Tinh Thần Bình Đẳng Trong Giáo Dục Phật Giáo - Nguyên Hồng

22/12/201012:00 SA(Xem: 23808)
Tinh Thần Bình Đẳng Trong Giáo Dục Phật Giáo - Nguyên Hồng

TINH THẦN BÌNH ĐẲNG
TRONG GIÁO DỤC PHẬT GIÁO

Nguyên Hồng

Tư tưởng nhất thừacứu cánh của giáo dục Phật giáo nên nó bao trùm mọi tư duy và hành động của giáo dục Phật giáo, trong đó có tư tưởng bình đẳng trong xã hội. Chư Phật thế tôn vì một nhân duyên trọng đạixuất hiện ở đời. Câu này nói lên nguyên nhân chủ quan cho sự hiện hữu của đức Phậtgiáo lý của ngài. Nguyên nhân chủ quanlòng từ bi vô hạn của chư Phật. Vì lòng từ bi mà xuất hiện ở đời độ thoát chúng sinh trở về với bản thể thanh tịnh bình đẳng. Còn xuất hiện ở đâu và khi nào, đó là nguyên nhân khách quan, là bối cảnh xã hộithuật ngữ Phật học gọi là thời và cơ.

Xã hội Ấn Độ thời Thích Ca Mâu Ni ra đời là mảnh đất phì nhiêu cho tư tưởng bình đẳng phát sinh và nảy nở. Nói theo ngôn từ của nhà nghiên cứu văn hoá và xã hội thì Thích Ca Mâu Ni là người đã làm một cuộc cách mạng văn hóaxã hội thời bấy giờ. Bởi vì Thích Ca Mâu Ni đã làm đổ nhào mọi tư duy tư tưởng cũng như thang giá trị xã hội đương thời. Nếu thử làm một so sánh nhỏ cũng thấy không kém phần thú vị. Thí dụ đạo Bà la môn chủ trương thần Brahma sáng tạo ra vũ trụ. Phật dạy vạn sự vạn vật đều do duyên sinh. Đạo Bà la môn chủ trương sát tế đẫm máu. Đạo Phật chủ trương từ bi không giết hại sinh mệnh. Đạo Bà la môn nặng tế lễ cầu thần linh cứu giúp. Đạo Phật thì tu tập thiền quán để tự giác ngộ và giải thoát. Để trở thành thầy Bà la môn, người đó phải xuất thân từ giai cấp Bà la môn. Còn để trở thành tu sĩ Phật giáo thì bình đẳng không phân chia giai cấp. Thầy Bà la môntại gia, phải có vợ con và bắt buộc phải có kinh tế gia đình sung túc. Tu sĩ Phật giáo thì xuất gia từ thân cát ái và không nắm cầm tiền bạc. Thầy Bà la môn để tóc dài quấn quanh đầu, bịt khăn trắng để bảo vệ khối tư tưởng. Tu sĩ Phật giáo cạo bỏ râu tóc. Thầy Bà la môn ăn mặc toàn trắng tượng trưng cho sự thanh khiết. Tu sĩ Phật giáo mặc áo phấn tảo màu đất vàng biểu tượng cùng đồng hành với những người lầm than trong xã hội. Theo luật Manu, phụ nữtài sản của nam giới. Theo Phật giáo thì nam nữ bình đẳng, được xuất gia tu học, độ đệ tửchứng quả vị như nam giới v.v...

Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính tất hữu.” cho nên đối với quan hệ giữa người và người là một quan hệ tuyệt đối bình đẳng, không có người cao thượng hay hèn hạ vì phân biệt giai cấp, không có tôn ti vì phân biệt nam nữ, cũng không có hạng giáo dục được và hạng người nào là không giáo dục được. Theo Phật dạy thì cao thượng hay hèn hạ là do hành vi con người chứ không do giai cấp. Không thể nói trong giới quí tộc không có người hèn hạ, cũng như không thể nói trong giới bình dân không có người cao thượng. Tư tưởng bình đẳng trong đạo Phật dạy con người phá bỏ sự phân chia giai cấp. Điều này Phật dạy trong nhiều kinh, và chính tự thân đức Phật tự thân thực hiện trong việc độ người xuất giasinh hoạt bình đẳng trong tăng đoàn. Rõ nét nhất, trong Kinh Tiện Dân (Nipata) câu 136 Phật dạy: “Không ai sinh ra là tiện dân, không ai sinh ra là Bà la môn. Do hành vicon người thành tiện dân, do hành vicon người thành Bà la môn.” Đường lối giáo dục bình đẳng không phân biệt, Phật dạy: “Giáo pháp của ta như nước trong, rửa sạch mọi ô uế, không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, nam nữ. Chỉ cần tu tập theo đường lối của ta thì đều được cứu độ. Ta quyết không vì nể những hạng tôn quí mà chọn lấy kẻ giàu sang vương giả. Ta đã độ cho Upali, người sinh ra trong giai cấp tiện dân và Shurata nghèo khổ. Ta cũng dùng cách thích ứng với năng lực những hạng ngu si tham dục. Giáo pháp ta không thiên vị một đảng phái nào mà là con đường chân chính bình đẳng an ổn cho tất cả dân chúng.” Đây là một đoạn dẫn của Hữu Tùng Viên Đế để kết luận bộ “PHẬT GIÁO THÁNH ĐIỂN” do ông biên dịch. (Trích dẫn lại của Ōno Shinzō trong tác phẩm NGHIÊN CỨU HỌC THUYẾT KINH TẾ XÃ HỘI PHẬT GIÁO, 1956, Tokyo)

Việc Phật độ cho người nữ xuất gia là một đặc điểm ưu việt trong giáo dục Phật giáo nhất là ở thời điểm Phật tại thế. Hơn thế nữa không những được độ cho xuất gia mà còn được đầy đủ các quyền hành xử vai tròđại Phật tuyên dương” tức thay Phật thuyết giảng độ chúng, tổ chức và điều hành ni bộ để tu học. Về điểm nam nữ bình quyền bình đẳng, ở thế kỷ 21 này còn là niềm ước mơ ở nhiều nơi trên hành tinh chúng ta nhưng vẫn còn tồn tại nhiều điều phi lý như đạo luật xử ném đá cho đến chết những phụ nữ ngoại tình mà trong khi đó thì nam giới không bị áp dụng điều luật đó, hoặc nữ tu không được làm phép thánh cho tín đồ v.v...

Hơn thế nữa tinh thần bình đẳng đến triệt để không những nữ nhân mà cực ác xiển đề cũng thành Phật. Nghĩa là không một hạng người nào không được độ thành Phật. Tất cả đều có Phật tính thì tại sao không thành Phật được. Có phải do ta không đủ năng lực giúp họ khơi dậy cái Phật tính tất hữu trong họ hay không? Đứng về ý nghĩa giáo dục mà nói, đó là do người thầy không đủ kiến thức, phương pháp sư phạm cũng như nhiệt tâm nên đã nói một cách thiếu trách nhiệm rằng đó là một đứa trẻ không giáo dục được.

Nếu đem đối chiếu tư tưởng nhất thừatư tưởng bình đẳng trong giáo dục Phật giáođức Phật đã dạy trên 2500 năm với tư tưởng bình đẳng trong giáo dục của thế giới thời hiện tại có thể nói là không thể làm một so sánh được. Vì tư tưởng bình đẳng trong giáo dục mới được quan niệmtriển khai trong thế kỷ 20 nhưng còn rất nhiều chỗ bất cập và bất khả thi. Với ý tưởng bình đẳng trong giáo dục thì mọi trẻ em đến tuổi đi học đều có quyền hưởng quyền được giáo dục một cách đồng đều. Giai đoạn trẻ em được hưởng quyền lợi giáo dục đồng đều đó ngắn dài khác nhau và hưởng những gì hưởng như thế nào khác nhau tuỳ theo mỗi quốc gia. Nhưng nói chung quốc gia nào cũng có giai đoạn giáo dục đó. Nước ta gọi là giai đoạn giáo dục phổ cập, Trung Quốc, Nhật Bản gọi là nghĩa vụ giáo dục, các nước Âu Mỹ gọi là giáo dục cưỡng bách (Education obligatoire, hay Compulsory education). Cho dù bằng ngôn từ gì, phổ cập hay nghĩa vụ hay cưỡng bách khắp thế giới không thiếu trẻ con đi ăn xin, bán rong, đánh giày hay bị bóc lột lao động trong những nhà máy mà Ủy ban nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã nhiều lần lên tiếng.

Về mặt lý thuyếtphương pháp, tâm lý giáo dục cũng từ thế kỷ 20 được phát triển đa dạng và phương pháp trắc nghiệm tâm lý được áp dụng khá phổ biến trong học đường. Phương pháp trắc nghiệm trí thông minh gọi là IQ Test được dùng để phân loại trẻ. Theo lý thuyết người ta cho rằng trẻ em có chỉ số thông minh IQ dưới 70 là trẻ không giáo dục được (uneducable). Với tinh thần giáo dục Phật giáo thì đây là quan điểm không thể chấp nhận. May thay quan niệm này ngày nay vừa được xét lại.

Phật giáo là giáo thuyết lấy con người làm trung tâm, giải quyết mọi sinh hoạt thực tế của con người trong hoàn cảnh nó đang sống để từ đó thăng tiến hơn lên. Đạo Nguyên thiền sư khai tổ của dòng thiền Tào Động Nhật Bản đã nói “thế pháp tức Phật pháp” và chân như pháp thân không có nghĩa là trạng thái của một thế giới thanh tịnh nào khác hoàn toàn không liên quan đến sinh hoạt thực tế của con người. Cho nên vai trò của giáo dục Phật giáoquan sát cái xã hội đang liên tục biến đổi để cải thiện con ngườixã hội. Người tu Phật hành Phật sự phải đứng trên lập trường lấy hiện tượng sinh hoạt thực tế của xã hội làm cơ sở giải đáp nguyện vọng về tinh thần cũng như vật chất của dân chúng. Nói vắn tắtPhật giáo phải hiện đại hóa thực tế hóa và động thái hóa. Nói hiện đại hóa, thực tế hóa, động thái hóa tức đương nhiên bao hàm vấn đề xã hội hóa và dân chủ hóa. Phật giáo vốn không xa rời lập trường xúc tiến lợi ích cho dân chúng. Và “bồ tát” trụ tâm nơi từ bi hỉ xả vì tất cả dân chúng mà nỗ lực theo đuổi lợi ích thế gianxuất thế gian.

Khi xuất hiện Phật giáo đại chúng bộ thì tên Phật giáo Đại thừa cũng mang ý nghĩa Phật giáo thế tục hóa, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa xã hội hóa. Nói như một nhà nghiên cứu tôn giáo triết học người Đức Leopold Zielger trong Der ewige Buddho, 1922: “Tôn giáo của đức Phật xưa nay vốn là tôn giáo lấy dân chúng làm bản vị, một tôn giáo vô cùng dân chủ, một tôn giáo luôn luôn đổi mới”. Vì vậy Phật giáo thời hiện tại phải xác minh lại tính xã hội và vì dân. Nói xác minh lại bởi vì trong quá khứ việc thế tục hóa Phật giáo ở Trung Quốc cũng như ở Nhật BảnViệt Nam đã nhiều thời trở thành một thứ tôn giáo gia tộc hóa, triều đại hóa. Và khi quyền thế chi phối thì Phật giáo trở thành một thứ công cụ xa rời lớp dân chúng bình dân, mất đi tính xã hội vốn có. Từ đó Phật giáo trở thành một thứ đồ cổ mỗi khi được nhắc đến, còn trong thực tế chỉ còn lại như một thứ nghi lễ trong tang tế mà thôi.

Điều mà người tu Phật, hành Phật sự ngày nay là triển khai nguyên lý, giáo thuyết của đức Phật, vận dụng làm sống lại tính xã hội hóa của đạo Phật. Trong kinh giáo nguyên thủy cũng như kinh giáo thời Đại thừa phát triển đức Phật đã từng dạy phải làm thế nào.

(Trích từ Tiểu Luận Giáo Dục Học Phật Giáo - Nguyên Hồng)

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.