VỊ THIỀN SƯ PHƯƠNG TÂY NỔI TIẾNGNHẤT THẾ GIỚI Bằng Hư
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công laođặc biệt quan trọng
trong việc truyền báđạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng trên xứ
sở Hợp chủng quốc. Tuy nhiên, ít người biết rằng, để trở thành một thiền sư lừng danh ở thế giới phương Tây, cuộc đờitu thiền của Philip Kapleau đã trải qua không ít những khó khăn, gian khổ nhưng cũng vì thế mà đầy ắp những câu chuyện thú vị…
Từ vị quan tòa mê Thiền…
Thiền sư Philip Kapleau sinh năm 1912 trong một gia đình theo đạo Tin Lành thuộc tầng lớp lao động ở New Haven thuộc bang Connecticut ở miền đông bắc nước Mỹ. Cho đến trước năm 35 tuổi, khi Philip Kapleau bắt đầu những suy tư đầu tiên về Thiền, vị thiền sưTây phương này đã sống một cuộc sống bình thường như rất nhiều thanh niên Mỹ lúc bấy giờ. Khi đến tuổi trưởng thành, Philip Kapleau bắt đầu kiếm sống bằng nghề kế toán tại một cửa hàng.
Sau đó ít lâu, Philip Kapleau quyết định theo học một khóa đào tạo luật ngắn hạn. Sau khóa học, Philip Kapleau may mắn có được một chân báo cáo viên trong tòa án liên bang ở Connecticut. Nghề báo cáo viên tòa án không để lại ảnh hưởng gì lớn trong sự nghiệp của Philip Kapleau, tuy nhiên, nó lại chính là con đường dẫn Philip Kapleau đến với Thiền tông nơi ông có được sự nghiệplừng lẫy của mình.
Bước ngoặt trong cuộc đời của vị thiền sư phương Tây bắt đầu vào năm 1945 khi ông được lựa chọn làm báo cáo viên trong hai phiên tòa xử tội ác chiến tranh của Tòa án Quân sự Quốc tế tại Nuremberg, Đức. Tiếp đó, ông lại được chỉ định vào vị trítương tự trong phiên tòa xử tội ác chiến tranh diễn ra ở Tokyo, Nhật Bản. Và đó cũng là thời điểm lần đầu tiên, Philip Kapleau biết tới Thiền tông.
Tháng 3/1947, Philip Kapleau đến làm việc tại Tòa án Quân sự Quốc tế tại
Tokyo, Nhật Bản. So với phiên xử những tên tội phạm chiến tranh của phe
phát xít, những kẻ vừa thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra tại Đức mà Philip Kapleau tham dự trước đó ít lâu, phiên xử ở Tokyo diễn ra dễ chịu và ít căng thẳng hơn. Và điều này để lại ấn tượng mạnh đối với Philip Kapleau.
Vị báo cáo viên 35 tuổi cảm thấy rằng những người Nhật ông nơi đây không
giống với những người Đức ông đã từng gặp. Họ tỏ ra là những người sẵn sàng chấp nhận những đau khổcủa riêng mình để trả giá cho những nỗi đau
mà họ đã gây ra cho những người khác.
Một điều khác cũng khiến Philip Kapleau ấn tượng không kém chính là sự bình an và tĩnh lặng đến tuyệt vời ở nước Nhật dù chiến tranh mới đi qua
không lâu, đặc biệt là vào những buổi chiều khi ông chạy bộ dưới những tán cây dẫn vào các thiền viện.
Từ việc bất ngờ, rồi tò mò và hiếu kỳ, Philip Kapleau đã bắt đầu tìm hiểunguyên nhân vì đâu có sự khác biệt giữa những người Nhật và người Đức, dù trước đây họ từng thuộc phe phát xít. Và Philip Kapleau biết được rằng, việc người Nhật sẵn sàng chấp nhận những trừng phạt là vì họ luôn tin vào “Luật nghiệp quả báo ứng”.
Khái niệm về luật nhân quả này cuốn hút Philip Kapleau vì nó hoàn toàn khác với sự tự bào chữa mà ông từng thấy ở Đức. Philip Kapleau quyết địnhtìm hiểu về khái niệm thú vị này. Và sự tò mò đã tạo ra cơ duyên đưa Philip Kapleau đến với đại sư D.T. Suzuki.
Tại thành phố Kamakura, ông gặp và tiếp xúc với Suzuki, nghe giảng giải về cốt lõi của nghiệp quả và giáo lýthiền Đại thừa. Sau những buổi giảng ngắn ngủi ấy, Philip Kapleau bắt đầu quan tâm đến Phật giáo.
Khi phiên tòa ở Tokyo kết thúc, Philip Kapleau quay trở lại mỹ và tiếp tục làm việc tại tòa án Connecticut. Tuy nhiên, cuộc sống của ông đã thay đổi hoàn toàn kể từ sau hai phiên tòa xử tội phạm chiến tranh ở Đức
và Nhật. Những ấn tượng, suy tư không thể giải quyếttriệt để cứ quanh quẩn trong đầu ông. Philip Kapleau muốn tìm hiểu và học Thiền, nhưng khi
ấy, Thiền tông chưa đến được nước Mỹ.
Philip Kapleau đã phải tham gia một lớp giáo ly đạo Bahai và những cuộc họp của Hội Vệ Đà, tuy nhiên, tất cả đều không đem lại tác dụng. Mọi sự thay đổi chỉ bắt đầu khi thiền sư D.T. Suzuki đến Mỹ vào năm 1950. Ngay lập tức, Philip Kapleau ghi tên tham dự lớp học triết lý Phật giáo thiền
do Suzuki đứng lớp.
Trong những bài giảng ấy, thiền sư Suzuki có nói với các học trò của mình rằng: “Thiền không phải là triết học mà là một lối sống. Nếu các vị
muốn học Thiền nên đến thẳng Nhật Bản, các vị phải sống với nó và cuộc đời của các vị sẽ thay đổi”. Câu nói của thiền sư Suzuki đã tác động mạnh tới Philip Kapleau và vị báo cáo viên tòa án quyết định đến Nhật Bản để học Thiền.
Vào năm 1953, ở tuổi 44, Philip Kapleau bỏ việc tại tòa án để đến Nhật xin được xuất gia học Thiền. Tuy nhiên, lòng nhiệt tâm của Philip Kapleau đã bị dội một gáo nước lạnh khi hai vị thiền sư đầu tiên mà ông tới gặp đã từ chối không nhận ông làm đệ tử vì ông không biết tiếng Nhật. Với sự kiên nhẫn và lòng nhiệt thành cuối cùng một thiên sư tên là
Soen Nakagawa ở chùa Hosshinji đã tiếp nhận Philip Kapleau.
Sau ba năm tu tại chùa Hosshinji, sức khỏe của Philip Kapleau ngày một tệ đi vì những giới luật khắc nghiệt và chế độ ăn uốngthiếu thốn ở nơi đây.
Thiền sư Philip Kapleau
Nhận thấy rằng, Philip Kapleau không thể tu thiền theo cách thông thường
như những người khác, thiền sư Soen đã giới thiệu ông tới gặp thiền sư Harada. Soen nói với Kapleau rằng: “Cậu sẽ có được một sư phụtốt hơn nhiều”. Sau khi theo học Harada 3 năm, Philip Kapleau tiếp tục theo học một thiền sư khác tên là Yasutani, người kế thừathiền sư Harada. Và đây
cũng là thiền sư mà Philip Kapleau theo học lâu nhất.
Nhờ vào những nỗ lực học tập không ngừng, vào mùa hè năm 1958, Philip Kapleau đã đạt ngộ và được thiền sư Yasutani ấn chứngban chodanh hiệu “Thiền sư”. Thời gian sau đó, Philip Kapleau kết hôn, sinh con và bắt đầu giảng dạy trong các thiền viện dòng Harada-Yasutani. Và cũng bắt đầu
từ đây, Philip Kapleau chính thức bước vào cuộc hành trìnhtruyền báThiền tông đến với xứ sở phương Tây.
Đến thiền sư phương Tây nổi tiếngnhất thế giới
Với khả năng ghi tốc ký của người báo cáo viên tòa án cộng với khả năng thành thạo Nhật ngữ của mình, Philip Kapleau được thiền sư Yasutani cho phép ghi lại hầu hết các bài giảng về Thiền, phỏng vấnhọc sinh, các thiền sư cũng như ghi chép tỉ mỉ về cuộc sống của những người thực hànhThiền tông.
Philip Kapleau là người phương Tây đầu tiên được phép chi chép lại những
bài giảng về Thiền. Và chính điều này đã giúp Philip Kapleau có được cuốn sách nhập môn Thiền kinh điển của người Tây phương. Tập hợp những gì đã ghi chép và quan sát được, Philip Kapleau đã biên soạn thành cuốn sách với tựa là “Ba cột trụ của Thiền”.
Cuốn sách đã được in và xuất bản tại Nhật vào năm 1965 bằng tiếng Anh với số lượng 150 ngàn cuốn. Cuốn sách này sau đó đã được phát hành đi khắp thế giới và được chuyển dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau. Nhưng sự nghiệptruyền báThiền tông của vị thiền sưTây phương này không chỉ dừng lại ở đó.
Sau 13 năm tu học tại Nhật, năm 1965, Philip Kapleau quyết địnhtrở về Mỹ và bắt đầu sứ mệnh truyền báThiền tông tới xứ sở Hợp chủng quốc. Đó là thời điểm, ông gặp hai trong số những độc giả đầu tiên của cuốn sách “Ba cột trụ của Thiền” xuất bản tại Nhật, hai thương nhân Ralph Chapin ở
New York và Dorris Carlson ở Rochester.
Sau khi về nước ít lâu, Dorris Carlson đã mời ông tới Rochester để thăm một nhóm nhỏ những người tu họcThiền tông theo hướng dẫn của ông trong cuốn sách “Ba cột trụ của Thiền”.
Cho tới tháng 6 năm 1966, dưới sự giúp đỡ của Carlson, Philip Kapleau đã
thành lậptrung tâm Thiền Rochester. Ngay từ khi mới thành lập, trung tâm Thiền của Philip Kapleau đã liên tục mở những khóa tu cho các thiền sinh Mỹ đến tham dự. Và ngay lập tức, nó đã gây được tiếng vang lớn.
Từ giữa thập niên 60, thiền sư Philip Kapleau bắt đầu những chuyến đi giảng về Thiền trên khắp nước Mỹ. Philip Kapleau nói chuyện ở các trường
cao đẳng, đại học, các hội nghị,… Bất cứ là thành phần nào, tầng lớp nào, muốn được nghe giảng về giáo lýThiền tông, Philip Kapleau đều không ngần ngại từ chối.
Không chỉ giới hạn trong lãnh thổ nước Mỹ, Philip Kapleau đã có nhiều chuyến giảng Thiền tại Canada, Mexico, Costa Rica, Đức, Pháp và Ba Lan,…
Với phong cách rất giản dị, với cách nói chuyện hài hước, dí dỏm và đặc
biệt là vốn kiến thức sâu sắc về Thiền tông, những bài giảng của Philip
Kapleau đã cuốn hút đông đảo những người đến tham dự.
Và bằng chứng cho những thành công của bài giảng ấy là những dòng người ngày càng đông đúc hơn đổ về trung tâm Thiền Rochester mà Philip Kapleau
xây dựng.
Vào năm 1968, một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiệu rụi tất cả trung tâm mà thiền sư Philip Kapleau dày côngxây dựng. Trên đống hoang tàn đổ
nát, Philip Kapleau vẫn không nản chí. Ông quyết định sẽ xây dựng lại tất cả. Và nhờ sự nỗ lực của bản thân cũng như các đệ tử, Philip Kapleau
không chỉ xây dựng lại mà còn mở rộngtrung tâm thiền của mình.
Các khoa tu Thiền vẫn tiếp tục đón học sinh, các buổi lễ vẫn được thực hiện theo đúng truyền thống của Thiền tông. Và mặc dù một số nghi lễtruyền thống đã được điều chỉnh cho phù hợp với thời đại và nền văn hóa Mỹ, vốn khác xa với những nền văn hóa phương Đông, song thiền sư Philip Kapleau cho đến tận cuối đời vẫn cố gắng để giữ gìntinh thầnThiền tông
mà các đại sư Harad và Yasutani đã từng truyền dạy.
Ở tuổi 92, vị thiền sư lừng danh của thế giớiTây phươngcảm thấy cơ thể
mình không còn được như trước nữa. Mặc dù được các bác sĩ chăm sóc và cứu chữa, song thiền sư Philip Kapleau vẫn biết rằng mình không thể qua khỏi được. Vào 6/5/2004, thiền sư Philip Kapleau qua đời một cách nhẹ nhàng thanh thản ngay tại sân sau của Trung tâm Thiền Rochester ông dày côngxây dựngtrong vòng tay của những đệ tử và bạn bè.
Được tin không vui, Ni sư Thích Nữ Hạnh Đoan đang lâm trọng bệnh ở giây phút cuối đời. Ni sư đã có công dịch thuật nhiều sách Phật học, đặc biệt là bộ sách 7 tập Báo Ứng Hiện Đời khuyên người tin sâu nhân quả hướng về Phật Pháp và ước nguyện cuối đời là muốn độ hết chúng sinh thoát khổ. Thư Viện Hoa Sen đã chuyển tải thông điệp của Ni sư qua việc phổ biến các sách của Ni sư và nay xin được long trọng bố cáo đến toàn thể quý độc giả bài viết cuối cùng của Ni Sư. Ước mong quý độc giả đồng cùng với các thành viên ban biên tập Thư Viện Ha Sen dành chút giây hướng về Ni sư và cầu nguyện cho Ni sư thân tâm được an lạc khi chưa thuận thế vô thường và khi thuận thế vô thường thanh thản về cõi Tây Phương Cực Lạc tiếp tục tu hành rồi trở lại cõi Ta Bà cứu độ chúng sinh.
Gần đây trên các báo chí Hoa Kỳ và trên cộng đồng mạng có đề cập đến nhiều về từ ngữ WOKE và có nhiều độc giả hỏi về ý nghĩa của từ này. Chúng tôi cũng không biết rõ về ý nghĩa và xuất xứ của từ này, nên có cuộc trò chuyện với AI (trí thông minh nhân tạo) như sau:
Theo Biên niên sử Urangkhathat (Phrathat Phanom), bảo tháp cất giữ 9 xá lợi xương bàn chân của Đức Phật. Khách du lịch đã tụ tập trên lối đi dạo ven sông ở Nong Khai để xem bảo tháp trong khi những người khác đi thuyền để quan sát cận cảnh. Mực nước sông rút dần cho thấy cấu trúc cổ xưa đang bị xói mòn do dòng chảy của sông Mekong, đang bào mòn lớp đá bên ngoài của tháp.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.