CÔ ĐƠN TRÊN CON ĐƯỜNG TRỐNG KHÔNG (CUỘC ĐỜI VÀ THI PHÚ)
Hoang Phong
Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn 2009
Thơ tuyển chọn
1
Những vần
thơ cô quạnh
Khu
rừng Gogôan hoang vắng,
Chiếc
am cỏ như treo giữa không trung.
Phía
sau là rừng tùng bát ngát.
Vài
bài thơ cài trên vách,
Chiếc
nồi đất bám đầy bụi bặm,
Đặt
trên chiếc bếp lạnh tanh.
Thỉnh
thoáng mới thấy lão già nơi ngôi làng phía đông,
Đến
gõ cửa dưới ánh trăng.
Túp
lều nơi tận cùng trong khu rừng vắng.
Mỗi
năm những giây hoa đậu tím mọc càng nhiều.
Xa
lìa cõi thế tục,
Thỉnh
thoảng mới nghe thấy tiếng hát của một gã tiều phu.
Giũ
chiếc áo cà-sa trong nắng sớm,
Đọc
một vần thơ dưới ánh trăng,
Tôi
muốn nhắn với kẻ thế tục rằng,
Mưu
cầu hạnh phúc cũng đâu cần gì nhiều.
Một
túp lều đổ nát và chật hẹp,
Suốt
ngày chẳng thấy một bóng người.
Yên
lặng một mình bên cửa sổ,
Chỉ
nghe thấy tiếng lá rơi trên mặt đất mà thôi.
Sau
một ngày khất thực, trở về am,
Khép
lại tấm phên cửa kết bằng cành ngải hương.
Đốt
bếp với vài cành khô còn lá,
Yên
lặng đọc vài vần thơ của Hàn San.
Gió
Tây lại thổi về, mưa đêm lăn trên mái cỏ.
Thỉnh
thoảng lại duỗi chân,
Có
gì đâu để bận tâm,
Chẳng
có một hoài nghi nào trong tâm thức.
Suốt
đời lười biếng nên chẳng giữ được một giới luật
nào,
Hân
hoan, và chỉ biết hân hoan, buông trôi theo bản thể.
Trong
tay nải có ba lượng gạo,
Cạnh
bếp một bó củi khô.
Tại
sao phải thắc mắc về giác ngộ và ảo giác để làm gì?
Chẳng
hề quan tâm đến những ai chỉ biết có danh vọng
lẫn
bạc tiền.
Mưa
đêm lẳng lặng rơi trên mái am lợp cỏ,
Nhẹ
nhàng tôi duỗi thẳng hai chân.
Một
nghìn ngọn núi cao, im lìm trong giá rét,
Một
vạn con đường mòn, không một bóng người đi.
Mỗi
ngày quay vào vách để ngồi thiền,
Thỉnh
thoảng lại nghe thấy tiếng tuyết rơi,
Gõ
nhẹ vào tấm phên cửa khép.
Đêm
lạnh và gian phòng vắng vẻ,
Những
nén hương cháy dở, thời gian trôi.
Ngoài
kia rừng tre,
Trên
giường vài quyển sách.
Mặt
trăng ló dạng bên khung cửa trắng xoá.
Tiếng
côn trùng rả rích, cả bốn bề lặng im.
Hân
hoan tràn ngập trong tôi,
Nhưng
không sao mô tả được bằng lời.
Từ
khi tôi đến đây,
Không
biết đã được bao năm rồi.
Khi
mệt, tôi duỗi hai chân để ngủ,
Lúc
khoẻ, lại xỏ đôi dép rơm để ra ngoài.
Ngợi
khen của thế tục,
Chẳng
làm tôi xao xuyến.
Ngợi
khen thì có khác gì với nhạo báng?
Thân
xác này do cha mẹ sinh ra,
Thì
nó cứ theo cái nghiệp của nó mà đi,
Được
như thế cũng đã là hạnh phúc lắm rồi.
Cánh
cửa sổ mở ra trong đêm tối an bình.
Ngồi
yên để thiền định, manh cà-sa quấn lên người.
Hai
lỗ mũi thẳng hàng với rốn,
Hai
vai thẳng,
Mặt
trăng ló dạng và khung cửa sổ trắng xoá.
Mưa
đã dứt, nhưng vẫn còn rơi vài hạt.
Trong
cái khoảnh khắc đó, một xúc cảm tuyệt vời lan
rộng
trong tôi,
Và
chỉ riêng tôi mới ý thức được xúc cảm ấy mà thôi.
“Này
cánh nhạn của đêm đen! Trên đỉnh Tu-di,
nơi
cha ta đang sống trong cõi nghìn thu,
hãy
gởi về cho ta tin tức nhé”
do
nhà sư Ryokan viết
Có thể đây là bài thơ mà Ryokan đã viết khi hay tin cha qua đời. Theo vũ trụ quan Phật giáo, núi Tu-di là trung tâm của thế giới trong số hàng muôn nghìn thế giới trong vũ trụ này. Nét bút cho thấy rất nhiều xúc động.
“Được
tiếp dẫn bởi Thiện Chân Phật,
một
thân xác mang tên Inan
đã
gieo mình xuống dòng sông Katsura”
Inan là bút hiệu của cha Ryokan. Chính thức thì ông đã gieo mình trong dòng sông Katsura, nhưng cái chết của ông vẫn còn nhiều nghi vấn. Ông không để lại một di bút nào để giải thích về cái chết của ông. Trong tờ thư pháp của Ryokan trên đây, các dòng chữ như đang bập bềnh và trôi giạt trên mặt nước.
Ryokan đã khóc khi tìm thấy một di cảo với nét bút của cha:
Những
nét bút của cha,
Nhoè
đi trong nước mắt.
Một
thời quá khứ của cha,
Hiện
về trong trí nhớ.
Khi
biết từ bỏ dục vọng,
Tất
cả sẽ an bài.
Khi
dục vọng còn nguyên,
Vạn
thứ cũng chưa vừa.
Một
ít rau cũng đủ sống,
Manh
áo của người tu hành,
Cũng
đủ ấm để che thân.
Lang
thang một mình, tôi đi giữa đàn hươu,
Vào
làng, tôi hát với đám trẻ con.
Rửa
tai trong khe suối,
Ngước
nhìn lên đỉnh núi,
Vẻ
đẹp của nghìn thông.
Cô
đơn, mùa xuân đã hết rồi,
Lặng
câm, im lìm phên cửa khép.
Vài
dây hoa đậu tím,
Dăm
ngọn tre che khuất cả bầu trời.
Cỏ
hoang giăng kín lối,
Trên
vách, tay nải và chiếc bình bát vẫn còn treo.
Bình
hương không một làn khói mỏng.
Thanh
thản và an bình, chẳng một lo toan thế tục.
Con
chim gáy kêu mãi suốt trong đêm.
Thuở
nhỏ tôi bỏ việc bút nghiên,
Xuất
gia nơi thiền viện.
Chiếc
tay nải trên vai, hai tay ôm bình bát,
Tôi
lang thang, đã những mấy mùa xuân?
Cố
hương quay trở lại, dưới chân ngọn núi này,
Tôi
sống an bình trong am cỏ.
Chim
hót là tiếng nhạc chốn rừng hoang.
Ngắm
mây, ngỡ láng giềng quanh bốn phía.
Cạnh
bên bờ đá dốc, một con suối dưới khe,
Bước
xuống giặt áo, lại giặt khăn.
Trên
kia, rừng thông và rừng tùng,
Đủ
cành khô đốt bếp.
An
nhàn tôi tản bộ,
Tận
hưởng cái hiện tại của những giây phút này.
Một
túp lều lợp cỏ,
Giữa
hàng nghìn đỉnh cao.
Vải
thô, manh cà-sa trên người.
Mặc
kệ cứ rêu mốc quanh môi,
Quá
lười để phủi bụi trên tóc.
Chẳng
thấy con chim nào,
Cắp
một cành hoa trên mỏ.
Trên
giá đâu cần tấm gương soi.
Lòng
thênh thang không vướng mắc,
Xá
gì đâu những lo toan thế tục.
Cứ
mặc ai bảo tôi là kẻ điên hay ngốc nghếch,
Dưới
chân núi Kugami, trong khu rừng Otogo,
Tôi
sống trong một túp lều lợp cỏ.
Một
cửa cổng màu đỏ, một lâu đài sơn vàng,
Đời
sống trong dinh thự, sẽ buồn chán biết bao.
Sống
hoà mình với gió, với ánh trăng vằng vặc,
Gặp
được đàn trẻ và cùng nhau ném bóng.
Buông
thả trong hân hoan, tôi viết lên những vần thơ này.
Một
hôm, hình như có một người nào đó bỗng hỏi rằng:
“Gã
thiền sư mê mãi đến hoá điên,
Hôm
nay hắn đâu rồi?”
Đêm
đông dài, một đêm đông thật dài,
Một
đêm dài bất tận của mùa đông,
Khi
nào trời sẽ sáng?
Gác
đầu lên gối, chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi.
Bỗng
nhiên lại nghĩ đến những ngày tuổi thơ,
Khi
đang ngồi đây đọc sách,
Trong
gian phòng trống không.
Đã
mấy lần đứng lên để châm dầu,
Nhưng
chẳng bao giờ tôi nguyền rủa
Những
đêm dài đăng đẳng của mùa đông.
Già
nua và mòn mỏi,
Thường
hay giật mình tỉnh giấc giữa cơn mơ.
Thức
dậy trong gian phòng trống rỗng,
Trong
am tối, một ngọn đèn,
Tôi
cơi thêm ngọn lửa, đêm đông dài.
Trên
đường mòn đưa đến chân núi,
Ngổn
ngang vô số những ngôi mộ cổ.
Những
cội thông và tùng đã xưa từ ngàn năm.
Suốt
ngày những cơn gió buồn thảm,
Dần
dần xóa hết tên tuổi trên mộ bia.
Con
cháu họ đã quên mất họ rồi.
Tôi
bật khóc trong yên lặng, không thốt được lời nào,
Lẳng
lặng chống gậy tôi bước đi.
“Quả
bóng trong tay áo của tôi
Đáng
giá hơn ngàn tiền vàng
Trò
chơi này à, khó có ai bì kịp!
Nhưng
nếu hỏi tôi ý nghĩa là gì
Tôi
sẽ trả lời: 1 2 3 4 5 6 7”
do
nhà sư Ryokan viết
Các nét bút được phác thật nhanh và thật mạnh, có khi nhịp nhàng và đều, có khi lệch lạc và xiên xẹo giống như khi quả bóng được đánh tung lên cao và vạch ra những đường nét trong không trung.
Đã
bước sang tháng tám, trời vào thu giá rét.
Trong
khu vườn trống trải, nhìn thấy cả những chiếc gai
nhọn
trên các quả hạt dẻ.
Dưới
bầu trới thênh thang, tiếng ve đã ngưng bặt.
Bản
tính của tôi là mặc kệ những gì của thế tục,
Dù
đang đứng hay đang ngồi, tâm thức tôi không bờ bến.
Tám
bộ kinh Liên hoa đặt ở đầu giường,
Quyển
thì mở quyển thì khép.
Một
ngọn đèn dầu trên tay,
Giữa
đêm trên núi, tuyết rơi đầy.
Trong
yên lặng của đêm dài, hoa tuyết ngập trời bay.
Cái
đúng và cái sai có gì đâu hệ trọng?
Vừa
sương mù lại mưa phùn, thế là mùa xuân đã hết rồi.
Một
nghìn ngọn núi một vạn thung lũng mờ khuất trong
sương
mù.
Con
chim gáy kêu vang lúc ban chiều,
Nửa
đêm đã đến gần, kìa nó đang kêu trong bụi tre cạnh
nhà.
Thật
xa trong núi thẳm, những con chim nằm nghỉ.
Thầm
lặng, những chiếc lá rơi trong vườn.
Cô
đơn trong gió thu,
Quấn
một manh áo cà-sa đen,
Đứng
yên, một bóng người.
Trong
bếp khói tro tàn,
Ngọn
đèn dầu đã tắt.
Cô
đơn, đã quá nửa đêm rồi,
Chỉ
nghe thấy tiếng thác đổ từ xa.
“Một
– Hai – Ba”
“Nhất
Nhị Tam” (tiếng Hán),
“Ichi
Ni San” (Tiếng Nhật)
Ba con số 1 – 2 – 3 là những gì nhân lên, làm phát sinh ra mọi vật thể và biến cố trong thế giới hiện tượng. Trên tờ giấy với khuôn khổ và kích thước nhất định, nhưng Ryokan đã phóng bút viết ba chữ nhất, nhị, tam một cách thật tuyệt vời, tạo ra cảm giác của một không gian rộng lớn. Nếu nhìn lâu vào tờ thư pháp ta sẽ nhận ra một không gian mênh mông và trống không, trong cái không gian trống không ấy hiện lên những chuyển động hết sức linh hoạt, tượng trưng bằng những chấm phá lơ lửng trong không trung. Xin chú ý thêm là dòng chữ ký tên (viết bởi nhà sư Ryokan) với nét bút thật nhỏ không lôi kéo sự chú ý của người nhìn và cũng không phá “hỏng” cái không gian bát ngát của tờ giấy.
Ngày
đã hết, tất cả đều im lìm,
Khép
tấm phên cửa bằng cành khô,
Tiếng
dế cũng từ từ im bặt.
Cây
cỏ tối sầm,
Đêm
dài, mấy lần thức giấc để thắp hương.
Hơi
lạnh thấm vào da, tôi khoác thêm manh áo,
Ngồi
xuống để thiền định,
Thời
gian trôi đi trong hạnh phúc.
Một
buổi tối an bình, ra phía sau am cỏ,
Ngồi
dạo một khúc hát với cây đàn không dây.
Tiếng
nhạc tan trong mây, quyện theo làn gió thổi,
Rồi
hoá thành dòng suối,
Lan
xa và ngập tràn thung lũng,
Thấm
vào rừng sâu, xuyên qua cả núi đồi.
Chỉ
có kẻ nào ngăn được những tiếng động bên ngoài,
Mới
có thể nghe thấy tiếng nhạc huyền diệu ấy mà thôi.
Từ
khi tôi bước vào con đường của Thiền,
Một
nghìn ngọn núi cao khép lại ngưỡng cửa chốn ẩn cư.
Cổ
thụ, leo đầy những dây hoa đậu tím, che khuất chốn
thâm
u.
Rêu
mọc dầy, con suối sâu nước buốt,
Chiếc
gậy đã mục vì mưa đêm,
Manh
áo cà-sa bạc màu vì sương sớm.
Không
một ai nhắn hỏi đến tên tôi,
Trôi
đi những năm tháng dài.
Dưới
chân núi Kugami, trong chiếc am của một người
tu
hành,
Hắn
ngồi uống trà và ăn thật ít.
Năm
tháng trôi đi, hắn chưa gặp được một người nào có
tâm
hồn cởi mở,
Chỉ
thấy những kẻ đi nhặt hạt dẻ trong khu rừng trống
không.
Già
yếu và lọm khọm
Hay
thức giấc giữa đêm khuya
Một
ngọn đèn lung linh, mưa đêm trên mái cỏ
Nắn
lại chiếc gối, lẳng lặng nghe tiếng mưa rơi
trên
những tàu lá chuối
Biết
chia sẻ với ai xúc cảm của những giây phút này?
Một
mảnh cà-sa một bình bát là tất cả những gì tôi có
trong
thế gian này
Gượng
dậy để đốt một nén hương và ngồi xuống thiền định
Suốt
đêm, mưa nhẹ rơi trong bóng đen bên ngoài cửa sổ
Những
năm tháng dài lang thang và cực khổ cũng đã qua rồi.
2
Những vần
thơ lang thang
Láng
giềng toàn là núi cao và sông suối,
Mây
che cả bóng tôi đang bước đi trên đường vắng.
Bên
gềnh đá, một con chim xuýt chạm cả vào vai.
Chân
mang dép rơm, tôi xuyên ngang một ngôi làng heo
hút,
trong một vùng tuyết phủ.
Mùa
xuân, lại chống gậy lang thang trong cánh đồng ngập
nắng.
Trong
sáng thay, nếu nắm được bản thể đích thực của
chính
mình.
Hoa
chỉ là những hạt bụi bám trong thế gian này.
Tôi
thường trèo lên ngôi chùa “Vô lượng từ bi”,
Để
ngắm mây và sương mù.
Những
gốc thông và gốc tùng cổ thụ xưa cả nghìn năm,
Một
ngọn gió tinh khiết thổi xuyên ngang muôn ngàn thế hệ.
Bốn
mùa và chim muông sống hài hoà,
Róc
rách tiếng suối lạnh không ngưng.
Tôi
muốn nhắn với những ai có thể trút bỏ được gánh nặng,
Để
cùng tôi lang thang trên đỉnh biếc ngọn núi này.
Từ
ngày rời bỏ gia đình ra đi,
Tôi
để lại vết chân trong mây và trong sương mù.
Thỉnh
thoảng giao du với những người chài lưới và những
kẻ tiều phu.
Từ
lâu tôi quen nô đùa với trẻ con,
Làm
thế nào có thể sống với những vị đế vương?
Tôi
cũng chẳng muốn được làm một vị Trời hay một Thánh nhân,
Vì
tôi đang trú ngụ trong hiện hữu của tôi.
Tại
sao tôi muốn phải được đứng trên đỉnh núi Song?
Tôi
buông thả với những chuyển động của từng ngày,
Và
chấm dứt đời tôi trong những niềm vui an bình.
Bất
cần đến giàu sang và danh vọng,
Tôi
cũng chẳng muốn trở thành bất tử để làm gì.
Cảnh
cơ hàn của một người tu hành cũng giúp tôi đủ sống.
Chẳng
có nghĩa gì cả một danh xưng, nào có lợi ích gì?
Ôm
bình bát và đeo lên người một chiếc túi vải thô,
Thỉnh
thoảng tôi đi ngang cổng chùa,
Gặp
được một đàn trẻ con.
Làm
thế nào để ý thức được sự hiện hữu của tôi?
Chỉ
biết sống như thế này đây, trong thanh thản của tâm hồn.
Từ
ngày rời ngôi chùa “Bạch liên”,
Cuộc
sống của tôi trải qua trong thanh thản và vô tư.
Tôi
mang theo bên người chiếc gậy bằng gỗ hoa đậu tím.
Chiếc
áo cà-sa đã rách nhưng chẳng hề gì.
Đêm
khuya trong túp lều cỏ, tôi ngồi bên cửa sổ để nghe
tiếng
mưa rơi.
Mùa
xuân, lại chơi ném bóng trên đường cái,
Nếu
kẻ qua đường đứng hỏi, tôi sẽ trả lời rằng:
“Tôi
là một người không bận rộn, sống trong an bình”.
Một
gã sư già bên góc trời phía Tây,
Đang
xoá vết chân mình trên đỉnh núi Kugami.
Hắn
không đếm những năm tháng dài,
Chẳng
biết đã mặc mòn bao nhiêu chiếc áo cà-sa?
Những
manh áo ấy đã biến thành khói mỏng và sương mù.
Chỉ
còn lại độc nhất một chiếc gậy bằng gỗ hoa đậu tím.
Hắn
tản bộ bên bờ nước trong thung lũng để ngâm thơ,
Ngồi
xuống để thiền định, ngắm mây trắng bao quanh
trên
đỉnh núi.
Thương
thay cho những ai đang chạy theo danh vọng và
bạc
tiền trong thế giới nổi trôi.
Suốt
đời họ lang thang trong gió cuốn, bụi mù bay.
Rách
bươm, chỉ toàn là áo rách,
Tả
tơi là số phận của tôi.
Cái
ăn, tôi khất thực ở vệ đường.
Phó
mặc cả túp lều, mọc hoang hoa cúc dại.
Đêm
khuya tôi nhìn trăng để hát.
Ngắm
hoa quên mất cả đường về.
Từ
ngày rời khỏi chùa,
Dù
không muốn như thế,
Nhưng
tôi vẫn trở thành một lão già ngô nghê.
Từ
khi rời tổ ấm, ngày tháng trôi theo những chuyển động
của
cuộc đời.
Hôm
qua vẫn còn trong vùng núi biếc,
Hôm
nay đang tản bộ chốn phồn hoa.
Chiếc
áo cà-sa đã sờn vai,
Bình
bát, vẫn nguyên một chiếc từ những năm tháng dài.
Chống
gậy, tôi đứng hát giữa đêm sâu rạng rỡ.
Ngồi
im trên manh chiếu dưới trăng.
Người
ta có thể cho đấy là một kiếp sống vô ích,
Nhưng
nó lại thích hợp với tôi.
Mảnh
cà-sa quá ngắn, chiếc áo tơi lại dài,
Tôi
bước đi trong thanh thản của vô tư.
Bọn
trẻ con gặp tôi trên đường cái,
Chúng
vừa vỗ tay vừa hát và rủ tôi cùng nhau chơi ném
bóng.
Tháng
tám gió thu về,
Đàn
nhạn bay xuống phương Nam.
Tôi
rời chiếc am trong núi,
Quấn
lên người mảnh cà-sa, hai tay ôm bình bát,
Chợt
ngửi thấy mùi thơm hoa cúc dại,
Núi
và sông bỗng hoá đẹp lạ lùng.
Xúc
cảm trong lòng cũng biến đổi theo,
Làm
thế nào có thể tập trung để thiền định,
Cho
đến lúc tuổi già?
Tôi
vẫn tiếp tục lang thang với manh áo cà-sa trên người
và
chiếc bình bát trên tay.
Mặc
dù thân xác đang ốm đau, nhưng vẫn đứng lên
để
thắp một nén hương.
Đêm
xuống nhìn mưa yên lặng rơi bên cửa sổ tối đen,
Bỗng
nhiên hiện ra trước mắt mười năm dài của kiếp
sống
tha phương.
Chiều
xuống, vừa đến được ngôi chùa của các vị tu hành,
Tôi
rửa mặt, súc miệng rồi quỳ lạy một đoá sen màu biếc.
Một
ngọn đèn dầu leo lét trong một gian phòng tối đen,
Tất
cả đều yên lặng.
Bốn
giờ sáng, chuông nổi lên vang rền,
Tiếng
ngân làm giao động cả lá cành trong bụi rậm và mặt nước
trong dòng suối.
Mặt
trời ló dạng ở phương Đông,
Bầu
trời trống rỗng và yên lặng sau cơn mưa.
Đúng
là cái lạnh khi bước vào tháng thứ hai và thứ ba của
mùa
thu.
Một
cơn gió căm căm mài mòn cả núi đồi và sông suối,
Chỉ
có sương mù toả rộng trong thung lũng tối om.
Ngày
đã lên trên đỉnh núi,
Ngôi
chùa hiện ra trong bầu trời trống rỗng.
Toàn
cảnh ngôi chùa vàng như lơ lửng trên đỉnh các ngọn
cây.
Nước
đổ như thác bên triền núi.
Từ
xa, những gợn sóng như chạm với bầu trời biếc...
Ngày
xưa, bước theo con đường Phật pháp, tôi lê gót trên
khắp
địa cầu,
Hôm
nay, không biết làm thế nào để mô tả hết cái vẻ đẹp
của
thế gian này.
Kẻ
tu hành chân chính đâu có thể lười biếng được
Đeo
bầu nước lên vai và giã biệt thầy tôi
Hăng
say và quả quyết tôi rời bỏ quê nhà
Ban
ngày, trèo lên những đỉnh núi cô đơn
Hoàng
hôn, lội ngang những đại dương nước đục
Thề
nguyện khi nào chưa đạt được mục đích
Thì
tôi sẽ còn bước tới cho đến cuối cuộc đời.
Bướng
bỉnh và đần độn, tôi chọn kiếp sống cô đơn,
Làm
bạn với cây rừng và cỏ dại.
Quá
lười để phân biệt thế nào đúng, thế nào sai.
Tôi
bật cười chẳng quan tâm gì cả
Kéo
vạt áo đưa đôi chân khẳng khiu, lội ngang con suối
nhỏ,
Tay
nải đeo lên vai, tiết xuân về tươi mát.
Sống
như thế tôi đâu cầu mong gì hơn nữa,
Ngoài
sự bình an cho tất cả thế gian này.
3
Những vần
thơ hội ngộ
Túp
lều của tôi cheo leo trên đỉnh một ngọn núi cô đơn,
Thân
xác tôi lang thang giữa mây trời.
Trong
ngôi làng buổi tối, gió, trăng.
Thật
bình thản, nhưng rồi đây tôi sẽ dùng chiếc gậy này
để
gõ vào cửa nhà anh đấy.
Lòng
tôi chẳng một tham vọng nào của mưu toan thế tục.
Cạnh
giường, mùi hương trà bốc cao,
Chậm
chạp đêm thu đang cạn dần.
Vẫn
còn cháy, ngọn nến đặt bên thềm cửa sổ mở vào
phương
Nam.
Tháng
thứ nhất khi vào hạ là mùa gieo trồng,
Tôi
chống gậy lang thang.
Một
người nông dân già bắt gặp và lôi tôi đi đánh chén.
Lau
sậy và cỏ khô làm ghế,
Lấy
lá cây đồng làm đĩa.
Giữa
cánh đồng, sau khi uống và đã uống không biết bao
nhiêu
chén,
Hả
hê tôi nằm ngủ, gối đầu lên vệ đường.
Thu
tàn, bầu trời tháng chín xanh biếc,
Một
mình hai tay ôm bình bát,
Tuy
không báo trước, nhưng tôi sẽ đến gõ cửa nhà anh đấy.
Tôi
à, tôi là một người tu hành đã trút bỏ mọi thèm khát
thế
tục.
Còn
anh, một người lười biếng, sống trong một thời đại
an
bình,
Suốt
ngày chẳng biết làm gì,
Chỉ
uống rượu sa-kê rồi nhìn núi non mà cười.
Đầu
tháng hai xuân lại về,
Màu
sắc của thiên nhiên đều đổi mới.
Đi
xuống phố, chiếc bình bát trên tay,
Một
đứa trẻ trông thấy,
Chúng
gọi nhau đến hàng đàn và vui vẻ đứng nhìn tôi,
Lại
rủ tôi cùng nhau đến cổng chùa,
Chúng
chậm rãi bước theo tôi.
Đặt
bình bát lên một tảng đá trắng,
Tay
nải treo lên một cành cây xanh.
Nào,
chúng ta vật nhau trên cỏ.
Này,
chúng ta chơi ném bóng.
Tôi
chơi thì chúng hát,
Tôi
hát, chúng lại chơi.
Cứ
thế và cứ thế,
Tôi
quên cả thời gian đang trôi,
Một
người đi đường quay cổ lại và cười:
“Tại
sao lại chơi đùa như thế?”
Tôi
cúi đầu nhưng không trả lời gì cả,
Thực
ra nếu tôi có đủ sức giải thích đi nữa, thì tại sao phải
giải
thích?
Nếu
ai muốn hiểu chốn tận cùng của tâm hồn tôi:
thì
nó chỉ là như thế, không có lý do gì cả.
Trong khu rừng mùa xuân
Tôi chơi ném bóng với đàn trẻ con
Và ước mong rằng
Ngày hôm nay
Chẳng bao giờ sụp tối”
Thủ bút của Ryokan
4
Những vần
thơ khất thực
Vào
độ con trăng đầu tháng tám,
Tôi
vào làng khất thực.
Từ
hừng đông hàng nghìn nhà đã mở cửa,
Hàng
vạn gia đình, khói bếp bốc lên cao.
Mưa
đêm rửa sạch cả phố phường,
Gió
thu thổi luồn ngang các khoen đồng trên chiếc gậy.
Tôi
thăm hỏi cả đàn ông lẫn đàn bà,
Của
bố thí họ cho, đáp lại tôi hiến dâng Phật pháp,
Cùng
nhau khép lại một vòng tròn.
Khất
thực hết nhà này sang nhà khác,
Ấy
là Phật pháp trải rộng đến vô biên.
Sau
khi xin được thức ăn
Tôi
đi về phía ngôi chùa Hachiman
Bọn
trẻ con bắt gặp và kháu với nhau rằng
“Gã
sư khùng của mùa thu năm ngoái, năm nay lại trở về”.
Ngay
cả những lúc
Tôi
còn đói
Nhưng
mặt nước cháo trong đáy bình bát
Vẫn
hiện lên hình bóng của tôi.
Dù
nâng bằng hai tay, nhưng hôm nay trở về,
Lại
thêm một lần, chiếc bình bát trống không.
Trong
Thiền đâu có gì là lạ,
Một
chiếc bình bát, một mảnh cà-sa,
Tôi
ngao du trên con đường tuyệt vời, tận phương trời phía
Tây.
Hôm
nay đi khất thực bị một cơn mưa rào,
Đứng
trú mưa một lúc trong ngôi đền Thần đạo cổ xưa.
Kiếp
sống của một nhà sư phiêu bạt bỗng làm cho tôi bật
cười.
Cô
đơn và tinh khiết, cái kiếp sống ấy cũng giống như
chiếc
gậy hư nát của tôi đây.
Vừa
khất thực trong làng xong,
Quay
về trong sung sướng, chiếc tay nải trên vai.
Nhưng
có ai muốn biết tôi quay về đâu không?
Chỗ
tôi ở, bên cạnh những đám mây trắng phía đằng kia.
Hôm
qua tôi xuống phố,
Khất
thực cả hướng Tây và cả hướng Đông,
Tay
nải quá nặng trên đôi vai già yếu.
Băng
giá đóng dầy, mảnh cà-sa mong manh.
Những
người bạn ngày xưa nay đâu rồi?
Bạn
bè mới chẳng có ai.
Tôi
đi ngang khu ăn chơi ngày trước,
Một
cơn gió buồn thiu thổi ngang những cành thông và
cành
tùng.
Bên
vệ đường,
Tôi
bỏ quên thằng con bình bát của tôi,
Dù
có bỏ quên nó,
Cũng
chẳng ai thèm nhặt.
Nào
có ai thèm nhặt một chiếc bình bát bao giờ,
Tủi
thân cho con tôi quá!
Buồn
đau, trong chiếc am chật hẹp,
Co
ro và mòn mỏi tấm thân già.
Trong
sâu thẳm của mùa đông,
Lại
còn khó giải thích hơn nữa những ray rứt trong tôi?
Húp
một bát cháo để đuổi cái lạnh của đêm dài.
Chờ
mãi mấy hôm rồi, mùa xuân sao chậm đến,
Nếu
không khất thực được lượng gạo nào,
Lấy
gì chống lại giá rét những ngày đông?
Chẳng
có gì làm, nghĩ vẩn vơ những chuyện ấy trong yên
lặng,
Rồi
viết lên những vần thơ này,
Để
gởi đến một người bạn những ngày xưa.
Sáng
sớm đi khất thực
Qua
cánh đồng mùa xuân
Mải
mê hái hoa tím
Hoàng
hôn xuống không hay.
Sự
đần độn và bướng bỉnh này đến bao giờ mới dứt
Nghèo
đói và cô đơn là cuộc sống của tôi
Chiều
xuống trên đường phố của một thị trấn điêu tàn
Lại
thêm một lần quay về với chiếc bình bát trống không.
Chiếc
bình bát đựng cơm của nghìn nhà
Mảnh
cà-sa khoác lên thân xác nhẹ tênh
Ăn
no, có gì đâu để lo toan
Tôi
già đi trong an bình mênh mông, bay bổng trong êm
đềm
và thanh thoát.
Đi
xuống phố để khất thực,
Trên
đường bắt gặp một cụ già thông thái,
Cụ
hỏi tôi: “Này, Thầy làm gì đấy
Trên
những đỉnh non, mây trắng phủ”?
Tôi
hỏi cụ: “Còn cụ, cụ làm gì đấy,
Hay
chỉ để già đi trong những đám bụi hồng?”
Chúng
tôi định giải đáp cho nhau, nhưng chưa kịp cất lời,
Bỗng
tiếng chuông canh năm vụt lôi tôi ra khỏi cơn mê này.
Trời
cao, lạnh buốt tiếng nhạn kêu
Trên
ngọn đồi trơ trụi, những cánh lá tung bay
Hoàng
hôn xuống, xuyên ngang một ngôi làng mờ sương
Trên
đường về, hai tay ôm chiếc bình bát trống không.
Đã
bao năm mới quay lại chốn này?
Biết
bao nhiêu đổi thay?
Những
người gặp trên đường, tôi không quen biết họ
Họ
cũng chưa hề biết tôi
Đối
với họ, tôi cũng chỉ là một kẻ ăn mày khác mà họ bắt
gặp ở ngã tư đường
Chiếc
bình bát bằng gỗ sơn đen của Ryokan
(ngày
nay đã nứt rạn)
5
Những vần
thơ đau buồn
Đêm
cô đơn trong núi,
Vừa
mưa lại vừa tuyết, buồn tênh.
Tiếng
vượn kêu vang rền trên đỉnh non.
Hơi
lạnh trong thung lũng làm ngưng cả tiếng nước chảy.
Cạnh
cửa sổ, ngọn lửa của chiếc đèn dầu im lìm.
Đầu
giường, mực trong nghiên đã khô.
Suốt
đêm không ngủ được,
Hà
hơi vào đầu bút, cố viết một vần thơ.
Một
mùa thu buồn bã,
Phía
ngoài kia gió lạnh.
Ngôi
làng cô đơn chìm khuất trong sương mù.
Dân
làng trở về trên chiếc cầu cũ kỹ,
Đàn
quạ tụ lại trong lùm cây,
Trên
bầu trời, những con nhạn xa dần,
Lẻ
loi một nhà sư, quấn một mảnh cà-sa đen,
Đứng
lặng nhìn dòng sông, khi trời chiều nghiêng xuống.
Già
nua và mòn mỏi
Thường
hay giật mình tỉnh giấc giữa cơn mơ
Thức
dậy trong gian phòng trống không
Trong
am tối, một ngọn đèn
Tôi
cơi thêm ngọn lửa, đêm đông dài
Đêm
đông dài, một đêm đông thật dài,
Một
đêm dài bất tận của mùa đông,
Ai đoán được nỗi sầu muộn trong tôi”
do nhà sư Ryokan viết
“Cứ
nhìn vào bóng tối
Trong
tận cùng của mắt tôi”
do
nhà sư Ryokan viết
Gác đầu lên gối, chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi.
Một
đêm mùa thu quá dài,
Hơi
lạnh thấm cả vào giường.
Sắp
đến cái tuổi sáu mươi rồi,
Nào
có ai nghĩ đến một kẻ như tôi, cô đơn và thầm lặng.
Mưa
đã dứt, nhưng còn rơi vài hạt,
Tiếng
côn trùng tăng thêm.
Thức
giấc nhưng không ngủ lại được,
Dựa
lưng vào gối, tôi ngồi chờ một buổi bình minh trong
sáng.
Đã
già lại ốm đau, thức giấc không sao ngủ lại được,
Giữa
bốn vách, thật yên lặng.
Bên
ngoài, đêm thật sâu.
Ngòn
đèn dầu không ánh sáng, trong bếp đã hết củi.
Hơi
lạnh thấm vào giường,
Làm
thế nào sưởi ấm được lòng tôi.
Chống
chiếc gậy bằng gỗ hoa đậu tím,
Tôi
bước đi trong bóng tối của khu vườn.
Sao
trời giống như những cánh hoa trên những cành cây
trơ
trụi.
Tiếng
thác đổ trong thung lũng xa xa,
Giống
như tiếng nhạc từ một chiếc đàn không dây.
Trong
đêm tối bỗng bật lên trong tôi những xúc cảm này,
Nhưng
rồi ngày mai, nào biết sẽ đọc bài thơ này cho ai
nghe?
Biết
có ai lo lắng cho cuộc đời tôi?
Cánh
cửa kết bằng cành khô heo hút trên đỉnh núi.
Hoa
cúc dại xoá mất cả ba con đường mòn.
Chiếc
bầu đựng nước vẫn còn treo trên vách,
Nghe
thấy tiếng đẵn cây xa xa phía bên kia thung lũng.
Gác
đầu lên gối, một buổi sáng êm đềm đang dần trôi.
Một
con chim bay ngang và cất tiếng,
Như
an ủi cho cảnh hiu quạnh của riêng tôi.
Gió
đã chết
Nhưng
hoa vẫn rụng.
Tiếng
chim réo gọi
Nhưng
yên lặng vẫn thấm sâu
Trong
từng tiếng hót.
Trong
mưa tuyết nhẹ rơi,
Có
ba nghìn thế giới.
Nơi
ba nghìn thế giới,
Có
mưa tuyết nhẹ rơi.
Những vần thơ quá khứ
Đi
ngang ngôi chùa Arima,
Nghe
tiếng mưa đá rơi trên lá tre.
Nhưng
nơi chốn quê nhà,
Biết
đâu dân làng có thể trông thấy,
Trăng
sáng tối hôm nay.
Năm
sắp hết, êm ả thời gian trôi.
Dưới
bầu trời, băng giá đóng dầy.
Một
ngàn ngọn núi cao, những cây rừng trụi lá.
Một
vạn lối mòn, chẳng một bóng người đi.
Tôi
đốt lá khô trong đêm,
Thỉnh
thoảng lại nghe thấy tiếng gió lẫn tiếng mưa.
Bỗng
nhớ lại một quảng đời quá khứ,
Hiện
lên như một giấc mộng mênh mộng.
Trong
thế giới này, danh vọng và bạc tiền là những
đám
mây muôn hình.
Hơn
năm mươi năm trôi đi như một giấc mộng,
Bỗng
nghe thấy tiếng mưa rơi trên mái am.
Chẳng
phải làm gì cả, thu mình trong manh áo cà-sa,
Tôi
ngồi im, chống khuỷu tay lên thềm cửa sổ.
Ngày
còn trẻ tôi rời tổ ấm ngao du khắp quê hương,
Cố
tập tành để biến thành một con cọp,
Nhưng
lại không đủ sức để bắt chước một con mèo.
Nếu
có ai hỏi tôi thật sự đang nghĩ gì, tôi sẽ trả lời rằng:
“Tôi
vẫn là thằng Eizo ngày còn nhỏ, nhưng đã già...”
Hơn
bảy mươi năm trôi qua,
Những
gì người ta gọi là đích thực hay sai lầm,
Nào
tôi có quan tâm.
Tuyết
đổ trong đêm xoá cả vết chân tôi,
Cạnh
cửa sổ, những nén hương đang cháy dở.
Tôi
nghỉ đến ngày còn trẻ,
Chẳng
biết khổ đau là gì.
Mặc
chiếc áo bằng lông ngỗng vàng,
Cưỡi
con ngựa màu nâu mõm trắng.
Buổi
sáng, tôi uống rượu ở Xingpeng
Buổi
chiều, tôi ngắm hoa mận ở Heyang
Nhưng
khi trở về, nếu trong nhà có hỏi,
Tôi
sẽ lấy tay để chỉ căn nhà của người con gái làng chơi
Mô
Lhor.
Bỗng
nhiên lại nghĩ đến những ngày tuổi thơ,
Khi
đang ngồi đây đọc sách,
Trong
gian phòng trống không.
Đã
mấy lần đứng lên để châm dầu,
Nhưng
chẳng bao giờ tôi nguyền rủa
Những
đêm dài đăng đẳng của mùa đông.
Trên
đường mòn đưa đến chân núi,
Ngổn
ngang vô số những ngôi mộ cổ.
Những
cội thông và tùng đã xưa từ ngàn năm.
Suốt
ngày những cơn gió buồn thảm,
Dần
dần xóa hết tên tuổi trên mộ bia.
Con
cháu họ đã quên mất họ rồi.
Tôi
bật khóc trong yên lặng, không thốt được lời nào,
Lẳng
lặng chống gậy tôi bước đi.
7
Những vần
thơ Đạo Pháp
Trên đây là một đoạn trong bản Tâm Kinh, do chính tay của Ryokan chép. Thông thường khi chép kinh phải tuân theo các lối viết và những quy ước rõ rệt, nhưng Ryokan đã sử dụng bút pháp riêng của ông, lưu loát, đơn giản và nhẹ nhàng. Tuy nhiên các nét chữ rất minh bạch có thể dùng làm bản mẫu để khắc vào gỗ. Tâm kinh là một bản kinh rất phổ biến và quan trọng trong Thiền học và cả Đại thừa. Bài kinh rất ngắn, chỉ gồm có 262 chữ và được người tu tập thường xuyên tụng niệm như một man-tra.
Con
đường Chánh Đạo không có lối đi,
Tôi
hiểu được sự an bình trong tâm thức đang ở đâu
Người
ta vẫn xem Tánh không hay sự hiện hữu là mục đích
Nào
có khác gì đâu giữa một kẻ bình thường và một người giác ngộ
Nếu
bám víu vào thế gian này, ta sẽ chạy theo chiếc bóng của chính ta
Chiếc
bóng ngày càng xa thêm
Nếu
ta xô bỏ cái sai để tìm cái đúng
Cái
đúng sẽ trở thành một vết xẹo
Nên
hiểu lấy điều ấy bằng chính kinh nghiệm của mình
một
cách thật thâm sâu
Trong
tâm thức, chỉ cần trợt chân một li như sợi tóc
Ta
sẽ tách rời với chân như bằng khoảng cách của một
nghìn
vũ trụ.
Ngày
xưa tôi học được sự trong sáng của tập trung
tâm
thức và biết kiểm soát hơi thở của chính mình
Vượt
ngang sao trời và giá băng trắng xoá
Tôi
quên cả ngủ và cả ăn
Hiểu
được sự an bình là gì
Có
thể chính là nhờ vào tu tập
Nhưng
nếu không tỏ ra trong hành động
Làm
thế nào có thể chứng minh được là nó sẽ trường tồn
mãi
mãi?
Từ
nguyên thủy con đường Chánh Đạo không có lối đi
Tôi
cũng chẳng hiểu sự hoàn thiện của nó sẽ là gì
Càng
chạy theo nó, càng lúc nó càng xa
Nếu
tìm nó, sẽ không tìm thấy nó
đã đưa tôi vào cảnh giới của vô biên”
do nhà sư Rykan viết
Nét bút và các hàng chữ giống như đang cuốn theo những làn gió và tung bay trong không trung.
Ngay
khi thuyết giảng cho thiên hạ về thực thể của trống không
Phần
ta thì noi theo con đường Trung đạo, nhưng rồi cả họ
và
cả ta sẽ gặp nhau trong ngõ cụt,
Chỉ
vì điều ấy không thể mô tả được,
Nếu
diễn đạt bằng lời, nó sẽ mất đi ý nghĩa.
Giác
ngộ lệ thuộc vào Ảo giác.
Đạo
pháp và hiện tượng buộc chặt với nhau.
Suốt
ngày ngồi tụng những bài kinh không lời.
Đêm
đến, thiền định nhưng lại không hành thiền.
Con
chim cu gáy vang bên dòng suối, cạnh nơi gốc liễu đang
rủ bóng.
Trong
đêm một con chó sủa dưới trăng.
Đạo
Pháp của Phật không đối nghịch với sự hài hoà của vạn
vật.
Đâu
có gì khác lạ để cho tôi truyền lại?
Báu
vật ấy đã có sẵn từ muôn đời,
Ngày
cũng như đêm, nó rạng ngời và xoá hết bóng tối trong thế
gian này.
Dù
cho đạt được, cũng không có cách nào để trao nó cho kẻ
khác.
Hãy
suy tư về không hoài nghi và không do dự,
Khi
người tu hành trên đường Phật pháp chỉ cho điều ấy,
kẻ
mê lầm sẽ đảo điên.
Khi
đứa con gái của long thần nói lên điều ấy,
những
người tu hành gia nua sẽ bối rối.
Ha!
Ha! Ha! Báu vật ấy đang hiện hữu bên dưới vòm trời
và
bên trên mặt đất này, nhưng có
mấy
ai biết được.
Chớ
hỏi rằng nó xuất phát từ ngọn núi Kunlun hay ngọn
núi
Gepu,
Vì
báu vật ấy đang ở trong ta,
Ánh
sáng của nó che lấp cả ánh sáng của mặt trời lẫn
mặt
trăng,
Rạng
ngời và vượt xa hơn cả bốn biên giới của vũ trụ này.
Màu
sắc của nó rực sáng đến độ làm cho lòa cả mắt.
Đánh
mất nó, ta sẽ rơi vào đại dương của khổ đau.
Đạt
được nó, tức thời ta sẽ vượt sang được bờ bên kia.
Tôi
trình ra đây vật báu ấy và sẵn sàng hiến dâng cho
mọi
người,
Nhưng
biết phải làm thế nào, khi mà kẻ khác không muốn
nhận.
Ngón
tay chỉ mặt trăng,
Nhưng
ngón tay mù loà cho đến khi nào trăng mọc.
Đâu
là sự liên hệ giữa mặt trăng và ngón tay?
Chúng
khác biệt hay liên hệ với nhau?
Thắc
mắc ấy chỉ là chuyện của những kẻ mới tu hành,
Đang
thu mình trong vô minh.
Nếu
biết nhìn xa hơn quy ước của ngôn từ,
Sẽ
hiểu rằng không có ngón tay, cũng chẳng có mặt trăng.
Nhờ
ngón tay mới chỉ được mặt trăng
Nhờ
mặt trăng mới hiểu được ngón tay
Mặt
trăng và ngón ta không phải một thứ nhưng cũng
không
khác nhau
Câu
châm ngôn ấy chỉ hữu ích đối với kẻ mới tu hành
muốn
đạt đến giác ngộ
Khi
nào nhìn thấy vạn vật đúng với bản thể của chúng
Lúc
ấy mặt trăng sẽ không còn mà ngón ta cũng không có.
Huyền
diệu thay!
Thoát
khỏi mọi cảm nhận,
Vượt
ra ngoài hiểu biết,
Sự
tuyệt vời của Quán Thế Âm.
“Nam
Mô A-Di-Đà Phật”
do
nhà sư Ryokan viết
Đây là câu tụng niệm rất phổ biến trong Tịnh độ tông, thanh âm mang tính cách thiêng liêng của câu tụng niệm sẽ trợ giúp cho tâm thức người tu tập. Tuy rằng Ryokan chọn con đường của Thiền học, nhưng ông vẫn quan tâm đến tất cả các tông phái khác và am hiểu rất tường tận về Tịnh độ.
Không tự buộc chặt vào bất cứ một giáo điều nào, Ryokan đã phóng bút viết câu man-tra trên đây để hướng tâm vào vị Phật Vô Lượng Ánh Sáng, tức là Phật A-Di-Đà. Sự phóng khoáng trong tâm thức của Ryokan hiển hiện một cách tuyệt vời trên những nét bút nhẹ nhàng và lưu loát, mở rộng ra tám hướng, tuy nhiên vẫn giữ được sự trang nghiêm và ngay ngắn của khổ chữ và cả từng nét chữ.
Những
gì đúng ngày hôm qua,
Có
thể là sai ngày hôm nay.
Làm
thế nào có thể hiểu được những gì đang đúng ngày
hôm
nay,
Lại
không phải là sai vào ngày hôm qua?
Vì
thế không thể khẳng định cái đúng với cái sai
Kẻ
ngu đần cố chấp vào một lời ghi chép duy nhất,
Vì
thế lúc nào hắn cũng rơi ra bên ngoài sự hài hoà.
Kẻ
hiểu biết thấm sâu vào cội nguồn của vạn vật,
Sống
thảnh thơi trong an nhiên và tự tại.
Khi
nào không còn cố chấp vào hiểu biết lẫn vô minh,
Thì
mới gọi là bước vào con đường Đạo pháp.
Sự
sống này của tôi từ đâu đến ?
Nó
sẽ đi về đâu ?
Ngay
cả trong từng giây phút của hiện tại, cũng chẳng có
gì
trường tồn.
Mọi
vật đều biến động, mọi sự đều trống không.
Trong
cái trống không ấy, cái “tôi” chỉ hiện hữu trong một
khoảnh
khắc phù du,
Vậy
làm thế nào để biết được một cái gì đó thật sự hiện
hữu
hay không hiện hữu?
Tốt
hơn chỉ cần đơn giản nghĩ rằng,
Cứ
để cho mọi vật đi theo con đường của chúng,
Để
giữ lấy sự an nhiên và thanh thản.
Ảo
ảnh hay giác ngộ
Chỉ
là hai mặt của một đồng tiền
Toàn
cầu hay cá biệt cũng chỉ là những thành phần của
tổng
thể
Suốt
ngày ngồi đọc những quyển kinh không lời
Suốt
đêm thiền định cái phi thiền định
Trong
khóm liễu bên bờ suối, tiếng côn trùng khóc than
Con
chó sủa đưới trăng trong ngôi làng ngủ yên
Không
có gì làm dao động được dòng cảm nhận thanh
thoát
của tôi
Xúc
cảm trong những giây phút này, biết làm sao ghi lại?
Nơi
nào có cái đẹp cũng có cái xấu
Nơi
nào có cái đúng cũng có cái sai
Hiểu
biết và vô minh làm nguồn cội lẫn cho nhau
Ảo
ảnh và giác ngộ tạo tác ra nhau
Từ
nghìn xưa đã là như thế
Đâu
phải hôm nay mới có
Xô
bỏ hay bám víu vào đấy
Chẳng
phải là ngu xuẩn lắm hay sao!
Nếu
muốn đi tìm cái sự thực nội tại
Thì
bận tâm làm gì cái bộ mặt vô thường của vạn vật
chung
quanh
Ai
đó đã từng nói: “Danh xưng chỉ là những người khách
tạm
của hiện thực”
Câu
ấy lưu lại từ nghìn xưa
Dù
cho thiên hạ hiểu rằng danh xưng không phải là
hiện
thực
Những
họ vẫn không nhận thấy được hiện thực không có
cội
nguồn
Danh
xưng và hiện thực không phải là những gì hệ trọng
đáng
quan tâm
Cứ
an vui và thanh thản trong dòng chảy của vô thường.
Phật
là một sự tạo dựng của tâm thức
Con
đường Đạo pháp cũng chẳng hề hiện hữu
Cứ
tin vào lời tôi nói
Đừng
hướng theo một chiều gió nào cả!
Đẩy
cái xe về phương bắc nhưng lại muốn nó tiến về
phương
nam
Thì
đến bao giờ cho đến đích?
Tiếc
thay ngày nay những người tu Phật
Chi
biết bám víu vào ngôn từ để già đi và trở thành lọm
khọm
Những
năm tháng lý luận quẩn quanh nào có ích lợi gì
Có
phải mục đích của môn phái [1] là nắm bắt trực tiếp
mọi
vật
thể đúng với sự hiện hữu của chúng?
Trong
thế giới vô tạo tác không có ảo giác cũng chẳng hề
có
giác ngộ
Qua
những thời gian vô tận, phải chờ đến bao giờ mới
hiểu
được nguyên thủy của Tánh không
Nếu
không hiểu thì cứ hỏi!
Tôi
sẽ trả lời rằng: “Gian nhà của Văn Thù Sư Lợi nằm
vào
hướng đông của lâu đài giác ngộ” [2]
8
Vài vần
Haiku
Suốt
những ngày ròng rã
dưới
những cơn mưa lũ
con
người hoá thành già thêm.
Đi
nhặt củi khô
bước
lên chiếc cầu
trong
sương mù buổi tối.
Giống
như một người say
đang
bước đến
kìa
một ngọn gió xuân.
Trong
an bình mênh mông
tôi
gối đầu lên cỏ ở một nơi nào đó
xa
lắm với túp lều của tôi.
Mùa
thu đã hết rồi
có
mấy ai hiểu được
những
sầu muộn trong tôi?
Khắp
mọi nơi chung quanh
tràn
ngập một vũ trụ
của
những gốc anh đào nở hoa.
Trong
tĩnh lặng vô biên
cả
nơi này và mãi chốn Rozan
kìa
những giọt mưa mùa thu.
“Hôm
nay đêm đầu hè
từ
chiếc am trong núi
nghe
vang lên êm ả
tiếng
nhái kêu
trong
thửa ruộng cạnh nhà”
9
Vài vần
thơ bằng Nhật ngữ
Sau đây là một vài bài thơ viết theo thể Waka. Waka là một trong những thể thơ tiêu biểu nhất của thi ca Nhật bản, trong thể thơ này không được dùng các chữ gốc Hán. Thơ Waka gồm có hai thể loại chính là tanka gồm năm câu với số vần mỗi câu là 5-7-5-7-7, và thể loại thứ hai là chôka có số câu không nhất định, nên bài thơ có thể rất dài, chỉ cần các câu thơ đi từng cặp với số vần là 5-7. Trong phần tuyển chọn dưới đây, các bài thơ nguyên bản tiếng Nhật sẽ được trình bày bên cạnh các bài thơ đã được chuyển ngữ, trong mục đích giúp người đọc nào muốn tìm hiểu âm điệu và nhạc tính của các bài thơ gốc.
Kua
makura Yogoto ni kawaru Yadori ni mo Musubu wa onaji Furusato no yume Yugure
ni Yama
kage no Kusa
no iho ni Kasumi
tatsu Hachi
no ko wo Yugiri
ni Satobe
ni wa Waga
machishi Mizu
ya kumamu Aki
no ame no Nani
to naku Aki
mo yaya Akikaze
no Aki
no mu no Hito
towaba Waga
yado ni Sono
kami wo Yuku
sa ku sa Shirayuki
wa Tarachine
no Tori
to moite |
Này
suy tư bay bổng,
Hãy mang ta theo cùng, Và dừng lại mỗi đêm trong một nơi xa lạ. Cơn mơ mà ta mơ, Sao vẫn chỉ là một, từ lúc chưa xa nhà. Trong
bóng hoàng hôn
Dưới
bóng của ngọn núi
Buổi
sáng đang hái rau
Mãi
hái hoa tím
Trong
bình bát của tôi
Từ
ngôi làng hẻo lánh
Nơi
ngôi làng dưới kia
Mùa
thu tôi chờ đợi
Sáng
sớm, vừa kéo nước
Chờ
lúc cơn mưa Chẳng
hiểu sao hôm nay
Những
đêm dài mùa thu
Ngọn
gió thu
Trong
cánh đồng mùa thu
Nếu
có ai nhắn hỏi
Chung
quanh chiếc am này
Tôi
tự hỏi những ngày xưa đó –
Mỗi
khi ra đi
Tuyết
trắng ngập đầy
Từ
xưa có một thứ
Đừng
nhầm với một con chim
|
“Mây
trên trời, nước trong suối, cứ thế mà trôi”
do
nhà sư Ryokan viết
Nét bút lưu chuyển như mây trên trời, như nước trong khe suối, lưu loát, nhẹ nhàng và linh động, như quyện vào nhau, không thấy một sự đứt đoạn nào, liên tục và nối tiếp trừ trên xuống dưới.
Nước Nhật, suốt trong chuỗi dài lịch sử văn hoá, đã từng có nhiều nhà thư pháp nổi danh, nhưng quả thật hết sức khó để so sánh họ với Ryokan, nhất là sự lưu loát của nét bút. Ryokan sở trường về cách viết linh động, thoáng mát như một làn gió, nhẹ như một làn mây mỏng hay lưu loát như một dòng nước chảy. Thư pháp đối với ông là một thiên phú, nhưng đồng thời ông cũng chuyên cần và luyện tập không ngừng. Ông chép lại những thủ bút của các nhà thư pháp nổi tiếng để học, hoặc tự tập luyện để tìm một thư pháp riêng cho mình. Người ta tìm được sáu tờ giấy nháp mà ông dùng để tập viết, các tờ giấy này đầy cả chữ thảo, không còn một chỗ giấy trắng nào. Mỗi sáng thức dậy ông ra trước am đứng giạng chân thật vững chắc, ngửng đầu lên trời và dùng ngón tay để viết trong không trung, hoặc dùng chiếc gậy để vạch trên mặt đất.
Người ta thường chia thư pháp thành ba loại: Shin hay kaisho là loại cổ điển, rất công thức, ngay ngắn và vuông vắn, thông thường đây là loại dùng để viết các bản chữ Hán, rất minh bạch và dễ đọc; loại thứ hai gọi là Gyô hay gyôsho, ít công thức hơn và ít gò bó hơn, có thể xem là một loại trung gian; loại thứ ba gọi là Sô hay sôho hoàn toàn phóng khoáng và tự do; loại thứ ba là loại khó chủ động nhất, nhưng đồng thời cũng là thể loại tinh tế và cao siêu nhất. Ryokan đã đạt đến tột đỉnh của thể loại thư pháp thứ ba, tức thể loại Shô. Thư pháp là phương cách tu tập của Ryokan, đó là một trong những cách thức tập trung sự chú tâm và chủ động tâm thức. Bắt chước cách viết một tờ thư pháp thì có thể thực hiện được, nhưng sinh khí, sức mạnh và sự chính xác của nét bút cũng như sự vận chuyển của khí lực, thì không bắt chước được. Ông có một người bạn thư pháp tên là Bosạ rất kính phục ông, thường hay tập cách viết của ông, nhưng thật ra không thể nào bắt chước được những nét bút của Ryokan.
Một đêm nơi am cỏ trong rừng Kugami, Ryokan nằm mơ thấy người em là Yushi đến thăm, ông làm hai bài thơ sau đây để gởi về cho em:
Izuku
yori Yoru no yumeji wo Tadori koshi Miyama wa imada Yuki no fukaki ni Ika
ni shite |
Từ
đâu em đã đến Giấc mơ nào đưa lối Đến thăm anh trong đêm Hun hút xó núi này Tuyết giăng đầy khắp lối Anh
giật mình tự hỏi
|
“Tự Nhiên”
Tờ
thư pháp trên đây gồm hai chữ, có thể tạm dịch là Tự
Nhiên, tiếng Nhật gọi là Shizen. Chữ thứ nhất bên phải
có nghĩa là tự một mình (không lệ thuộc vào bên ngoài),
và chữ thứ hai bên trái có nghĩa là thể dạng. Dịch một
cách từ chương thì hai chữ trên đây có nghĩa là thể dạng
tự như thể. Nói chung tất cả những gì hiển hiện trong
vũ trụ là những thể dạng tự như thể. Các thể dạng ấy
là những biểu hiện bên ngoài của Hiện thực. Hội nhập
với Hiện thực tức là Thiền.
Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki có viết như sau:
“Một
vài nét mực thô sơ, có vẻ như được phóng bút một cách
cẩu thả, nhưng thật ra những nét phóng bút ấy có thể đánh
thức trong ta những xúc cảm thật sâu xa và hướng ta vào
tổng thể của những gì thuộc bản chất của chính ta. Cũng
tương tự như thế, khi ta hội nhập vào tâm điểm của thiên
nhiên, và khi sự hiện hữu của ta đã thâm nhập vào đấy
thì ta sẽ cảm nhận được nhịp đập của thiên nhiên cũng
chính là nhịp đập của tim mình”.
(Trích
trong quyển Zen and Japanese culture,
Bollingen
series, Princeton, trang 377)
Yomosugara Kusa no ihori ni Shiba taite Katarishi koto wo Itsu ka wasuremu Ashihiki
no |
Suốt
đêm
Trong am cỏ Ngồi đốt những cành khô Làm thế nào để cùng nhau trò chuyện Phải đến bao giờ cho tôi quên? Bên
một triền dốc đứng,
|
(1) Có lẽ Ryokan muốn nói đến tông phái Tào động.
(2) Người ta thường đề cập đến Tây phương Cực lạc, nhưng gian nhà của Văn Thù Sư Lợi lại nằm vào hướng đông của lâu đài giác ngộ. Câu này có ý đánh đổ những hiểu biết công thức và quy ước, tức nguồn gốc sinh ra bám víu và vô minh.
(3) Ryokan viết bài thơ trên đây cho cha mẹ một đứa bé vừa qua đời.
(4) Ngày Ryokan còn bé, vào những ngày đẹp trời mẹ cậu thường dắt cậu ra ngồi ở bãi biển để nhìn ra hòn đảo Sado ngoài khơi và kể cho cậu nghe những kỷ niệm nơi làng quê của bà trên đảo.
(5) Khi đi ngang một ngôi vườn với những cây táo đỏ đang chín rộ, Rhyokan thèm quá không nhịn được nên hái trộm vài quả và cài lại ở cổng vườn bài thơ trên đây.
(6) Vì già yếu Ryokan phải rời bỏ chiếc am cỏ Gogôan để trở về tá túc trong một túp lều trong ngôi làng Shimazaki.