Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 2000
MÂY TRẮNG THONG DONG
Bao
nhiêu tuần lễ trôi qua. Chúng ta hãy tưởng tượng đi! Khi
rời sư chị, căn cứ trên lời hứa của cha ‘lập am rồi
sẽ rước thầy ở chung’. Thúy Kiều vẫn mong ước có ngày
như thế. Về nhà trả được nghĩa và tình rồi thì có thể
tiếp tục tu được.
Nhớ lời lập một am mây
Khiến
người thân tín rước thầy Giác Duyên.
‘Nhớ
lời lập một am mây’ tức là nhớ lời hứa sẽ lập một
cái chùa. Có bản quốc ngữ khi in ra có dấu phẩy (,) sau chữ
‘Nhớ lời’; theo tôi thì không đúng. Không lý làm chùa
rồi mới cùng những người thân tín đi rước thầy Giác
Duyên! Không phải như vậy. Làm chùa mà làm ở ngay thành phố
thì sư Giác Duyên đâu chịu tới! Ý Kiều là muốn mời sư
chị tới để hỏi: ‘Bây giờ chị em mình nên làm am chỗ
nào để tu? Làm am đàng hoàng vì gia đình em bây giờ có thể
cung dưỡng được. Làm một cái am mây trong đó có phòng tắm
và lò sưởi đàng hoàng.
Theo
tôi, ‘Nhớ lời lập một am mây’ là nhớ lời hứa ngày
xưa sẽ lập một cái chùa và mời thầy tới ở chung. Cho
nên: ‘Khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên’. Tới
thưa với ni sư xem ni sư muốn làm chùa ở chỗ nào.
Có
lẽ nhiều tuần lễ đã đi qua từ cái ngày cả gia đình đến
rước Kiều về. Sư chị Giác Duyên đã thấy được sự thật
là gia đình này, sau mười lăm năm xa cách, cần sự có mặt
của Thúy Kiều. Sư chị biết phải để cho Thúy Kiều đi,
sư chị không tìm cách để giữ lại. Sư chị gật đầu,
mỉm cười: ‘Em cứ đi đi. Chị tin tưởng rằng trong hoàn
cảnh nào em cũng giữ được tâm Bồ đề và em cũng sẽ tiến
tu được.’ Với nụ cười đó, Thúy Kiều đã đi về và
đã làm được như mong ước của sư chị. Thời gian đó có
thể xảy ra trong một, hai, hoặc ba tuần lễ là nhiều. Tôi
nghĩ trong suốt thời gian đó không có ngày nào, giờ phút
nào mà sư em không nhớ tới sư chị và mong ước rằng sau
khi trả xong món nợ tình nghĩa, hướng dẫn được sự tu
học cho gia đình và cho người tình cũ thì mình có thể trở
về với sư chị. Một, hai, ba tuần lễ cho đến một tháng
là nhiều. Không thể tưởng tượng rằng Thúy Kiều ở lâu
hơn mà không đi thăm sư chị, vì tình hai người rất thắm
thiết.
Nhớ lời lập một am mây,
Khiến
người thân tín rước thầy Giác Duyên.
Tôi
nghĩ rằng những người kia, dù thân tín cách mấy đi nữa
mà tới rước Giác Duyên thì cũng không đủ lễ. Trong chuyến
đi này thế nào cũng phải có Trạc Tuyền. Làm sao chịu nổi
cái chuyện gởi người ta đi mà mình không đi! Bởi vì ngày
nào, đêm nào, bao giờ Trạc Tuyền cũng nghĩ tới người sư
chị thương yêu của mình, người đã cứu mình, đã sinh mình
ra lần thứ hai, không những bằng thân xác mà bằng cả đời
sống tâm linh nữa. Đến nơi thì thấy gì?
Đến nơi đóng cửa cài then,
Rêu
trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà.
Sư
chị đã đi rồi. Sư chị tự do như một đám mây, như một
con hạc trắng. Cái đẹp của sư chị là chỗ đó. Cái đẹp
của người tu là cái tự do của người đó. Người tu là
một người có không gian. Không gian ở trong lòng và không
gian ở chung quanh. Nếu muốn đi thì đi, không có gì có thể
giữ người tu được. Có một bài kệ chúng ta thường ngâm:
Bụt là vầng trăng mát
Đi ngang trời thái không
Hồ tâm chúng sanh lặng
Trăng
hiện bóng trong ngần.
Bài
này tôi đã dịch tự do từ một bài thơ chữ Hán trong một
khóa tu ở miền Nam Cali:
Bồ tát thanh lương nguyệt
Du ư tất cảnh không
Chúng sanh tâm cấu tận
Bồ
đề ảnh hiện trung.
(Mặt
trăng trong và mát của Bồ tát đi chơi ở cõi không tuyệt
đối; nếu những bụi bặm cấu uế trong tâm chúng sanh hết
rồi thì hình ảnh giác ngộ hiện ra trong tâm ấy.)
Ta
có thể họa tượng đức Bồ tát Quan Thế âm ngồi trên một
phiến đá, phía trên có mặt trăng và viết bốn câu thơ này
lên chỗ lạc khoản. Bài dịch có thêm hình ảnh hồ tâm,
và trăng hiện bóng. Trăng hiện chứ không phải ‘bồ đề
hiện’. Trăng ở đây tức là Bồ đề’, chữ trăng được
lấy lại, không mất, nên tứ thơ có tính nhất trí hơn trong
nguyên bản chữ Hán. Cái đẹp và cái hạnh phúc của người
tu được xây dựng bằng chất liệu gọi là không gian, tự
do. Con người không có tự do là con người chưa có hạnh phúc
lớn. Bài thơ cho chúng ta thấy sự thật đó. Càng nhiều tự
do thì chúng ta càng có nhiều hạnh phúc. Ngày nghe thầy Thiện
Minh tịch, tôi viết một bài thơ cho thầy, đó là bài Mây
Trắng Thong Dong. Thầy Thiện Minh ngày xưa học ở Phật học
viện chùa Báo Quốc tốt nghiệp cùng một lúc với lớp thầy
Trí Quang. Thầy Thiện Minh là người rất thông minh, mau lẹ,
tổ chức rất hay. Nếu cần một thầy ngồi chủ tọa để
một đại hội để giải quyết những vấn đề khó khăn
thì người làm chủ tọa giỏi nhất, đưa đại hội đi tới
sự thành công mau nhất đó là thầy Thiện Minh. Rất mau nhạy,
rất thông minh. Trong cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt
Nam cho nhân quyền dưới quyền ông Ngô Đình Diệm, thầy Thiện
Minh đã được cử làm Trưởng phái đoàn Liên Tông, gồm
đại diện của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và các tổ
chức Phật giáo khác, đứng ra thương thuyết với phái đoàn
Liên Bộ của chính phủ. Bên phía chính phủ phái đoàn Liên
Bộ (bộ Nội Vụ, bộ Xã Hội, v.v…) có Phó Tổng thống
Nguyễn Ngọc Thơ làm trưởng đoàn. Chúng ta biết thầy Thiện
Minh mà hướng dẫn một phái đoàn như vậy là hay nhất. Trong
khi họp, phái đoàn Phật giáo đã thành công. Bên chính phủ
phải ký vào một thông cáo chung, công nhận quyền tự do của
Phật giáo. Khi thông cáo chung được công bố, mọi người
thấy đây là một thắng lợi lớn của Phật giáo. Nhưng chính
quyền không có thiện chí. Họ ký xong lại phản bội lại
thông cáo chung ấy. Trong cuộc tranh đấu của phật giáo để
chống lại chế độ độc tài, thầy Thiện Minh đã đóng
một vai trò rất lớn. Khi chính phủ của xã hội chủ nghĩa
lên, họ sợ thầy Thiện Minh nên đã bức tử thầy. Họ bắt
thầy và ép thầy tự tử trong một nhà tù tại Sài Gòn. Thầy
Thiện Minh phải xé áo làm dây để tự tử. Khi thầy tịch
rồi, sợ quần chúng phản ứng mạnh nên họ chở thầy về
Hàm Tân, một hai ngày sau mới báo tử. Thầy Trí Thủ và các
thầy khác phải về Hàm Tân mới nhận xác được. Lúc đó
tôi đang ở Phương Vân Am. Tôi nhớ buổi chiều hôm đó, nhận
được tin bên nhà, thầy trò làm việc suốt đêm tìm những
dữ kiện có được về thầy Thiện Minh, tổ chức họp báo,
làm press release, báo cáo về cái chết của thầy Thiện Minh.
Bụổi sáng, khi làm xong công việc, tôi ngồi lại, tưởng
niệm thầy Thiện Minh và viết bài Mây Trắng Thong Dong để
cúng dường thầy. Mây trắng thong dong là một đám mây tự
do. Thầy Thiện Minh bây giờ đã trở thành một đám mây trắng,
thầy có sự thong dong rồi. Trong bài thơ, tôi dùng hai hình
ảnh: đám mây và dòng suối; giống như hai người bạn. Mây
và suối là hai cái khác nhau nhưng cùng một bản chất. Tôi
nói ngày xưa tôi là dòng suối còn thầy Thiện Minh là đám
mây. Một bên thì đi xuống để tìm ra biển Đông, một bên
thì thong thả rong chơi trên trời. Cả hai đều hẹn nhau đi
về biển Đông. Nhưng vì hoàn cảnh khổ đau, khó khăn cho
nên đám mây đã biến thành mưa, rơi xuống:
MÂY
TRẮNG THONG DONG
nhớ thuở xưa - khi ngươi còn là đám bạch vân bay thong dong
ta theo nguồn múa ca về đại dương mênh mông,
ngươi lưu luyến chốn đỉnh cao, lắng tiếng reo cười ngàn thông
ta
nhấp nhô trên sóng bạc, lên xuống vào ra muôn trùng.
Kịp đến khi thấy trần gian quằn quại lệ chảy thành dòng
thì ngươi biến thành mưa, nhỏ xuống tàn đêm đông
mây đen mịt mờ một phương chừ, mặt trời hấp hối
người gọi ta về, cùng nhau giăng tay nổi trận cuồng phong.223
Lòng thảnh thơi đâu,
khi hoa ngàn cỏ núi còn rên siết hận bất công.
ngươi đưa hai tay thiên thần, quyết tâm tháo bỏ cùm gông
trong khi bóng tối phủ đầy, họng súng đen ngòm bạo lực
xương dồn thành gò cao chừ,
trong
khi máu đã chảy dài thành sông.
Hai bàn tay ngươi dập nát, thương ôi,
xích xiềng vẫn chưa tháo được
ta gọi sấm sét về bên ngươi,
quyết cùng bạo lực mở cuộc thư hùng gan dạ hơn người, trong đêm ngươi hóa thành
Sư Vương rống lớn hàng vạn loài ma quái nghe ngươi,
đã
cầm cập run lên trong đêm sương.
Hiên ngang không lùi bước chừ,
dù phía trước dày đặc hầm chông
ngươi thản nhiên đưa mắt nhìn bạo lực chừ.
như nhìn vào khoảng không.
Sống Chết là chi chừ, ép uổng nhau sao được?
ngươi gọi tên ta mà cười chừ,
không
một lời rên xiết, dù tra tấn cùm gông.
Bây giờ thoát đi, xiềng xích không còn buộc nổi chân thân,
ngươi trở về kiếp xưa mây trắng,
thảnh thơi trên bầu mênh mông;
Đến, Đi tự ngươi - đỉnh cao nào thích thú thì ngươi dừng lại,
cưỡi
trên sóng bạc đầu chừ, ta hát ru ngươi khúc hát bi hùng.
Hình
ảnh đó cũng là hình ảnh của tự do. ‘Đỉnh cao nào thích
thú thì người dừng lại’, chỗ nào không thích thì đi.
Đó là hành tung của đám mây. Sư chị cũng vậy. Chỗ nào
thích thì sư chị ở lại, chỗ nào muốn từ giã thì sư chị
từ giã. Sư chị là một con người tự do. Sư chị không bị
vướng mắc, đam mê. Sư chị quả thật là một người chân
tu. Rất thương em nhưng không dính mắc. Nếu cần trả em về
vơi gia đình thì sư chị trả. Sư chị luôn luôn muốn tự
do của em, không cột em vào trong vòng vướng mắc. Chúng ta
có danh từ Duyên Giác. Duyên Giác hoặc Bích Chi Phật là những
bậc tu học nhờ quán chiếu về Mười hai nhân duyên mà chứng
ngộ. Ở đây không phải là Duyên Giác mà là Giác Duyên (conditions
enlightenment), những điều kiện chính để giúp Trạc Tuyền
đạt tới giác ngộ và chuyển hóa. Mỗi người trong chúng
ta phải là một điều kiện để giúp người thương của
chúng ta đạt tới sự hiểu biết, giác ngộ và giải thoát.
Mỗi chúng ta khi đi tu rồi, phải là một điều kiện để
giúp cho những người thân của chúng ta được giác ngộ.
Chúng ta phải giúp cha, mẹ, anh, chị, em, bạn bè của chúng
ta được giác ngộ. Chúng ta phải thực hành ý nguyện của
sư chị. Giác Duyên là một phần trong con người chúng ta.
Chúng ta phải nuôi lớn con người Giác Duyên trong ta để sau
này ta có thể giúp cha mẹ, tổ tiên, gia đình và xã hội.
Giúp với tư cách những điều kiện đưa tới sự thực hiện
hiểu biết, giác ngộ và thương yêu.
Trong
nguyên lục, khi Kiều cùng với một số người đến tìm sư
chị Giác Duyên tại chùa thì họ thấy cửa đóng, sư chị
đã đi rồi, trước cửa lại có để lại một câu thơ chữ
Nho:
Nhược vấn ngõ thân hà xứ khứ
Thường
bạn chi hạc bán không vân.
‘Nếu
hỏi thân tôi đã đi về hướng nào thì trả lời rằng bây
giờ tôi đang bay theo con chim hạc ở giữa đám mây trên từng
không.’ Có nghĩa là: Tôi là một con người tự do, muốn
đi đâu thì đi; tôi không có địa chỉ nhất định. Vì câu
đó trong nguyên lục nên cụ Nguyễn Du viết:
Sư đà hái thuốc phương xa
Mây
bay hạc lánh biết là tìm đâu?
‘Hái
thuốc phương xa’ là lấy ý từ bài thơ Tùng hạ vấn đồng
tử của thi sĩ Giả Đảo đời Đường. Bài thơ rất hay:
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn: Sư thê diệp khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân
thâm bất tri xứ.
(Khách ngừng lại) dưới cây tùng và hỏi chú tiểu. Đáp: Thầy tôi đi hái thuốc, chỉ quanh quẩn trong núi này thôi, (nhưng vì) mây dày đặc quá (nên) không biết chỗ nào)
Chú
tiểu này là một chú tiểu rất thương thầy. Không muốn
những người khách tới làm quấy thầy cho nên dầu có biết
thầy ngồi ở đâu chú cũng không nói. Cả mười năm nay tôi
có cốt truyện này mà chưa viết được: Trong ngôi chùa có
một ông thầy và một chú tiểu. Thầy làm trọn bổn phận
của một ông thầy và chú tiểu cũng thương ông thầy lắm.
Thỉnh thoảng thầy dắt chú tiểu lên khu rừng phía sau chùa.
Một bữa vui miệng thầy nói chơi với chú tiểu: ‘Đây mới
là chùa của thầy còn chùa dưới đó không phải. Dưới đó
thầy phải làm nhiều việc, phải tiếp khách quá nhiều. Trên
này có những cây thông cao vút, ngồi ở đây thầy rất sung
sướng. Đây mới thật là chùa của thầy.’ Hai thầy trò
chỉ nói chơi với nhau thôi. Có bữa nọ, chú tiểu đang làm
việc thì có ông khách tới: ‘Thầy đâu chú?’ Chú đáp:
‘Trên chùa.’ Chú không chánh niệm lắm, chú đang nghĩ đến
khu rừng ở trên đồi, ‘chùa thiệt’ của thầy. Ông khách
hí hửng, đi vào chánh điện, ngó quanh ngó quất không thấy
thầy đâu. Đi một vòng cũng không thấy. Ông ta hỏi: ‘Chú
nói thầy chú ở trên chùa mà sao tui không thấy?’ Biết rằng
hồi nãy mình không có chánh niệm, chú nói; ‘Chùa này là
chùa của bác. Chùa của thầy ở trên cao kìa. Nhưng bác đừng
lên đó! Chùa của bác là ở đây. Trên đó là chùa của thầy.’
Cốt truyện là như vậy. Tôi có ý viết truyện ngắn đó
nhưng mười năm nay chưa viết được. Chú tiểu ở đây giỏi
quá! Chú biết thầy ưa ngồi chỗ nào trên núi nhưng chú đã
nói: ‘Thầy tôi hái thuốc, chỉ ở trên núi nầy thôi nhưng
mây dày quá không biết chỗ nào.Có lên tìm cũng không thấy
đâu, chi bằng đừng lên.’ Có nghĩa là: ‘Để cho thầy
tôi yên.’ Đọc câu thơ của Nguyễn Du ‘Sư đà hái thuốc
phương xa’ chúng ta hiểu là sư chị không muốn bị quấy
rầy.
Đến nơi đóng cửa cài then
Rêu
trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà.
Đọc
hai câu thơ này tuy thấy hay nhưng nếu chưa biết gốc rễ
của chúng thì ta cũng chưa thấm lắm. Sư chị như một đám
mây tự do, như một con hạc trắng. Muốn đi đâu thì đi.
Thật ra sư chị đã dựng cái am này ở bờ sông Tiền Đường
để làm gi? Làm am đó để sống với sư em thôi. Nếu sư
em đi rồi thì giữ am làm gì nữa? Thà bỏ đi. Tìm về am
cũ thấy ‘Rêu trùm kẽ ngạch cỏ len mái nhà’ thì cảm
thấy thế nào? Buồn. Buồn vì không gặp được sư chị được
nữa. Nhưng ta thấy sư chị đẹp vô cùng. Sư chị là một
con người tự do, không dính mắc. Khi cần thì sư chị làm
chùa để sống với sư em. Khi sư em không cần nữa thì sư
chị bỏ, đi về với đời sống tự đo thanh thoát của mình.
Như một con chim hạc, như một đám mây trắng. Những câu
thơ này đẹp lắm:
Đến nơi đóng cửa cài then
Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà.
Sư đà hái thuốc phương xa
Mây
bay hạc lánh biết là tìm đâu.
Sư chị đã trở thành huyền thoại. Rất đẹp. Tu, chúng ta chỉ muốn trở thành sư chị mà thôi.
Từ
đó về sau ngày nào Trạc Tuyền cũng lên am thắp nhang. Cố
nhiên là cũng cắt cỏ và ngồi đó để nhớ sư chị.
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên
am cứ giữ hương dầu hôm mai.
Ngày
xưa người ta đi không để lại địa chỉ. Người ta chưa
có bưu điện, điện thoại, điện tín và điện thư (e-mail)
thành ra sư em không có cách nào liên lạc được với sư chị.
Cách liên lạc duy nhất là mỗi ngày sư em lên chùa quét dọn,
cắt cỏ, thắp nhang, thắp đèn, ngồi thiền. Tôi muốn, và
nếu tôi làm không được thì một vị trong đại chúng này
sẽ làm, viết tiếp cốt truyện này (tức là sau đó cái gì
sẽ xảy ra.) Tôi nghĩ Trạc Tuyền đủ thông minh để đi tìm
sư chị vì sư chị là một người đã được biết đến
trong giới xuất gia. Ngày xưa Kiều đã từng tu với sư chị
ở Chiêu Ẩn Am, Kiều có thể đi tới Chiêu Ẩn Am. Kỳ này
có thể đi bằng xe ngựa đàng hoàng vì gia đình Kiều bây
giờ đã giàu có (em trai làm quan, em gái là vợ một ông quan.)
Tới Chiêu Ẩn Am hỏi thì thế nào người ta cũng có thể
có một ý kiến là sư chị bây giờ đang ở đâu. Có thể
sư chị đang ở đó, biết đâu! Nếu tôi viết không được
thì quý vị sẽ viết. Viết tiếp chuyện Kiều. Không hẳn
phải viết bằng thơ lục bát, không hẳn là phải viết hay
như cụ Nguyễn Du. Nhưng mình có thể tiếp tục được. Tôi
nghĩ rằng sau năm, bảy tháng tìm kiếm thì Trạc Tuyền có
thể tìm lại được sư chị và trở lại sống đời sống
của người xuất gia với sư chị. Điều đó ta có thể viết
ra được, phù hợp với tình tiết của đoạn truyện này.
Ở đây truyện được chấm dứt bằng hình ảnh rất tuyệt
vời của sư chị.
Nhớ lời lập một am mây
Khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên.
Đến nơi đóng cửa cài then
Rêu trùm kẽ ngạch cỏ lên mái nhà,
Sư đà hái thuốc phương xa,
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên
am cứ giữ hương dầu hôm mai.
Bây
giờ nói về gia đình của Kim Trọng và Vương Quan:
Một nhà phúc lộc gồm hai,
Nghìn
năm dằng dặc quan giai lần lần.
Có
Phước tức là gia đình đoàn tụ, ba thế hệ được ở chung.
Có lộc là có tiền bạc lợi tức, được thăng quan tiến
chức. (Chưa nói đến Thọ.)
Thừa gia chẳng hết này Vân,
Một
cây cù mộc một sân quế hòe.
Thúy
Vân đóng vai trò người vợ cả đảm đang, sanh ra khá nhiều
các bé tí.
Phong lưu phú quý ai bì,
Vườn
xuân một thửa để bia muôn đời.