơ cuả ông đều
cách biệt. Ônng vẫn tự thú" Lòng thơ qủa thật
bối rối vì yêu hoa cúc" (Thi biều
thực vị cúc hoa mang).
Như cô gái
e lệ mới bước vào tình yêu, có nỗi gì vương vấn,
xa xăm không cất nên lời, đành yên lặng để từng nhịp yêu chớm nụ
lặng lẽ bước qua
tâm hồn. Nhưng với
thiền sư thi sỹ thì
nỗi lòng bối rối
nầy khác hẳn, và không
đơn thuần như sự
rung động ở những thi sỹ, dù
trạng thái vẫn như nhau. Bởi lẽ điều hẳn nhiên dù qua cách nhìn
Huyền Quang như một thi sỹ đi nữa, thì những ẩn mang,
cốt cách trong lòng của ông đều được hiểu như sự
tác động linh hiện chìm khuất trong mỹ học của thiền. Nó
phảng phất ,tràn gập dù cho những
cảm xúc tột cùng của
con người thi sỹ đơn phương nơi ông trổi dậy, cũng không thể tách rời ra. Những
thiền sư là những nhà nghệ sỹ, được hiểu theo
nghĩa không bận lòng
và nếu có, thì cái vướng ấy khởi động cho
thi ca tuôn trào,
đâu đó bổng
chốc
đi vào hư vô quên lãng, để rồi chìm khuất trong tịch mịch cô liêu,
chỉ còn lại lời thơ vang vang về nơi
vô tận.
Điều khác nữa,
nếu không có những rung cảm
tuyệt vời, gấp trăm ngàn lần những rung cảm thường tình, thì sẽ không bao giờ mở được cánh cửa
giác ngộ và
nếu không
khơi dậy quả tim nhạy bén thì ta sẽ chết ngộp trong những thường nghiệm
thông tục ở
cuộc đời. Bởi lẽ, sự
rung động tuyệt diệu chỉ được
tìm thấy
trong tận cùng của những vén mở, đập phá bằng những
công lực khác. Đó là sự
rung động trong tận cùng
rung động, và để chết trong
rung động, chỉ có lúc chết đó ta mới
tái sinh ra một thứ khác, đó là sự
rung động đã
gạn lọc, còn laị tinh yếu, cốt tuỷ phủ trùm qua thời không. Từ đó ta xác quyết lại cung cách và sự huân trưởng trong những
thiền sư thi sỹ, với
bản năng thường nghiệm để dệt vần thơ, không lúc nào là không sống
trọn vẹn minh mẫn trong từng
hơi thở của đối tượng, một sự hòa nhịp, sống bằng sự sống nơi sự vật, từ đó
biến thành ngôn ngữ thi ca, trải bày
hương sắc ươm mật trong vườn hoa Thiền.
Với
Huyền Quang cung cách ngồi ngắm hoa cúc nở, giống như khi ông
ngồi thiền, tất cả kỳ bí và
đi qua quá trình
tư duy,
chiêm nghiệm trọn vẹn hình hài, hương sắc của từng
biến động. Những diễn biến ấy đều không
thoát khỏi tâm thức,
tuệ nhãn của ông. Trong Thiền điều quan trọng, không có đối tượng để thiền và người
tu thiền. Với hoa cúc
cũng thế, ông ngồi ngắm
cho đến khi thấy người ngắm hoa và hoa hai thể ấy bổng nhiên hòa lại làm một, như đóa hoa
vừa mới nở tung,
hiển lộ trọn vẹn về thực trạng huy hoàng,
chớp nhoáng phủ trùm lên thời không. Cách ngắm hoa của ông thật
thú vị, hoa dưới sân
người ở trên lầu, ông
thắp hương trầm,
mùi thơm thoang thoảng bay
phảng
phất, đưa hồn thơ quyện với đất trời, khơi dậy
hình hài hương sắc của hoa, và ai đó đang từ từ đưa vẻ đẹp ấy chôn chặt, gõ vào tận cùng như một thứ
công án, khơi dậy
bản thể tịch nhiên, làm tan đi những lo toan vướng bận
u sầu.
Đối với
Huyền Quang, cúc là bạn đời
muôn thuở, chỉ có hoa cúc mới làm cõi lòng lặng yên, điểm tô hương vị cho
cuộc đời,
và vơi đi những
phiền lụy. Trong vườn
đâu đó ông trồng toàn hoa cúc, ông đánh gía "
so sánh với muôn hoa thì cúc đứng đầu".
Phải chăng đó là một thứ
công án không được chứng ngôn bằng ngôn từ? Tất cả tâm huyết và
thân mạng, dồn hết để khơi dậy một cái gì, dù điều đó ngắm hoa, trồng hoa đều có thể trở nên
giác ngộ. Nếu
so sánh với những
công án khác, nó ngang bằng
với nhau. Điều quan trọng, kẻ
dụng công có
thành ý đúng mức hay không? Có vén mở
thực tại bằng sự quật tung ở bên trong?
Khi
Huyền Quang hái hoa, cung cách nầy
tiềm ẩn cả khung trời thơ mộng triết lý, ông hất tung chứng bệnh thông thường ở trong ta, đó là luôn níu kéo nắm bắt những gì mình
ham muốn, với ông thì khác hẳn.
"Phải đâu ham ngắm mà hái hoa
Muốn mượm màu xuân nguôi bệnh già"
(Chiết lai bất vị già thanh nhãn
Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông)
Một
sự khác biệt không tách rời
thực tại, ông đặt vào khung cửa
hiện hữu trong
muôn vàn cái không,
hình ảnh ông nhắm đến, sự
phân chia giữa có không, giữa gìa trẻ, hể còn thanh xuân màu hồng luôn ngự trị, khi gìa đến thì đong đầy héo hon, sầu mộng, sắp bước vào
thế giới của ly biệt
não nề. Mượn
hình ảnh trên có phải ông muốn lật trái một cái gì? và điều
ấy có phải sự tham đắm vào
thời gian như
hình ảnh của xuân và già? Chắc
hẳn là không, bởi lẽ câu đầu tiên xác quyết
vị trí rõ rệt trong ông rồi, không vì "ham ngắm mà hái hoa". Như thế
phải chăng Huyền Quang vén mở cho ta
bí quyết không thể nghĩ bàn của
mùa xuân miên viễn ngự trị? Như cành mai
bất diệt của
Mãn Giác thiền sư mà ta đã bắt gặp:
"Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai"
( Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai)
Huyền Quang được kể như một nhà thi sỹ vĩ đại. Bài thơ được
truyền tụng nhiều nhất là bài " Xuân nhật tức sự" có người dịch:
Giai nhân đôi tám ngồi thêu
Tử kinh hoa nở oanh kêu rộn ràng
Đáng yêu xuân ý
muôn vànMỗi lần đụng mũi kim vàng lặng thinh.
(
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh
hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì)
Bài
thơ qủa thật hay
tuyệt diệu, đến độ có người
hoàn toàn phủ nhận,
ngôn ngữ khẩu khí
thi ca đó là của
thiền sư. Lê Qúy Đôn khen bài thơ hay nhưng ghi chú thêm" hình như chẳng phải khẩu khí của thiền sư" (Thi tuy giai phi tăng
gia ngữ) một
sự thật quá phủ phàng. Cách nhìn và cách hiểu
hoàn toàn tuỳ thuộc vào từng đối tượng, vì thế cách
đánh giá theo đó cũng khác nhau.
Ngôn ngữ nào không phải
ngôn ngữ của Thiền? Nếu đã là
Thiền Sư đúng nghĩa, dù
diễn tả hay yên lặng, đều ngầm chứa
bóng dáng cuả thiền
phủ quyết,
nếu không có cách nhìn để
hiển lộ thì không bao giờ
trông thấy được vẹn
toàn thể tính. Qua
biểu tượng và
ngôn ngữ đó,
nếu không phải khẩu khí cuả
thiền sư, khó
diễn tả nên vẻ thơ mộng
thanh thoát như vậy. Không phải từ những
cảm hứng cuả thiền
thôi thúc, ắt hẳn không có dấu vết cuả thiền
phảng phất, một sự lặng thinh vượt ra ngoài
biến động, rộn ràng cuả tiếng oanh kêu và
lúc ấy tử kinh hoa nở. Hai thể
ấy bỗng chốc bắt gặp hoà dậy đồng lúc, như sự gãy mổ đúng
thời cơ của những tra vấn mãnh liệt trong thiền.
Trong sách Tam Tổ Thực Lục
vào khoảng cuối đời Trần, ghi lại
câu chuyện Huyền Quang dính líu tới một
cung nữ. Vua Trần Anh Tông muốn
thử lòng Huyền Quang mới sai Điểm Bích một
thiếu nữ trẻ đẹp,
thông minh đến lập kế,
kiểm tra giới đức của ông. Theo lời thuật lại cuả Điểm Bích,
Huyền Quang đã lưu nàng lại một đêm, tặng cho nàng kim tử cuả vua ban và ngâm cho nàng nghe một bài thơ Nôm như sau:
Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hòa tươi tốt cảnh hòa xinh
Mâu
Thích Ca nào thử hữu tình!
Sách
Tam Tổ Thực Lục viết tiếp,
cuối cùng nhờ trời đất
minh oan, vua Trần Anh Tông biết những lời của Thị Bích là biạ đặt.
Câu chuyện đó
đến nay vẫn đong đầy trong tâm khảm của
mọi người, như sự câm nín nào đó của
thi
ca.
Dầu vậy bài thơ trên vẫn chuyên chở khí vị của thiền, câu đầu tả ánh trăng mai phơi sắc lung linh lấp lánh trong sương khuya mờ phủ và từng cơn gió nhè nhẹ lùa qua khóm trúc, cất lên những tiếng ca vang vọng
trong đêm trường cô tịch
huyền ảo. Nếu bài thơ trên thoát từ khẩu khí của
thiền sư vẫn tràn ngập hương vị thiền.
Hình ảnh yên lặng toả chiếu của ánh trăng và sự
rì rào lay động của cơn gió, như hai
thế giới động và tịnh thường
xuất hiện ở trong ta. Hai câu dưới đúc kết
trọn vẹn sự thể nhập của người vào cảnh, đó là chặng đường toàn triệt trong những
dụng công về thiền qua cửa ngõ
tâm cảnh,
thích ca,
hữu tình,
chúng sanh.
Huyền Quang phá vỡ, xóa nhoà
biên giới của
nhị nguyên,
sai biệt.
Điều
rõ ràng, sau đó qua cuộc mở
đại hội Vô Già vua thỉnh
Huyền Quang làm
chủ lễ,
đức độ và
công phu tu hành của ông đã gây
cảm động đến đất trời và ông được
minh oan. Có thể bài thơ đó được
Huyền Quang ngâm vào một đêm khuya bất chợt nào đó, khi dòng máu thi sỹ len lõi qua
tâm hồn, nhưng biết đâu Thị Bích cố tìm cơ hội nên
nghe được và
thêm thắt vào để
câu chuyện hấp dẫn hơn. Nếu đó là
câu chuyện huyền sử,
hoang đường thì
dụng tâm của người đặt ra nó không hẳn là
vô cớ. Nếu truy tìm căn nguyên
bản chất thi ca, có lẽ một
Huyền Quang thi sỹ vẫn ngang bằng với một
Huyền Quang thiền sư. Bao nhiêu cung nhịp rung cảm để tạo nên
giác ngộ và
thi ca được
Huyền Quang cân bằng với
ý lực khơi dậy
bóng dáng thật thể ngay trong từng hiển nở, dù những
cảm xúc tuyệt diêụ ấy là hoa cúc hay sự thường nghiệm. Vì lẽ cả hai đều
xuất phát từ tâm năng của
Huyền Quang và tâm năng đó đã quy hướng về một lối
duy nhất đó là thiền.
Huyền
Quang hay buồn và
cảm thấy cô đơn, nhưng cái buồn và
cô đơn ấy vẫn khác
hẳn điều ta hay bắt gặp. Ông buồn là chưa
tìm ra được người xứng đáng
kế thừa sự nghiệp lãnh đạo Giáo Hội Trúc Lâm. Có điều ta cần
ghi nhận khi ông
lãnh đạo giáo hội Trúc Lâm lúc ấy ông đã 77 tuổi. Với tuổi về chiều đó làm sao ông có thể
cáng đáng những
trọng trách vô cùng quan trọng, với
vai trò lãnh đạo tối cao. Ông
chán ngán việc ngoài đời, không
muốn quan hệ với vua quan trong triều, ông ở yên trên núi
Côn Sơn vui với gió nội mây ngàn, với hoa cúc nở giữa đêm trăng
huyền diệu. Dưới đây
ta thử đọc bài thơ Sơn Vũ (chùa núi).
Gió thu đêm vắng thổi hiên ngoài.
Chùa núi im lìm gối cỏ may
Đã được
thiền tâm thành một khối
Rè rè tiếng dế gọi kêu ai?
(T.T. Thích Thanh Từ dịch)
(Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
Dĩ hĩ thành
thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thùy đa)
Hình
ảnh đẹp nhất sự thúc dục rộn rã của tiếng dế trong đêm trường như mời gọi, nhắn nhủ cùng ai. Từng cơn gió thu trổi dậy,
mang mang lay động
lướt qua là một
hình ảnh não nùng và hàng hiên thững thờ, im lìm nghe đâu đây qua
tiếng gió vi vu, nĩ non vọng về, như thận phận cuả
kiếp người mãi luống trôi. Độc đáo nhất
xuyên qua những
cảm xúc thường tình đó,
bóng dáng cô tịch của ngôi chùa im lìm gối lên cỏ may, xác quyết về một
thực tại huy hoàng muôn đời vẫn thế, bất khả phân ly nơi
dòng tâm,dòng đời, qua đó ta thấy mức độ
chứng nghiệm nơi ông. Mặc cho phiến động ba đào, tâm ấy bặt yên không lay động,
trạng thái nầy
vô cùng tuyệt
diêu nhờ sự hợp
nhất thành một khối mà câu dưới của bài thơ đã
phán quyết.
Bài thơ Thạch Thất dưới đây
mở rộng phương trời triết lý thơ mộng trong ông.
Nữa gian nhà đá lẫn trong mây.
Một mảnh áo lông trãi tháng ngày
Tăng ở trên giường kinh tại án
Lò tàn hương lụn
mặt trời lên
(T.T. Thích Thanh Từ dịch)
(Bán gian thạch thất hòa vân trụ
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn
Tăng tại
thiền sàng kinh tại án
Lò tàn cốt đột nhật tam can)
Đẹp
nhất và còn đó, nữa gian thạch thất lẫn khuất trong mây, trơ gan cùng tuế nguyệt và nữa kia chôn mình thật sâu trong lòng đất hoang lạnh, đếm
thời gian lặng lẽ trôi qua, như một thách đố
thâm diệu về thời không.
Hình ảnh đẹp vẫn là "một mảnh áo lông trãi tháng ngày". Dù
thời gian có trôi, dù cõi lòng tái tê hay ấm áp, ngày lai ngày qua, đêm laị đêm đến, vẫn không hơn không kém. Độc đáo hơn nữa hai câu cuối cuả bài thơ như hai điểm không cùng, tách ra ngoài vật thể. Nhưng
cuối cùng ánh sáng cuả
mặt trời, cuả
giác ngộ tỏa chiếu, xô đẩy tất cả tàn rụi.
Bài thơ
Huyền Quang diễn tả dưới đây lật ngược vị thế
mùa xuân. Thông thường khi
mọi người nô nức đón chào chúa xuân, họ thi nhau
ca tụng vẽ đẹp của nàng xuân, nhưng qua lời thơ của ông, cảnh sắc của xuân trở nên
mông quạnh nhạt nhòa. Có phải ông nhắn bảo về
thực tại hiển nhiên, giữa
ý niệm mua vui của
kiếp người, sự có mặt của
vô thường lẫn khuất quanh đây? Hay tâm trạng của ông như thế?
Tình quê cỏ dại khói mây nhòa
Quán bắc cầu nam bóng xế tà
Xuân vắng chủ tiếc thơ không tứ
Gió xuân buồn rượi mấy chùm hoa.
( Ngô Linh Ngọc dịch)
(Hoang thảo tàn yên dã tứ đa
Nam lâu Bắc quán tịch dương tà
Xuân vô chủ tích thi vô liệu
Sầu nguyệt Xuân phong kỷ thụ hoa)
Không
phải
ngẫu nhiên Huyền Quang yêu thích
mùa thu.
Mùa thu vẫn là đề tài nóng hổi trong thơ của ông. Cảnh thu buồn
mang mang,đơn côi, gió thu lạnh lẽo như tâm trạng
hoang vắng sầu đau của
kiếp người. Tình thu tái tê giá buốt như chiếc lá vàng rơi
cô độc trong gió.
Phải chăng đó là
hình ảnh cô đơn khủng khiếp cuả kiếp người? Tuy vậy
cô đơn mà còn có cơ hội nhìn ngắm nỗi
cô đơn của mình, để rồi tạo nên những vần thơ, âu đó cũng là điều
tuyệt diệu. Những vần thơ trong bài "Đầu thu"" rất hay và đẹp.
Hương đêm mát diụ bình phong lạnh
Xào xạc thu sang lá động cành
Trúc đường
thong thả hương vừa đốt
Cành cây giăng võng lọt trăng thanh.
Nguyễn Lang dịch
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1 ( trang 372)
(Dạ khí
phân phương nhập họa bình
Tiêu tiêu đình tọ báo
thu thanhTrúc Đường vong thích hương sơ tẫn
Nhất nhất tùng chi võng
nguyệt minh)
Còn đây là bài "Đi thuyền" mà âm vang của sóng nước, sánh nhịp cùng bước đi của chị Hằng, in dấu trong từng tâm khảm.
Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
Thu
sáng ngời xanh bóng nước cây
Tiếng sáo thôn chài lau lách vọng
Trăng lặng lòng sông sương trắng đầy
(Nguyễn Lang dịch)
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1 ( trang 373)
(Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang
Sổ thanh ngư dịch lô hoa ngoại
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương)
Hình
ảnh cuả chiếc thuyền
cô độc âm thầm vượt
sóng gió giữa sông nước
bao la
mông quạnh, tưạ như
hình ảnh cuả
con người chơi vơi giữa ba động, biến đào,
sinh tử. Tiếng sáo
đâu đó nơi bờ lau sậy
thoang thoảng vọng lên, âm
vang sao nghe
não nề. Như tiếng thơ trong đêm trường
chan chứa một trời
thu
mang mang tâm sự. Từng ánh trăng vàng
lững lờ trôi trong giòng sông
lạnh, nhấp nhô, thoạt ẩn thoạt hiện giữa cái
mênh mông hư ảo cuả có không. Như nỗi cô tịch câm nín của con thuyền giữa cảnh sông nước phủ đầy sương,
mang mang một nẽo có không đi về.
Phải chăng đó là con thuyền
định mệnh của
kiếp người không biết trôi dạt về đâu giữa bể khổ
trầm luân, phủ vây, chìm ngập?
Hình ảnh đó có phải
Huyền Quang gieo rắc cho ta
nỗi buồn canh cánh bên ông?
Chắc chắn là không, bởi lẽ ông muốn mượn tâm sự của mình phơi bày những gía trị đích thực, đang ẩn chứa đâu đây. Đó là nỗi
thống khổ,
cô đơn, vẫn là đề tài chung quyết trong mỗi
chúng ta.
Huyền Quang được kể như một
thiền sư thi sỹ, vĩ đại nhất trong thiền sử
Việt Nam.
Bóng dáng và những vần thơ của ông, tô thắm thêm vẽ đẹp
rực rỡ trong
thiền môn.
Đâu đó từng lời thơ, vượt
thời gian ngự trị trong cõi
vô cùng,
mênh mông của đất trời, của muôn hoa. Một sự thơ mộng
tuyệt vời thanh thoát, trãi dài trên từng
hiện hữu, như nỗi
vấn
vương kỳ bí nào đó, lưu lại trong tận cùng tâm khảm.
Dù
Huyền Quang vĩ đại như thế, vẫn chưa một ai
đánh giá đúng mức về ông, dù qua cái nhìn của một thi sỹ.
Phải chăng ngôn ngữ đành bất lực trước những
con người siêu việt, vượt ra ngoài có không,
tự tại thong dong trên mọi nẽo đi về?
Như Hùng
Trích từ cuốn
TÌM HIỂU THƠ THIỀN
VIỆT NAM viết xong 1989 chưa xuất bản