KINH TẾ HỌC PHẬT GIÁO
Cư sĩ Tâm Nguyện dịch
Lời giới thiệu: Bản
dịch “Kinh Tế học Phật giáo” này là bài thứ ba trong loạt bài “Giới thiệu về tư tưởng của kinh tế gia E F Schumacher”, như đã được trình bày
qua tác phẩm thời danh “Small is Beautiful” xuất bản lần đầu tiên tại London năm 1973, sau đó đã được liên tiếp tái bản tại nhiều nơi, đặc biệt là ở Mỹ. Đó là chưa kể đến nhiều bản dịch ra các ngôn ngữ khác trên
khắp thế giới.
Trước khi đưa ý kiến này vào trong cuốn
sách, thì tác giả đã trình bày dưới dạng một bài báo được phổ biến vào cuối thập niên 1950, và Thủ Tướng Nehru của Ấn Độ lúc còn sinh tiền đã có dịp trao đổi với tác giả về đề tài “Kinh Tế học Phật giáo” và hai vị đã trở thành những người bạn rất tương đắc với nhau .
Chúng tôi đã phải nhờ cậy đến cư sĩ Tâm
Nguyện là người đã từng nghiên cứu lâu năm về Phật học giúp cho việc thực hiện bản dịch này. Xin hết lòng cảm ơn cư sĩ Tâm Nguyện vì đã bỏ ra
nhiều thời gian và công sức để hoàn thành bản dịch. Xin trân trọng giới
thiệu với quý bạn đọc.
California, Mùa Phật Đản Kỷ Sửu 2009
Đoàn Thanh Liêm
'Chánh Nghiệp' là một trong tám 'con đường tu' rất căn bản và quan trọng của 'Bát Chánh Đạo' nhằm giúp người tu dứt được những nguyên nhân xa gần của mọi khổ đau trong đời sống thường ngày. Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này ngay sau khi Ngài thành đạo, rồi tiếp tục suốt 45 năm hoằng pháp, kể cả những ngày cuối đời.
“Chánh nghiệp” là những nghề nghiệp,
việc làm chân chính, ngay thẳng,
dựa vào chính
sức lực của tim óc và bắp thịt của mình để mưu cầu cuộc sống. Vì thế, ta có thể nói rằng
đạo Phật đã có một hướng đi
đúng đắn làm nền tảng cho bộ môn Kinh-Tế-Học Phật-Giáo.
Tại những
quốc gia mà
đa số dân chúng
tin theo đạo Phật thường bảo rằng họ muốn
gìn giữ đức tin theo
chánh pháp của
Phật giáo. Ở Miến Điện,
người dân thường nói rằng “Chúng tôi không thấy có sự đối nghịch nào giữa
giá trị tôn giáo và sự
tiến bộ của kinh tế cả. Sự
an lạc của 'thân'
và sự
thanh tịnh của 'tâm' vẫn thường
trợ duyên cho nhau mà không hề có
tương phản nào” hoặc là “Chúng tôi có thể
kết hợp những
giá trị tôn giáo và
truyền thống tâm linh với những
lợi ích có được từ kỹ thuật tân kỳ rất thành công” hay là “Người dân Miến Điện
chúng tôi có bổn phận phải biết dung hợp một cách hài hòa giữa 'mộng' và 'thực' trong
đức tin của mình, và
suy nghĩ đó vẫn luôn luôn mang lại kết
quả viên mãn.”
Cũng thế, có những
quốc gia khác lại cho rằng họ có thể theo mẫu mực
thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế
hiện đại, và rồi sẽ mời gọi các kinh
tế gia từ những
quốc gia tân tiến đến hướng dẫn họ
phác họa chương trình có tầm cỡ để phát triển kinh tế theo những loại như 'Kế Hoạch Ngũ Niên' chẳng hạn. Và không ai có thể ngờ rằng
phương cách sống theo
đạo Phật, mà ta có thể gọi là kinh tế học
Phật giáo, giống như
nếp sống duy vật chất
hiện đại, lại có thể
mang đến sự thăng tiến như thế.
Ngay cả những kinh
tế gia, cũng như hầu hết mọi chuyên gia khác, vẫn
thường loay hoay trong cái
mù quáng có tính siêu hình của mình mà cứ cho đó là khoa học của
sự thật tuyệt đối cố định, và không được định hình từ trước. Có một số vị lại cho rằng những luật kinh tế đều không mang 'tính siêu hình' hay 'tính giá trị'
như định luật của trọng lực. Tuy vậy,
chúng ta cũng không nên bận tâm đến những cuộc tranh cãi về
phương pháp luận mà chỉ nên
suy gẫm về một số điều
căn bản nhất rồi thử nhìn sự việc bằng cặp mắt của một kinh
tế gia hiện đại và một kinh
tế gia phật giáo để xem
sự thể như thế nào.
Gần như ai cũng
đồng ý rằng sức lao động của
con người chính là cội nguồn
căn bản của mọi sự
giàu có trên đời. Trong khi đó thì những kinh
tế gia lại cho rằng 'sức lao động' hay
việc làm lao công chỉ
đáp ứng phần nào nhu cầu rất
bình thường của
con người. Còn đối với một chủ nhân
ông của
thời kỳ hiện-đại-hóa thì phải giảm đến mức
tối thiểu sức lao động này, và
nếu cần thì làm
triệt tiêu luôn, để làm giảm giá thành sản phẩm. Nhưng với cách nhìn của người công nhân thì đó là sự bất công, vì khi lao động,
con người đã
hy sinh thời gian rảnh rỗi và sự
thoải mái của đời mình để đổi lấy đồng lương, coi như là một
đền bù cho sự
hy sinh, mất mát đó.
Vì thế nên người chủ chỉ muốn có sản phẩm ra khỏi nhà máy mà chỉ phải
sử dụng thật ít sức lao động của thợ thuyền, còn giới công nhân thì
mong được làm việc để lãnh lương và không phải lo bị thất nghiệp.
Trong
thực tế, không dễ gì
áp dụng một trong hai
phương cách trên và
phải
loại bỏ phương cách kia, mà nên
dung hòa bằng cách biết
sử dụng máy móc ở một mức độ
thích hợp nhằm
giảm bớt công việc
nặng nhọc cho người lao động, như
thế năng suất lao động sẽ tăng lên và sản phẩm sẽ xuất xưởng nhiều hơn.
Đồng thời cũng nên
áp dụng chế độ khen thưởng để khích lệ
tinh thần làm việc.
Phương pháp chia việc ra từng phần nhỏ để tăng thêm việc, và tạo thêm công ăn
việc làm cho nhiều người có ít tay nghề.
Sự thật thì cách
vận hành này cũng đã được
áp dụng từ thời xa xưa.
Khi sắp xếp lao động, người
Phật tử thường nhìn đến ba
phương diện :
trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân
thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng
cộng tác với các
đồng nghiệp để tự xóa dần tính
vị kỷ (
chấp ngã), và sau cùng là
mang đến nhiều
phúc lợi để cuộc sống được
an lạc trong
tự tại. Và như thế,
phương cách này nên được
áp dụng liên tục và
mãi mãi.
Nếu sự tổ chức công việc mà luộm thuộm, không
hợp lý, không gây được
hứng khởi, mà chỉ tạo
căng thẳng tinh thần, dễ gây ra bất đồng, mất đoàn kết và đưa đến
bạo động, nghĩa là chỉ tạo
điều kiện cho
tội lỗi phát sinh. Nếu người chủ thiếu
lòng từ bi,
chỉ quan tâm đến sản lượng mà
không
để ý gì đến
đời sống vật chất cũng
như tinh thần của người thợ là
đã
cố ý hay vô tình làm thui chột
ý thức muốn hướng về chân, thiện, mỹ của họ. Mọi
cố gắng đem sự
thoải mái vào
việc làm sẽ giúp cho người thợ thấy cuộc sống có
ý nghĩa hơn. Đó là những
yếu tố rất
cần thiết cho
thực
tế cuộc sống có
đạo lý.
Cũng từ
nhận thức đó, người
Phật tử đã thấy rõ sự khác biệt giữa việc
sử dụng máy móc như công cụ
phục vụ con người, làm thăng hoa cuộc sống, và việc dùng
con người làm
nô lệ cho máy móc. Để làm
sáng tỏ ý nghĩa này, Ananda Coomaraswamy, một người rất
am tường về nét đặc thù của nét
hiện đại phương Tây và nét
cổ truyền phương Đông đã phân tích: “Một người thợ thủ công giỏi bao giờ cũng thấy được sự khác biệt giữa một chiếc máy và một dụng cụ cầm tay. Cái khung cửi dệt thảm được chuẩn bị một cách
cẩn thận, giúp cho người thợ khéo tay,
sử dụng thật
tài tình
các ngón tay của mình để luồn lách đưa từng sợi chỉ màu khác nhau với con thoi tay để có thể dệt một tấm thảm
đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật,
diễn tả hết nét
đẹp tuyệt vời của
văn hóa dân tộc anh, mà chiếc máy dệt tân kỳ thì không làm sao
diễn đạt được nét
tuyệt mỹ ấy.” Từ cách
suy nghĩ này ta có thể
phân biệt được kinh tế học
Phật giáo và kinh tế học
hiện đại. Người
Phật tử thấy được cái
tinh túy của
văn minh nhân loại trong sản phẩm hơn là
chấp chặt vào sản lượng trong
văn minh cơ khí
hóa.
Tính cách nhân bản này, thực sự đã hình thành từ khi
con người biết sản xuất, xác định được nhân cách và
nhận thức chuộng sự
tự do muốn
chọn cho mình một
phương cách sản xuất. Một
triết gia, cũng là một nhà kinh tế người
Ấn Độ Ông J.C.Kumarappa đã đúc kết rằng:
“Nếu mọi người biết quí trọng đúng mức đặc tính của việc làm, thì
sẽ thấy ra giá trị cao hơn trong tương quan nhân quả của việc và sản phẩm, giống như sự liên hệ giữa sức khỏe của cơ thể con người và thực phẩm được hấp thụ. Nhận thức đó sẽ nuôi dưỡng và tạo duyên cho con người
sáng suốt hơn, thăng tiến khả năng sản xuất của mình, hun đúc thêm tinh
thần cầu tiến và cũng biết tự chế lòng ham muốn thấp hèn để luôn luôn có chỗ đứng xứng đáng trong mọi giai tầng của công việc. Đồng thời, khả năng thi thố cũng được nâng cao để thể hiện tư cách, phẩm giá của mình.”
Nếu một người bị
mất việc, thì anh ta sẽ rất
lo lắng và
thất vọng, vì không những chỉ mất đồng lương, mà còn thiếu cả nguồn sống từ
vật chất đến
tinh thần là những
giá trị khó có gì thay thế được. Một kinh
tế
gia thời nay có
thể tính toán
hết sức chuẩn xác làm sao để
mọi người đều có
việc làm cố định và được hưởng lương, hoặc một cách kinh tế hơn, là
bảo đảm được đồng lương trong khi
việc làm có thể thay đổi,
biến động
theo
tình thế, v.v...
Tiêu chuẩn căn bản của sự
thành công trong kinh doanh hiện nay vẫn là tổng sản lượng hàng hóa phải xuất xưởng trong một
thời gian qui định.
“Nếu mức độ
tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút
nghiêm trọng, thì sẽ khó tránh được
tình trạng phải
sa thải công nhân ở những mức độ khác nhau, hoặc
vừa phải hoặc ào ạt” như giáo sư Gaibraith đã viết trong tạp chí The Affluent Society, và hơn thế nữa: “Nếu vì sự ổn định của
lợi nhuận mà phải
chấp nhận sa thải công nhân thì phải
cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho những người bị
mất việc, để họ có thể giữ được mức sống
bình thường,
như một
biện pháp cần thiết không thối thoát được”.
Theo cách nhìn của người
Phật tử thì họ cũng thấy được trong
thực tế
thì còn nhiều người vẫn coi trọng sản phẩm hơn
giá trị con người, và số
lượng hàng hóa được
tiêu thụ vẫn quan trọng hơn phẩm chất của sản phẩm mang tính
sáng tạo. Nghĩa là đã xem nhẹ cái
tài hoa khéo léo của người thợ,
hay nói một cách khác, là hạ thấp
giá trị nghệ thuật của người thợ đi, để tôn vinh cái gì ô uế,
xấu xa theo
thị hiếu thường tình. Điều quan
trọng hơn hết trong
quan niệm kinh tế của
Phật giáo là làm sao cho
mọi người đều có công ăn
việc làm ổn định để kiếm sống. Đó không phải là một
cường điệu trong
sự tạo việc làm, hoặc sự
gia tăng tối đa sản lượng. Khi những người
phụ nữ của
gia đình phải đi tìm việc ở các
văn phòng hay
những nhà máy thì đó là chỉ dấu thất bại
nghiêm trọng của kinh tế.
Cụ thể như là phải nhìn thấy các bà mẹ đang làm việc trong xưởng máy và bỏ các đứa con của mình chạy chơi rong ngoài đường phố là không
hợp lý một chút nào trong ánh mắt của nhà kinh tế
Phật giáo. Còn đối với các kinh
tế gia thời
hiện đại thì bất kỳ ai là người thợ giỏi thì đó là người chiến sĩ
can trường của mặt trận sản xuất.
Trong khi những người
ham sống xa hoa, mong muốn có nhiều hàng hóa để
thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng, thì người
Phật tử chân chính chỉ nghĩ đến
sự giải thoát khỏi những
vướng mắc vật chất thường tình.
Dựa vào con đường “Trung Đạo” của
Phật giáo, người
Phật tử sẽ không thấy có gì là khúc mắc trong sự
an lạc của tự thân. Sự
giàu có không có chỗ đứng trong
sự giải thoát, mà đó chỉ là vướng víu trở ngại mà thôi. Họ không cho hưởng thụ
vật chất là thú vui, mà đó chỉ là những
thèm muốn của
dục vọng
thấp hèn. Nét
căn bản của kinh tế
Phật giáo là tính giản dị và
tinh thần bất bạo động. Từ cách nhìn của một người làm kinh tế
Phật giáo thì tính
mầu nhiệm trong
cách sống đạo hạnh có thể làm toát ra sự
hợp lý của
từng mẫu mực - có khi với những
phương tiện bé nhỏ đến bất ngờ lại có thể
mang đến các kết quả mỹ mãn thật
tuyệt vời.
Đối với một kinh
tế gia hiện đại thì điều này thật là khó hiểu. Ông ta thường đo lường mức sống thường ngày bằng số lượng hàng hóa
tiêu thụ hằng năm của một người, và cho rằng bao giờ một người biết
tiêu thụ nhiều thì
đời sống của anh ta phải
tốt hơn so với một người ít biết
tiêu
thụ.
Một kinh
tế gia Phật giáo thì nghĩ khác, và cho rằng sự
tiêu dùng phung phí là không
hợp lý, vì như thế là
trái với sự
quân bình của
con người.
Mục tiêu mà người
Phật tử phải
đạt được chính là sự
an lạc tối thượng của
thân tâm, và đó phải là kết quả của sự hưởng thụ có
chừng mực. Vì thế, nếu ta chỉ cần quần áo để mặc đủ ấm đối với
thời tiết và đủ
đẹp khi được nhìn thì
hà tất phải
chạy theo thời trang để phải
vứt bỏ đi một cách uổng phí những quần áo không còn hợp thời nữa. Như thế, ta sẽ có đủ
thời gian,
sức khỏe và
phương tiện để chăm sóc làm đẹp cuộc sống
tinh thần, nghệ thuật và
tâm linh. Thật là
không kinh tế chút nào khi
chúng ta phải mất nhiều
thời gian, công sức và tiền bạc để
nuôi dưỡng những kỹ nghệ may mặc
tây phương trong khi còn quá nhiều người nghèo trên khắp địa cầu không có đủ mảnh vải để che thân và cần sự giúp đỡ,
chia xẻ của
chúng ta. Kinh tế học
Phật giáo đã
nghiên cứu một cách có
hệ thống nhằm
chấm dứt mọi nhu
cầu xa xỉ bằng
ý thức “tri túc” và “thiểu dục”.
Một mặt khác thì kinh tế học
hiện đại lại
quan niệm rằng sự
tiêu thụ
là
cứu cánh tối thượng và cũng là
mục tiêu chính của mọi
sinh hoạt xã hội, nên phải
sử dụng nhiều đất đai cũng như sức lao động và vốn liếng để làm
phương tiện phát triển sản xuất.
Nói
tóm lại, tùy vào cách nhìn của hai nền kinh tế
Phật giáo và
hiện
đại, ta thấy được sự dị biệt
tùy thuộc ở
giá trị tinh thần và
vật chất của hai
quan niệm này về sự
tiêu thụ hàng hóa. Từ đó, ta cũng biết được
áp lực đè nặng trên vai của người dân tại hai nước Miến Điện và Hoa Kỳ khác biệt như thế nào. Một nơi thì
mọi người được sống
thanh thản, còn nơi kia thì sự
căng thẳng cứ
triền miên, mặc dù ở Miến Điện tỉ lệ
sử dụng máy móc thay cho sức người lao động so với Hoa Kỳ thì thật là khiêm
tốn.
Ai cũng biết rằng tính
bất bạo động có
liên hệ rất
mật thiết với
cách sống giản dị, nên khi nhu cầu
tiêu dùng ở mức độ
vừa phải thì ta sẽ
thấy
tinh thần được
thảnh thơi, bớt được nhiều nỗi lo toan, chạy vạy cho có đủ
phương tiện tiền bạc nhằm
thỏa mãn ý thích. Như thế là
đáp ứng
được ý
lời Phật dạy: “luôn tránh điều xấu ác, làm nhiều điều thiện lành, và giữ
tâm thanh tịnh.”
Củng vì tài nguyên
thiên nhiên ở khắp
mọi nơi đang cạn dần, và nếu
mọi người đều tự bớt nhu cầu
tiêu dùng thì sẽ giúp làm
giảm thiểu được những
tranh giành, cướp giật đầy tính
bạo hành mà ta thường thấy xảy ra ở
những
quốc gia, dân chúng đang sống
dựa vào nền kinh tế toàn cầu.
Mọi nền sản xuất khởi đi từ tài nguyên của địa phương nhằm
thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cùng sống trong vùng, thì đó là
phương cách rất
thích hợp với
quan điểm kinh tế
Phật giáo. Nếu phải
tùy thuộc vào nguồn hàng hóa nhập từ một nơi xa xôi, và được sản xuất bởi những người
xa lạ thì đó là những
trường hợp ngoại lệ và chỉ được
áp dụng rất
giới hạn trong
cộng đồng Phật giáo.
Chính vì kinh
tế gia hiện đại chấp nhận một sự
tốn kém khi để một người phải
di chuyển thật xa từ nhà đến nơi làm việc, và cũng không hợp với
tiêu chuẩn của
nếp sống cao, nên kinh
tế gia Phật giáo đã thấy ra đó
là một sự thất bại khi phải dùng nhân sự đến từ một nơi xa xôi để
thỏa mãn theo ước muốn của họ, thay vì
sử dụng những người sống trong vùng
lân cận.
Thống kê kinh tế
hiện đại thường
dựa vào sự
tăng trưởng của các con số 'tấn hàng hóa' hoặc 'dặm đường vận chuyển' tính trên đầu người của dân số mỗi
quốc gia.
Phương pháp này được
xem như là
tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế, thì những số liệu thống kê này lại
trở thành chỉ dấu
của sự tàn hại các mẫu mực
nhận thức về nhu cầu trong cuộc sống của người có
đức tin Phật giáo.
Một
nhận định rất nổi cộm về sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này đối với việc
sử dụng tài nguyên
thiên nhiên của trái đất. Bertrand de Jouvenel, một
triết gia về chính trị rất
nổi tiếng người Pháp đã định hình “Con người Tây phương” theo lời
mô tả rõ ràng của một kinh
tế gia hiện đại là:
Ông ta có khuynh hướng không kể bất kỳ thứ gì là phí tổn, mà chỉ chú
tâm vào sự nỗ lực của con người, ông ta có vẻ như không màng đến tài nguyên mà mình đã phí phạm, và tệ hại hơn nữa, là có bao nhiêu sinh linh
mà ông ta đã hủy diệt. Ông ta tỏ vẻ như không cần biết rằng nếp sống của con người là một phần lệ thuộc vào một hệ thống kinh tế gồm nhiều hình thái của đời sống. Vì thế giới này như bị chi phối bởi những thành phố mà ở đó người ta bị tách ra từ hình thái nào đó của đời sống không phải là tính người, và cảm giác về những gì là sở hữu của hệ thống kinh tế coi như là đã mất hẳn. Điều này đưa đến những hệ quả rất tệ hại không
lường trước được trong cách hành xử đối với những thứ mà con người phải
rất cần đến, giống như đối với nước uống và cây rừng vậy .
Hơn nữa,
đức Phật cũng truyền dạy
mọi người nên đối xử
từ bi không những chỉ đối các sinh vật như
loài người và
động vật mà cả với cây cỏ nữa. Mỗi
Phật tử nên
phát tâm thường xuyên trồng thêm cây và chăm bón
cho đến khi cây có
đủ sức tự lớn mạnh. Nhìn vào
sự kiện này, người
Phật tử có thể xác
định tính độc lập của nền kinh tế, nghĩa là không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài mà
vẫn có thể tự phát triển. Có nhiều
quốc gia
ở vùng đông nam Á châu (và cả một số các vùng khác trên
thế giới) vẫn bị chậm tiến một cách tủi hổ vì
coi thường việc trồng cây gây rừng.
Còn kinh tế học
hiện đại thì không
để ý vào sự dị biệt giữa những
vật liệu tái sinh được và không
tái sinh được, mà chỉ lo tính cho
quân bình và đủ số lượng của những
vật liệu ấy bằng cách dùng trị giá của
đồng tiền để chi trả. Vì thế, khi phải
sử dụng những loại nhiên liệu có thể thay
thế cho nhau như than đá, dầu hỏa, cây rừng, hoặc sức nước, thì
các kinh
tế gia hiện đại chỉ nói đến trị giá tương đương của từng loại để
phân biệt. Và
dĩ nhiên loại nào rẻ nhất sẽ được
ưu tiên dùng đến, vì
nếu không là như thế thì chẳng
hợp lý và kinh tế chút nào! Theo
quan điểm của kinh
tế gia Phật giáo thì
dĩ nhiên không phải là như thế, vì sự
khác biệt giữa hai loại nhiên liệu không
tái sinh được như dầu hỏa hay than đá và
tái sinh được như cây rừng hay sức nước thì không thể được
xem xét quá giản dị như thế. Đối với loại nhiên liệu không
tái sinh được
thì chỉ nên dùng khi thực sự
cần thiết, và phải
hết sức cẩn trọng vì
lý
do cần được
bảo tồn.
Sử dụng bừa bãi và
lãng phí loại nhiên liệu này là
một hành động mang tính
bạo động. Và để
chu toàn việc
gìn giữ tính
bất bạo động trên trái đất này là điều khó
đạt được. Bổn phận của mỗi
con người là phải hướng đến
mục đích lý tưởng là làm bất cứ việc gì cũng không được
bạo động.
Chính như một kinh
tế gia hiện đại ở Âu châu có
thể không nghĩ rằng nếu tất cả
tài sản nghệ thuật đã bán sang Mỹ với giá
hấp dẫn thì không phải là một động thái
thành công về kinh tế. Còn kinh
tế gia Phật giáo thì
nhấn mạnh rằng nếu dân chúng chỉ sống
dựa vào những loại nhiên liệu không
tái sinh được như dầu hỏa hay than đá thì cũng như là sống bám vào
tư bản thay vì
dựa vào thu nhập của chính mình.
Nếp sống ấy sẽ không bao giờ được
thường xuyên ổn định mà phải được
điều chỉnh sao cho được
thích hợp một cách tạm thời. Vì nếu những nguồn nhiên liệu như than đá, dầu hỏa và khí đốt được khai thác
quá đáng và phân bố không
đều đặn trên
toàn cầu, thì ắt hẳn đó là một hành động có tính bạo lực đối với
thiên nhiên và sẽ không tránh
đưa tới sự
bạo động giữa
con người.
Riêng
sự kiện này thôi cũng là chất liệu cho những
quốc gia Phật giáo phải
suy nghĩ. Cho dù họ không
quan tâm gì đến những
giá trị tôn giáo và
tâm linh trong
truyền thống của mình, họ vẫn rất mong được ôm cả
chủ nghĩa duy vật của kinh tế học
hiện đại càng nhanh càng tốt. Trước khi cởi bỏ được
quan niệm kinh tế học
Phật giáo, vì đó chỉ là một giấc mơ muốn 'trở về cố hương' không hơn không kém, thì họ cũng rất muốn sẽ đi được trên
con đường phát triển của nền kinh tế
hiện đại, và rồi sẽ dẫn họ đến một nơi mà họ muốn tới.
Dẫn chứng ở phần cuối của
tác phẩm đáng khích lệ của mình là quyển 'The Challenge of Man's Future' giáo sư Harrison Brown ở Viện Kỹ Thuật California đã
đánh giá:
Như chúng ta thấy một cách căn bản rằng xã hội công nghiệp thì không còn ổn định nữa, mà phải bị biến dạng thành một hình thái mang tính nông nghiệp, và trong đó, những điều kiện cho tự do cá nhân cũng không còn chỗ đứng với khả năng tránh được những tình trạng bị áp bức bởi một hình thái tổ chức chặt chẽ với sự kiểm soát độc đoán. Thật vậy, khi chúng ta quan sát tất cả những khó khăn có thể hăm dọa sự sống còn của nền văn minh công nghiệp, mà ta đã biết từ trước, thì thật là không dễ gì tìm ra phương cách để vẫn giữ được sự ổn định của nó cho đến cuối và bảo toàn được sự tự do cá nhân như một dung hợp hài hòa.
Cho dù
hiện tượng này đã không còn nữa trong cách nhìn dài hạn, nhưng ta vẫn phải
đối diện với
vấn đề tức thời là liệu “sự
hiện đại hóa”- vẫn
đang tồn tại bất chấp những
giá trị tôn giáo và tâm linh- có còn thực sự sản sinh được những hệ quả
chấp nhận được hay không. Những khối lượng thấy được thì thật là kếch xù, nhưng
hậu quả thì cũng thật là
khủng khiếp - nền kinh tế nông thôn thì đã sụp đổ,
tình trạng thất nghiệp thì lan tràn khắp mọi thành phố và
quốc gia, còn sự
tăng trưởng tính vô sản thành phố thì không có khả năng
nuôi dưỡng được
con người cả
phần
thể chất lẫn cả
tâm hồn nữa.
Dù cho ai còn
tin tưởng rằng sự
tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn những
giá trị tôn giáo và
tâm linh, thì dưới ánh sáng của cả
kinh nghiệm thực tiễn trong
hiện tại và
viễn ảnh tương lai dài hạn, việc
nghiên cứu kinh tế học
Phật giáo vẫn rất cần được
quan tâm. Vì đó không phải là việc chọn lựa giữa “sự lớn mạnh hiện đại” và “sự trì trệ cổ điển”, mà là
vấn đề tìm ra một
con đường đúng cho sự phát triển. Đó chính là
con đường “Trung Đạo” giữa sự
thờ ơ của các “sứ giả duy vật” và
sự
bất động của các “nhà tồn cổ”.
Hay nói một cách ngắn gọn là tìm cho ra
con đường của“Chánh Nghiệp”.
(Bản dịch toàn văn của Chương 4 : Buddhist Economics)
Trích từ sách “Small is Beautiful” của E F Schumacher, xuất bản 1973.