Tăng sĩ trẻ Phật giáoxã hội hiện đại | Young Buddhist Monastic Members and the Modern Society

26/08/20225:39 SA(Xem: 1675)
Tăng sĩ trẻ Phật giáo và xã hội hiện đại | Young Buddhist Monastic Members and the Modern Society
TĂNG SĨ TRẺ PHẬT GIÁOXÃ HỘI HIỆN ĐẠI 
YOUNG BUDDHIST MONASTIC MEMBERS AND THE MODERN SOCIETY
Ven. Shi Yuande(Liu Yaoping) | Tâm Minh dịch Việt

Ven. Shi Yuande(Liu Yaoping)
Ven. Shi Yuande(
Liu Yaoping)

Mục tiêu của Đức Phật khi thành lập Tăng đoàn Phật giáo là mong cho các tăng sĩ kế thừa truyền tải thông điệp của Ngài đến nhân loại về sự an lànhhạnh phúc. Do đó, chắc chắn rằng việc phục vụ nhân loại tuân theo sứ điệp của Đức Phậttrách nhiệm kế thừa của các tăng sĩ trong tăng đoàn. Mục đích của tiểu luận này là xem xét cách thức các tăng sĩ trẻ kế tục có thể thực hiện vai trò phục vụ nhân loại, và thảo luận về cách các vị ấy nên đối mặt với những vấn đề hiện đại trong xã hội toàn cầu hóa.

Không còn hoài nghi gì nữa, các tăng sĩ trẻ  kế thừatrách nhiệm lớn lao là trở thành những cố vấn tôn giáo tốt cho nhân loại. Đức Phật đã trình bày những lời dạy của Ngài vì sự an lànhhạnh phúc của con người nhằm thoát khỏi những bất hạnhđau khổ của từng cá nhân cũng như xã hội. Đạo Phật không chỉ là một triết lý sống mà còn là một cách sống nên được mọi người áp dụnghạnh phúc của mình. Vì vậy, với tư cách là những cố vấn tôn giáo có tiềm năng, trách nhiệm đầu tiên của các tăng sĩ trẻ trong tăng đoàntuân thủ những lời dạy của Đức Phật và tự mình trở thành tấm gương cho những người khác noi theo.

Đó còn là một thực tế để thấy rằng Đức Phật được tôn kính và nhớ đến vì đã thành lập một tổ chức phúc lợi xã hội lâu đời nhất trên thế giới. Hơn hai nghìn năm trăm năm trước, Đức Phật bắt đầu xuất gia với tư cách là tổ chức phúc lợi xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người bao gồm sáu mươi vị A-la-hán với mục đích duy nhấtphục vụ nhân loại[1]. Mặc dù bắt đầu với một số lượng nhỏ các vị tăng sĩ, nhưng theo thời gian đã phát triển thành một tổ chức to lớn bao gồm hàng ngàn tăng sĩ trải khắp thế giới ngày nay. Do đó, với tư cách là tăng sĩ của tổ chức xã hội lâu đời nhất trên thế giớilịch sử hơn 2000 năm trăm năm không bị gián đoạn, mặc nhiên các tăng sĩ trẻ của tổ chức có trách nhiệm lớn lao phục vụ nhân loại liên tục như mong đợi của Đức Phật, bậc thầy vĩ đại nhất của chúng ta.

Là những tăng sĩ trẻ của ngôi tự việndi sản truyền thống để phục vụ nhân loại, họ phải đủ thành tâm để suy nghĩ về việc liệu có toàn tâm toàn ý thực hiện bổn phận của mình để làm việc vì lợi ích của nhiều người hay không. Ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận rằng các tăng sĩ tu viện đang phải hứng chịu sự chỉ trích thậm chí từ những người sùng đạo Phật, những người cho rằng các tăng sĩ tu viện của họ đang dần đi chệch khỏi con đường truyền thống. Như Đức Phật đã chỉ ra, các tăng sĩ xuất gia chủ yếu bị ràng buộc bởi hai trách nhiệm: một là đặt mình vào vị trí nghiêm cẩn, hai là phục vụ người khác vì hạnh phúc của họ. Ở đây cần lưu ý rằng để hoàn thành trách nhiệm thứ hai, người ta cần phải hoàn thành trách nhiệm đầu tiên.

Đức Phật đã đề xuất những trách nhiệm này một trong những câu Kinh Pháp Cú“trước tiên người ta nên khép mình trong những gì đúng đắn; thì mới nên khuyên người khác. Vậy thì người trí tuệ không thể bị ô uế”[2]. Câu nói này của Đức Phật trong Kinh Pháp Cú dường như ngụ ý một thông điệp quan trọng đối với các tăng sĩ của hàng xuất gia nói chung và các tăng sĩ trẻ nói riêng. Thông điệp ngụ ý rằng một người quan tâm đến việc phục vụ hoặc tư vấn cho người khác nên khắc kỷ bản thân. Một hàm ý quan trọng khác có thể được rút ra từ lời tuyên bố của Đức Phật là định nghĩa về sứ mệnh gắn liền với các tăng sĩ kế tục truyền thống Phật giáo.

Cả hai yếu tố này đều có ý nghĩa đặc biệt đối với các tăng sĩ trẻ kế thừa vì họ mới gia nhập tăng đoàn và vẫn đang trong thời gian thử việc, trải qua quá trình đào tạo để phục vụ nhân loại như mong đợi của Đức Phậttrách nhiệm đối với hạnh phúc của người khác thực sự có thể được hiểu là làm việc vì lợi ích của chính mình. Đạo Phật công nhận hai yếu tố lợi ích, đó là lợi ích của ai đó (attadattha) và lợi ích cho người khác (parattha). Một người không thể làm việc vì lợi ích của người khác nếu không cam kết thực hiện lợi ích của chính mình. Đó là lý do tại sao Đức Phật khuyên như vậy: “Vì lợi ích của người khác, dù nó có thể lớn đến đâu, cũng đừng bỏ qua lợi ích (đạo đức) của chính mình. Nhận thức rõ ràng lợi ích của chính mình, người ta nên cố gắng hết sức để đạt được nó”[3]. Ở đây cần đề cập một cách thấu tình rằng lợi ích của chính một người không nên bị hiểu nhầm là kỳ vọng được thúc đẩy ích kỷ của chính người đó. Đạo Phật không khuyến khích bất cứ điều gì không ảnh hưởng đến người khác một cách xây dựng. Một học giả Phật giáo nhận xét:

Giáo lý Phật giáo ban đầu dựa trên thuyết tương đối không bao giờ chỉ chấp nhận phúc lợi cá nhân mà không xem xét đến nhu cầu của xã hội. Nó luôn nhấn mạnh sự an toàn của cả xã hộicá nhân”[4]

Trong phạm trù Phật giáo, cam kết vì lợi ích của bản thânnghĩa không gì khác hơn là sự cống hiến của một người để có được sự hiểu biết về Pháp hoặc những lời dạy của Đức Phậtthực hành Pháp phù hợp. Đây thực sự là một trong những thách thức mà các tăng sĩ trẻ xuất gia gặp phải. Họ phải đối mặt với thách thức này trước khi có thể đối mặt với những thách thức nảy sinh từ xã hội hiện đại. Chỉ khi đó, mới hiểu được bản chất thực sự của những thách thức trong xã hội hiện đại hầu có thể đối mặt với chúng một cách thỏa đángthành công. Về mặt này, kiến ​​thức toàn diện về Phật giáo là điều bắt buộc đối với các tăng sĩ trẻ của Tu viện nếu họ quan tâm đến việc tiếp thụ những lời dạy của Đức Phật và chia sẻ những lợi ích nhận được thông qua Giáo pháp với phần còn lại của thế giới. Nhưng, đáng tiếc là nhiều người có mục đích thực hành Phật pháp cho riêng họ, thay vì sử dụng nó cho mục đích tự giác. Tự kỷ luật làm cho một người trở thành gương mẫu đối với người khác và chỉ khi đó người ta mới có thể đóng góp to lớn cho hạnh phúc của chúng sinh.

Một trong những mục đích của việc thành lập tăng đoàn là để cho Phật giáo tồn tại lâu nhất có thể và tiếp cận với càng nhiều người càng tốt, với mục đích giúp nhân loại đạt được hạnh phúc bằng cách vượt qua những khốn khổ của cá nhânxã hội. Do đó, bổn phận hàng đầu của các tăng sĩ kế thừa là phải liên tục thực hiện trách nhiệmĐức Phật đã giao phó. Điều này chỉ có thể đạt được một cách mỹ mãn khi các đệ tử của Đức Phậttrí tuệ, kỷ luật tốt, học hỏitinh thông, giữ gìn Giáo pháp, sống theo Chánh pháp, tuân thủ các hạnh kiểm phù hợp và có khả năng học hỏi lời Phật dạy, rao giảng và truyền bá Chánh pháp, giải thích nó một cách chi tiết và làm rõ ràng hơn; đặc biệt là khi có ý kiến ​​bất lợi, sẽ có thể hóa giải một cách thuyết phục, thấu đáo và tốt đẹp[5]” Những đặc điểm tương tự đã được Đức Phật liệt kê theo một cách hơi khác trong kinh Pāsādika như những yếu tố dẫn đến việc thành lập Giáo Pháp[6]. Thành lập Phật giáo không có nghĩa là tăng số lượng người thụ hưởng Phật giáo. Đó là dịch vụ vĩ đại nhất mà các tăng sĩ tu viện Phật giáo có thể làm được cho nhân loại. Vì vậy, nó là đáng giá để chú ý đến các đặc điểm được đề cập..

Trong câu nói trên, Đức Phật đã nói rằng có hai phần quan trọng cần phải được chú ý. Phần đầu đề cập trực tiếp đến khía cạnh hạnh kiểm của các môn đệ. Nó nhấn mạnh các đặc điểm hoặc phẩm chất như “trí tuệ, kỷ luật tốt, có năng lựchọc thức cũng như các hành vi như kiên trì Giáo pháp, sống phù hợp với Giáo pháptuân thủ các hành vi thích hợp”. Khi các tăng sĩ của tăng đoàn được trao những phẩm chất này, có thể được coi là những người hoàn thành lợi lạc của chính mình (attadattha). Ở đây cần nhấn mạnh rằng người ta không thể mong đợi các tăng sĩ của Tăng đoàn trong thế giới hiện tại đã hoàn thành lợi ích của chính họ theo nghĩa tuyệt đốithực tếlý tưởng Phật giáo đã thay đổi do nhiều nguyên nhân. Dù sao, điều bắt buộc là ít nhất các vị này đang làm việc hướng tới lý tưởng của Phật giáo. Nếu không, không thể nói là đã thực hiện đúng trách nhiệm của mình và sẽ không thể đối mặt với những thách thức của xã hội hiện đại hầu mang lại kết quả như mong đợi cho những nỗ lực của mình vì sẽ không thể chiếm được lòng tin của Phật tử, người dân.

Rõ ràngĐức Phật rất quan tâm đến hạnh kiểm của các tăng sĩ trong trật tự vì mỗi và mọi tăng sĩ đại diện cho trật tự nói chung. Nếu hạnh kiểm của một tăng sĩ bị tì vết thì hình ảnh của toàn thể Tăng sĩ Phật Tử cũng vậy. Hành vi xấu của một tăng sĩ không chỉ có hại cho bản thân người đó mà còn có hại cho toàn bộ trật tự bởi vì mọi người sẽ nói chung chung rằng tất cả các tăng sĩ trong trật tự đều có chung một hành vi. Hội không có nghĩa là vì lợi íchphúc lợi của các tăng sĩ mà là của nhân loại. Nếu hình ảnh của đơn đặt hàng bị hoen ố do hành vi của một cá nhân, thì mọi người sẽ miễn cưỡng tìm kiếm lời khuyên của các tăng sĩ của nó. Điều rất quan trọng là phải có niềm tin của người dân đối với sự tồn tại của trật tự. Đây là lý do tại sao Đức Phật rất đặc biệt về hạnh kiểm của các tăng sĩ. Ông luôn nhấn mạnh rằng các tăng sĩ phải duy trì hạnh kiểm tốt, không chỉ để tăng thêm đức tin cho những người đã có đức tin, mà còn để lấy lòng tin của những người chưa có đức tin vào nhà dòng[7].

Khi quan tâm đến phần thứ hai của tuyên bố trong bài Parinibbāna-sutta được vừa đề cập, có một khía cạnh quan trọng khác đặc biệtý nghĩa đối với các tăng sĩ trẻ. Như sau:

“Sau khi học lời của Như Lai, có thể giải nghĩa, rao giảng, công bố, thiết lập, tiết lộ, giải thích chi tiết, và làm cho rõ ràng; cho đến khi, khi có ý kiến bất lợi, có thể bác bỏ chúng một cách thấu đáo và tốt đẹp, và thuyết giảng Pháp giải thoát, thuyết phục này.”

Đồng thời khi thảo luận về vai trò của các tăng sĩ trẻ xuất gia trong xã hội hiện đại, không thể phủ nhận rằng các vị ấy có vai trò quan trọng trong việc giúp giải quyết các vấn đề xã hội hiện đại khi còn trẻ, năng động và có lòng vị tha giúp đỡ nhân loại. Như vậy sẽ chiếm được lòng tin của đại chúng. Sức trẻ của người có đạo được coi là một trong những yếu tố quan trọng để chiếm được niềm tin quần chúng. Điều này được thể hiện rõ trong kinh Phật mô tả Siddhartha Gautama, người đã bước vào cuộc sống vô gia cư khi còn trẻ. Đó là một trong những yếu tố quyến rũ trong sự nghiệp chứng đắc của Đức Phật. Những lời ca tụng sau đây về Đức Phật có thể được tìm thấy lặp đi lặp lại trong nhiều bài giảng.

Gautama khổ hạnh, khi còn trẻ, một thanh niên tóc đen, trong những ngày đầu còn trẻ, trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, từ cuộc sống gia đình trở thành vô gia cư.”[8]

Mặc dù tuổi trẻ hay thanh niên là phẩm chất ưu ái của một tăng sĩ, cần nhấn mạnh ở đây rằng anh ta phải có những đức tính và phẩm chất được liệt kê trong phần thứ hai của tuyên bố trong kinh Đại Bát Niết Bàn, như đã chỉ ra trước đó, để thực hiện thành công trách nhiệmRõ ràng là các tăng sĩ hạn chế các hoạt động ở khía cạnh xã hội. Tuy nhiên, họ có thể chỉ cho công chúng cách chính xác để giải quyết các vấn đề xã hội hiện có, hướng dẫn họ cư xử theo những cách sẽ không làm phát sinh các vấn đề đó trong tương lai và khuyến khích họ làm việc vì lợi ích chung. Tất cả những hoạt động này có thể được thực hiện bởi các tăng sĩ trẻ, những người có kiến ​​thức sâu sắc về lời dạy của Đức Phật. Các bài giảng trong Parinibbāna- sutta và Pāsādika-sutta của Digha-nikāya cho thấy rõ ràng rằng đây là cách Đức Phật muốn Giáo Pháp của Ngài được xiểng dương trên thế gian. Rõ ràng, Đức Phật đã đánh giá cao sự hiểu biết của các tăng sĩ. Trong một số bài kinh, chúng ta thấy rằng Đức Phật đã chọn ra một số tăng sĩ và khen ngợi họ là những người xuất sắc nhất trong nhiều khả năng thuyết giảng Giáo pháp. Theo Etadagga-pāli của Anguttara-nikāya, Đức Phật đã xếp hạng Thượng tọa Mahā Kaccāna đứng ở vị trí cao nhất vì khả năng giải thích chi tiết về Giáo pháp, Ven. Punna Mantāniputta trong việc giảng Pháp, Ven. Sona Kutikanna cho bài phát biểu hòa nhã, Ven. Vangisa giải thích Giáo huấn, Ven. Mahakoṭṭita vì kiến ​​thức phân tích của ông về Giáo pháp, Ven. Kumārakassapa vì lời thuyết giảng về Giáo pháp hấp dẫn của ông, và Ven. Rādha để giải thích Giáo lý[9].

Điều quan trọng là các tăng sĩ trẻ đang theo học Phật pháp phải biết những lời dạy của Đức Phật một cách sáng suốt, phản biện và so sánh để trang bị tốt hơn hầu đối mặt với những thách thức của xã hội hiện đại. Đức Phật, khi thuyết trình giáo lý của mình cho chúng sinh trong thế gian, không nói nhiều về thế giới nào đó, vì mối quan tâm chính của Ngài là giải thoát những con người đang sống trong chính thế giới đau khổ này. Ngài có một kiến thức không thể so sánh được về xã hội loài người. Ngài thực sự hiểu những vấn đề cơ bản nhức nhối trong xã hội của người dân. Vì vậy, đã giải quyết tất cả những vấn đề đó trong giáo lý của mình. Giáo lý của Ngài bao gồm tất cả các khía cạnh cần thiết của cuộc sống con người bao gồm triết học đạo đức, triết học xã hội, triết học kinh tế, triết học chính trị, v.v. Ưu tiên hàng đầu của những t ăng sĩ trẻ xuất gia quan tâm đến việc phục vụ xã hội là phải thông thạo tất cả những lời dạy này của Đức Phật.

Một thách thức khác mà các tăng sĩ trẻ thuộc một tăng đoàn-tự viện phải đối mặt là thiếu cơ hội nghiên cứu các môn học thế tục như xã hội học, triết học xã hội, nhân chủng học, khoa học tự nhiên, sinh thái học, triết học pháp lý và những môn khác liên quan trực tiếp đến các vấn đề của xã hội hiện đại. Kiến thức về các môn học này là rất quan trọng đối với các tăng sĩ trong tăng đoàn, để họ có thể hiểu đúng về các vấn đề xã hội đang thịnh hành. Nếu không hiểu đúng về bản chất thực sự và nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề, họ sẽ không thể sử dụng những lời dạy của Đức Phật một cách thiết thực để đáp ứng các yêu cầu của thế giới hiện đại. May mắn thay, nhiều trường đại học tôn giáo đã thừa nhận sự cần thiết này và đã thực hiện các bước để đưa các môn học này vào chương trình nghiên cứu Phật học. Ở đây cần nói thêm rằng Học Viện Phật Giáo Việt Nam mà tôi từng theo học là một trong số đó.

Tóm lại, các yêu cầu chính đối với các tăng sĩ trẻ Phật giáo liên quan đến vai trò và khả năng phục vụ trong xã hội hiện đại đã được thảo luận trong bài tiểu luận này. Không còn nghi ngờ gì nữa, các vị ấy được Đức Phật trao quyềngiao phó để tham gia vào việc phục vụ xã hội. Đức Phật đã thực hiện một sự nghiệp vĩ đại trong suốt bốn mươi lăm năm giảng dạy vì lợi íchhạnh phúc của đại chúng. Ngài đã đạt được điều này bằng cách rao giảng và gửi thông điệp của mình đến mọi người trong cuộc sống thông qua các môn đệ của mình. Các tăng sĩ trẻ, với tư cáchđệ tử của Đức Phật, không thể đi chệch hướng con đườngĐức Phật đã chỉ ra. Vì vậy, vai trò chính của các tăng sĩ trong một tăng đoàn-tự viện không phân biệt truyền thốngquảng bá Phật giáo bằng mọi cách có thể. Một trong những cách, ví dụ, là tăng cường giáo dục Phật giáo. Là những tăng sĩ trẻ tuổi và năng động của tổ chức, họ có thể làm việc chăm chỉ cho sự phát triển của giáo dục Phật giáo bằng cách khuyến khích mọi người nói chung hoặc ít nhất là những người sùng đạo quyên góp ủng hộ bằng cách gây quỹ hoặc đóng góp các phật sự cho các cơ sở giáo dục Phật giáo đang gặp khó khăn về tài chính hoặc những khó khăn về quản lý. Trong khi đó, các vị hoằng pháp có thể được gửi đến các quốc gia không được tiếp cận với Phật giáo. Phật giáo vô cùng quan trọng đối với toàn thế giới vì có tất cả những giáo lý cần thiết có thể giải quyết một cách thỏa đáng hầu hết tất cả các vấn đề xã hội hiện đại. Các vấn đềxã hội phải đối mặt trong thế giới hiện đại là do chính xã hội gây ra. Đức Phật đã dạy luật nhân quả rằng những việc làm và hành động của chúng ta sẽ quyết định số phận của chúng ta, trong khi xã hội hiện đại có thể thay đổi hoặc chấm dứt những đau khổ bằng cách không gieo những nguyên nhân làm phát sinh những vấn đềchúng ta đang gặp phải.

Một vai trò quan trọng khác, có thể được đảm nhận bởi các tăng sĩ trẻ thuộc một tăng đoàn, là tham gia tích cực vào các hoạt động phúc lợi xã hội. Một vấn đề cần được quan tâm ngay là đói nghèo. Nghèo đóinguyên nhân dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội. Nghèo đói không chỉ tước đi những đặc quyền xã hội của những người nghèo như điều kiện tiên quyết hàng đầu, giáo dụcsức khỏe tốt, mà còn đẩy họ tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp và bất chính[10]. Các tăng sĩ trẻ có thể giúp đỡ trong lĩnh vực này bằng cách tổ chức các nhóm phúc lợi xã hội ngay cả ở quy mô nhỏ để tiếp cận với người nghèo và khuyến khích những người có đủ năng lực tham gia tích cực vào việc giúp đỡ xóa đói giảm nghèo hoàn toàn.

Có lẽ thực tế chính sự mất hòa hợp giữa các tăng sĩ thuộc các Tông hệ phái (Giáo hội) là một cản trở đối với sự thành công của vai trò một tăng sĩ trong xã hội nên được hóa giải trước tiên. Một sự thật được biết đến là Đức Phật đã thực hiện mọi hành động có thể để thúc đẩy sự hợp nhất giữa các đệ tử của Ngài. Đức Phật mong đợi hai điều chính từ các đệ tử của mình, đó là sự hợp nhất và sự trong sạch, vì cả hai đều là những yếu tố vô cùng có lợi cho hạnh phúc không chỉ của cá thể mà còn của xã hội loài người. Điều này có thể được thấy trong câu Kinh Pháp Cúhạnh phúc là sự hòa hợp giữa các Samgha (sukhā sanghassa sāmaggi)[11]. Không nên quên rằng điều này đã được Đức Phật thuyết giảng và có sức nặng tương tự như tuyên bố rằng: hạnh phúc là sự thị hin của một vị Phật (sukho buddhānam uppādo)[12]. Điều được nhấn mạnh ở đây là sự hợp nhất và hòa hợp của Tăng đoàn cũng hữu ích cho nhân loại như sự đản sinh của Đức Phật. Khi có sự đoàn kết thực sự giữa các thành viên trong Tăng đoàn, chắc chắn rằng họ có thể làm được rất nhiều điều cho hạnh phúc của nhân loại. Trong trường hợp này, người xuất gia phải tự nhìn lại mình và xác định xem có sự hòa hợp thực sự giữa họ hay không. Việc tuân theo các truyền thống Phật giáo khác nhau không được dẫn đến bất hòa hoặc mất đoàn kết. Các nhà sư thuộc các truyền thống khác nhau đã sống với nhau như anh em trong cùng một tu việnẤn Độ cổ đại. Mặc dù không có sự cạnh tranh giữa các truyền thống Phật giáo, có thể thấy rằng mỗi truyền thống đều nghiêng về suy nghĩ rằng truyền thống của họ vượt trội hơn truyền thống của những truyền thống khác, điều này thực sự có hại cho sự hòa hợp thực sự của tình huynh đệ Phật giáo. Do đó, việc nuôi dưỡng tình huynh đệ hòa thuậnbền chặt giữa các thành viên trong tự viện là thách thức lớn nhất đối với các tăng sĩ trẻ ngày nay vì lợi ích của hòa bình, thịnh vượng và thống nhất của nhân loại.

____________________________

[1] VinayaMahāvagga, abhisambodhikathā
[2] Dhammapada, verse 158
[3] Ibid 166
[4] Hai Quan điểm Chính trị, AnandaWijeratne, Ñānaprabhā, Tập tuyên dương để tôn vinh Tiến sĩ PategamaGnanaramaMahāThera, Hiệp hội Phật giáo Ti-Sarana, Singapore, 2011, tr. 157
[5] Mahāparinibbāna-sutta.
[6] Xem. Pāsādika-sutta, D. No. 29
[7] Xem trong Luật tạng- “appasannānamvāpasādāyapasannān amvābhiyobhāvāya”
[8] D. Sonadanda-sutta
[9] Anguttara-nikā, Etadagga-pāli
[10] Dĩgha-nikāya, Cakkavatti-sĩhanāda-sutta
[11] Dhammapada verse 194
[12] Ibid

(Sen Trắng USA)

Young Buddhist Monastic Members and the Modern Society

Ven. Shi Yuande(Liu Yaoping)
Master of Arts in Buddhist Studies, International Buddhist College,  Thailand

 

One of the objectives of the Buddha in establishing the Buddhist Monastic Order was to make members of the Order convey his message to mankind for its wellbeing and happiness. Therefore it is certain that service to mankind in compliance with the message of the Buddha is an inherited responsibility of the members of the monastic order. The intention of this article is to examine how young members of the monastic order can carry out their duty to serve mankind and discuss how they should face modern problems in the globalized society.

There is no doubt that young members of the Order have a great responsibility to become well-equipped religious advisors to mankind. The Buddha presented his teachings for the wellbeing and happiness of human beings so that they are free of all sorts of individual and social miseries and sufferings. Buddhism is not only a philosophy of life but also a way of life that should be adopted by people for their happiness. Therefore, as potential religious advisors, it is the first responsibility of young members of the order to adhere to the teachings of the Buddha and become an example themselves for others to follow.

It is without a doubt that modern society is gradually becoming so corrupted that people can no longer live peacefully and happily. Therefore, the other responsibility of young members of the Order is to be well aware of all the social problems of the modern and globalized world and how to resolve the problems encountered by modern society. This article is designed to discuss all these matters in relation to the role of young monastic members in modern society.

It is an unquestionable and accepted fact that the Buddha should be given the honor and credit of establishing the oldest social welfare organization in the world. More than two thousand five hundred years ago the Buddha started his monastic order as the first social welfare organization in the history of Mankind consisting of sixty worthy ones (arahants) with the sole intention of serving mankind[1]. Though it started with a small number of monks, it grew into a massive organization consisting of thousands of members spreading all over the world today in the course of time. Therefore, as members of the oldest social organization of the world, which has the unbroken history of more than two thousand five hundred years, it is an accepted fact that young members of the order have a great responsibility to serve mankind continuously as expected by the Buddha, our greatest master.As young monastic members have a traditional heritage to serve mankind, they have to be sincere enough to think about whether they engaged wholeheartedly in their duty to work for the benefit of the many. Today we cannot deny that the monastic members are subjected to criticism even from Buddhist devotees who think that their monastic members are slowly deviating from their traditional path. As the Buddha pointed out, the monastic members are bound by mainly two responsibilities namely: one is to place oneself in a proper position, and the other is to serve others for their wellbeing. It is to be noted here that in order to fulfill the second responsibility it is necessary that one complete the first responsibility.

The Buddha proposed these responsibilities in one of the Dhammapada verses. It says that “one should first establish oneself in what is proper; then only one should advise others. Then the wise man cannot be getting defiled”[2]. This statement of the Buddha in the Dhammapada appears to imply an important message to members of the monastic order in general and the young members in particular. The message implied that one who is interested in serving or advising others should be well versed himself. Another significant implication that can be derived from the statement of the Buddha is the definition of the service attached to the members of the Order.

Both factors are especially significant for young members of the order because they are new to the Order and are still in the probationary period, undergoing training to render service to mankind as expected by the Buddha. Being responsible for the wellbeing of others can really be interpreted as working for one’s own benefit. Buddhism recognizes two types of benefits, namely one’s own benefit (attadattha) and other’s benefit (parattha). It is impossible for one to work for the benefit of others if one is not committed to fulfill one’s own benefit. That is the reason why the Buddha advised as such: “for the sake of another’s benefit, however great it may be, do not neglect one’s own (moral) benefit. Clearly perceiving one’s own benefit one should make every effort to attain it[3]”. It should empathetically be mentioned here that one’s own benefit should not be misunderstood as one’s own selfish motivated expectations. Buddhism does not recommend anything which does not affect others constructively. A Buddhist scholar observes:

Early Buddhist teachings based on relativism never accepted individual welfare only without considering the needs of society. It always emphasizes the wellbeing of both society and the individual”[4]

In the Buddhist context, committing for one’s own benefit means none other than one’s dedication to obtain understanding of the Dharma or the teachings of the Buddha and practice the Dharma accordingly. This is really one of the challenges encountered by young Buddhist monastic members. They have to face this challenge before they could face challenges arising from modern society. Only then will they understand the real nature of the challenges of modern society so that they can face them satisfactorily and successfully. In this respect, a comprehensive knowledge of Buddhism is a must for young members of the Monastic Order if they are interested in benefiting from the teachings of the Buddha and to share the benefits received through the Dharma with the rest of the world. But, it is regrettable to mention that many have their own purposes for practicing Buddhism, rather than using it for the sake of self-discipline. Self-discipline makes a person an exemplary to others and only then can one be able to contribute greatly for the wellbeing of others.One of the purposes for establishing the monastic order was to enable Buddhism to exist as long as possible and to reach out to as many as possible, with the intention of helping mankind to attain happiness by overcoming individual and social miseries. Therefore it is the foremost duty of members of the order to continuously carry out their responsibility entrusted upon them by the Buddha. This can only be achieved satisfactorily when the disciples of the Buddha are “wise, well disciplined, apt and learned, preservers of the Dharma, living according to the Dharma, abiding by appropriate conduct and, having learned the Buddha’s word, are able to expound it, preach it, proclaim it, establish it, reveal it, explain it in details, and make it clear; especially when adverse opinions arise, they shall be able to refute them thoroughly and well, and to preach this convincing and liberating Dharma[5]” These characteristics as described by the Buddha in the Mahāparinibbāna-sutta are considered to be factors for the thorough establishment of Buddhism. The same characteristics have been enumerated by the Buddha in a slightly different way in the Pāsādika-sutta as the factors that lead to the establishment of the Dharma.[6] Establishment of Buddhism means none other than increasing the amount of beneficiaries of Buddhism. That is the greatest service that can be done by Buddhist monastic members to mankind. Therefore, it is worthwhile to pay attention to the characteristics referred above.

In the above statement, the Buddha mentioned that there are two important parts to which attention must be paid. The first part directly refers to the aspect of the conduct of the disciples. It emphasizes the characteristics or qualities such as “wisdom, well disciplined, apt and learned as well as behaviors such as persevering the Dharma, living in accordance with the Dharma and abiding by appropriate conduct”. When the members of the Order are endowed with these qualities they can be considered as those who fulfilled their own benefit (attadattha). It should be emphasized here that one cannot expect members of the Monastic Order in the present world to have fulfilled their own benefit in the absolute sense because of the fact that the Buddhist ideal changed due to many reasons. Anyway, it is compulsory that at least they are working towards the ideal of Buddhism. Otherwise, they cannot be said to have carried out their responsibility properly and would not be able to face the challenges of modern society and to bring about the expected results of their attempts as they would not be able to win the confidence of the people.

It is quite evident that the Buddha is very concerned about the conducts of members in the order as each and every member represents the order as a whole. If the conduct of a member is blemished so is the image of the entire Buddhist Monastic Order. The bad conduct of a member is not only harmful to the person himself but also harmful to the entire order because people will generalize that all the members of the order to share the same conduct. The Order is not meant for the good and welfare of its members but that of mankind. If the image of the order is tarnished due to the conduct of an individual, then people would be reluctant to seek the advice of its members. It is very important to have the confidence of the people for the continued existence of the order. This was why the Buddha was so particular regarding the conduct of monks. He always insisted that monks maintain good conduct, not only to increase the faith of people who already have faith, but also to gain the faith of those people who have yet to have faith in the order[7].

When drawing attention to the second part of the statement in the Parinibbāna-sutta referred to above there is another important aspect that is especially significant for young monastic members. It reads as follows:

Having learned the Master’s word, are able to expound it, preach it, proclaim it, establish it, reveal it, explain it in detail, and make it clear; until, when adverse opinions arise, they shall be able to refute them thoroughly and well, and to preach this convincing and liberating Dharma

When discussing the role of young Buddhist monastic members in the modern society, it cannot be denied that they have an important role in helping to solve the social problems of modern society as they are young, energetic, not yet corrupted, and are altruistically motivated to help mankind. They will thus win the confidence of the people. The youth of a religious person is considered as one of the important factors to win the confidence of the people. This is evident in Buddhist scriptures describing Siddhartha Gautama who entered the homelessness life in his youth. It was one of the charming factors for the popularity of the Buddha. The following praises about to the Buddha can be found recurrently in the many discourses.

The ascetic Gautama, while youthful, a black-haired youth, in the prime of his young days, in the first stage of life went forth from the household life into homelessness.[8]”

Though youth or young age is a favored quality of a monk, it should be emphasized here that he must possessed the virtues and qualities enumerated in the second part of the statement in the Mahāparinibbāna- sutta, as pointed out earlier, to successfully carry out his responsibilities. It is obvious that the monks have limited activities from the social aspect. However, they can show the public the correct way to solve existing social problems, guide them to behave in the ways that will not give rise to such problems in the future and encourage them to work for mutual wellbeing. All of these activities can be done by young monks who have a thorough knowledge of Buddha’s teaching. The discourses in the Parinibbāna- sutta and Pāsādika-sutta of Digha-nikāya clearly showed without a doubt that this is how Buddha wants his Dhamma to be established in the world. Evidently, the Buddha placed a high esteem on the knowledge of monks. In several discourses, we see that Buddha singled out several monks and praised them for being foremost in various capacities of preaching the Dhamma. According to Etadagga-pāli of the Anguttara- nikāya, the Buddha ranked Ven. Mahā Kaccāna to the uppermost position for his ability to explain the Dhamma in details, Ven. Punna Mantāniputta in preaching the Dhamma, Ven. Sona Kutikanna for polite speech, Ven. Vangisa in explaining the Teaching, Ven. Mahakoṭṭita for his analytical knowledge of the Dhamma, Ven. Kumārakassapa for his charming preaching of the Dhamma, and Ven. Rādha for explaining the Teaching[9].

It is important for young monks who are studying Buddhism to know the teachings of the Buddha analytically, critically, and comparatively so that they are better equipped to face the challenges of modern society. The Buddha, when presenting his teaching to living beings in the world, did not talk much about the next world, as his main concern was relieving human beings living in this very world of sufferings. He had an incomparable knowledge of the human society. He really understood the burning fundamental problems in the society of the people. Therefore he addressed all those problems in his teachings. Thus his teachings include all the necessary aspects of human life including ethical philosophy, social philosophy, philosophy of economy, philosophy of politics, and so on. It should be the first priority of young monastic members who are interested in social service to be well versed in all these teachings of the Buddha.

Another challenge faced by young monastic members is the lack of opportunity to study secular subjects such as sociology, social philosophy, anthropology, natural sciences, ecology, legal philosophy, and others which are directly related to the problems of modern society. Knowledge of these subjects is very important to the monastic members, so that they are able to understand properly the prevalent social problems. Without proper understanding of the real nature and root causes of the problems they would be unable to make use of the Buddha’s teachings in a practical way to meet the requirements of the modern world. Fortunately, many religious universities acknowledged this necessity and have taken steps to include these subjects in the Buddhist studies programs. It should be mentioned here that the National Buddhist University of Vietnam, in which I used to study, is one of them.

Thus far, the primary requirements for young Buddhist monastic members in relation to their role and capacity to serve in modern society have been discussed in this paper. There is no doubt that they are empowered and entrusted to be involved in social service by the Buddha. The Buddha has made a great service during his forty-five years of teaching for the benefit and happiness of the mass. He achieved this by preaching and sending his message to the all walk of life through his disciples. Young monastic members, as the disciples of the Buddha, must deviate from the path shown by the Buddha. Thus, the main role of the monastic members irrespective of their traditions is to promote Buddhism in every possible way. One of the ways, for example, is the enhancement of Buddhist education. As young and energetic members of the order they could work hard for the development of Buddhist education by encouraging the people at large or at the least their devotees to raise support either by raising funds or to contribute their services in Buddhist educational institutions which are facing financial or management difficulties. Meanwhile Buddhist missionaries could be sent to countries that lack access to Buddhism. Buddhism is immensely important to the whole world as it has all the necessary teaching that can satisfactorily addresses almost all the modern social problems. The social problems faced by society in the modern world is but caused by society itself. The Buddha taught the law of cause and effect that is our deeds and actions determines our fate, while modern society can change or bring an end to their miseries by not planting causes that will give rise to the problems they are experiencing.

Another important role, which can be played by young members of the Order, is active participation in social welfare services. A problem that needs immediate attention is poverty. Poverty is the mother of many social ills. Poverty not only deprived the poor ones of social privileges such as the primary requisites, education and good health, but pushes them to engage in illegal and unrighteous activities[10]. Young monks can help in this area by organizing social welfare groups even in a small scale to reach out to the poor and encourage those who endow the capacities to participate actively in helping to relieve or eliminate poverty altogether.

Perhaps the fact that disunity among members of the order themselves is an obstruction to the success of a monks’ role in the society should be addressed first. It is a known fact that the Buddha has taken every possible action to promote unity amongst his disciples. The Buddha expected two main things from his disciples, namely unity and purity, as both are factors that are immensely conducive to the wellbeing of not only the order but also that of human society. This can be seen in the verse of the Dhammapada that states: happy is the harmony amongst the Samgha (sukhā sanghassa sāmaggi)[11]. It should not be forgotten that this statement has been delivered by the Buddha and is given the same weight as that of the statement that states: happiness is the arising of a Buddha (sukho buddhānam uppādo)[12]. What is emphasized here is the fact that unity and harmony of the Sangha is as useful to the mankind as the arising of the Buddha. When there is a true unity amongst members of the Sangha, there is no doubt that they can do a lot for the wellbeing of mankind. In such case the monastics have to look upon themselves and determine if there is true harmony amongst themselves or not. Following different Buddhist traditions should not lead to disharmony or disunity. Monks belonging to different traditions had lived together as brothers in the same monastery in ancient India. Though there is no rivalry amongst Buddhist traditions, it can be seen that each tradition inclines thinking that their tradition is superior to that of others which really harmful to the true harmony of the Buddhist brotherhood. Thus, fostering a strong and harmonious brotherhood amongst members of the monastic order is the upmost challenge to young monastic members of today in the interest of peace, prosperity and unity of mankind.

________________________

[1] VinayaMahāvagga, abhisambodhikathā
[2] Dhammapada, verse 158
[3] Ibid 166
[4] Two Political Perspectives, AnandaWijeratne, Ñānaprabhā, Felicitation volume in Honour of Venerable Dr. PategamaGnanaramaMahāThera, Ti- Sarana Buddhist Association, Singapore, 2011, p. 157
[5] Mahāparinibbāna-sutta.
[6] See. Pāsādika-sutta, D. No. 29
[7] See off recurrent statement in the Vinaya-“appasannānamvāpasādāyapasannān amvābhiyobhāvāya”
[8] D. Sonadanda-sutta
[9] Anguttara-nikā, Etadagga-pāli
[10] Dĩgha-nikāya, Cakkavatti-sĩhanāda-sutta
[11] Dhammapada verse 194
[12] Ibid

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/07/2018(Xem: 7244)
06/06/2019(Xem: 14119)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.