BÀI THƠ XUÂN VÃN
của Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308).
Tâm Thường Định dịch
Ngài là một vị vua anh minh
lỗi lạc, một nhà
văn hóa lớn, một thi sĩ
uyên thâm, một
thiền sư đắc đạo, và hơn hết Ngài là một vị
Sư Tổ Thiền
Việt Nam. Ngài
sáng lập dòng Thiền
Trúc Lâm Uyên Tử lúc ngài 41 tuổi sau khi nhường ngôi lại cho con là Vua Trần Anh Tông (1276-1320). Trong những thi phẩm của Ngài, thơ xuân chiếm một phần rất lớn. Một trong những bài thơ đó là bài “Xuân Vãn”. Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh
mùa xuân để
diễn đạt sự
chứng ngộ của Ngài. Mà sự
chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ
phàm phu tục tử như
chúng ta có thể
thấu triệt được. Bài thơ như sau:
XUÂN VÃNNiên thiếu hà tằng liễu
sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim
khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản,
bồ đoàn khán trụy hồng.
(Dịch nghĩa: Khi còn trẻ (chúng ta/nhà Vua) chưa từng
hiểu rõ “sắc” với “không” / Mỗi khi xuân đến vẫn xao xuyến/gửi lòng trong trăm hoa / Ngày nay đã khám phá/nhận diện được bộ mặt của Chúa xuân / Ngồi trên nệm cỏ/bồ đoàn nhà thiền ngắm cảnh
hoa hồng rụng). Bài thơ này đã có nhiều người dịch, ví dụ:
Xuân MuộnTuổi trẻ chưa tường không với sắc,
Lòng xuân mãi vướng với trăm hoa;
Nay đà hiểu hết được lẽ thật,
Bình thản ngồi trông bóng xuân qua.
(Phan Thành Khương dịch)
Xuân MuộnTuổi trẻ chưa tường lẽ
sắc không,
Xuân sang, hoa nở, rộn
tơ lòng.
Chúa xuân nay đã thành quen mặt,
Nệm cỏ
ngồi Thiền ngó rụng hồng.
(Trích từ bài của Nguyễn
Công Lý)
Nhưng có lẽ
chúng tôi thích nhất là lối dịch rất thoát của Ôn
Trúc Lâm.
CUỐI XUÂN Thuở bé chưa từng rõ
sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta
khám phá,
Thiền bản,
bồ đoàn, ngắm cánh hồng.
(
Hòa thượng Trúc Lâm dịch - Trích từ bài của thầy Thích
Thông Huệ)
Riêng vá nhân
chúng tôi, thì cũng định dịch ra như sau:
XUÂN QUATuổi trẻ chưa tường tỏ
sắc khôngTâm xuân vừa đến trăm hoa lòng
Bây chừ hiểu rỏ thềm
chân lýAn nhiên tĩnh tọa cánh hồng rơi.
Đọc qua, đọc lại vẫn chưa
diễn đạt những gì
Sư Tổ muốn nói, rồi lại đổi thành:
XUÂN RÃITuổi trẻ chưa tường tỏ
sắc khôngTâm xuân vừa đến trăm hoa lòng
Chúa Xuân
hiện hữu thừa
chân lýGiường
Thiền tĩnh toạ thấy hồng rơi. (Tâm Thường Định dịch)
Bài thơ này được cư sỹ Nguyên Giác dịch ra tiếng Anh là:
The Late SpringWhen I were young, I did not understand the existence and the emptiness.
Now the spring flowers bloom, and I am blissful to see clearly the face of the spring.
From the Zen bed, sitting on a grass mat, I keep watching the falling roses.
Rồi
chúng tôi theo gót anh cũng mạo muội dịch ra tiếng Anh như sau:
Spring PerspectiveThe young don’t understand existence or emptiness
Their inner spring arrives and hundreds of flowers start to bloom
A clear understanding and realization of the true path arises
Sitting and reflecting on the falling of the rose petals. (Phe Bach translated)
Nhưng cũng chưa
hài lòng lắm, nên dịch lại là:
The Inner SpringWhen I was young, I didn't quite understand existence or emptiness
The spring comes and I am still excited as hundreds of flowers start blooming
Now, realizing the inner spring is always here; it is the true path
Sitting on the Zen mat acknowledging the falling of the rose petals. (Phe Bach translated)
Nói
tóm lại,
chúng ta không thể
thấu triệt được những gì đã
chứng ngộ, là
trí tuệ bát nhã, là
tinh thần Bồ tát Đại thừa của vị
Thiền Sư đắc đạo. Hay như Thầy
Thông Huệ nhấn mạnh:“Thuở bé chưa từng rõ
sắc không / Xuân về hoa nở rộn trong lòng”: Thuở bé là lúc còn non tuổi đời, cũng là khi còn ấu thơ về
đạo lý. Nhân một ngày xuân đi dạo trong vườn thượng uyển,
Thái Tử thấy trăm hoa đua nở tỏa hương ngào ngạt. Chưa thấu hiểu
lý Bát Nhã, chưa rõ
thể tánh không của các pháp,
Thái Tử ngỡ
thân tâm cảnh đều thật có.
Ý thức chấp ngã chấp pháp mạnh mẽ, nhất là trong
điều kiện thuận lợi về
vật chất, Ngài làm sao
tránh khỏi rộn ràng
xao xuyến khi thấy cảnh xuân về? Mà
cá nhân chúng tôi, ở tuổi Tam thập nhi lập, thì làm sao dịch
cho hay được. Mình bị
giới hạn những cái gì mình đang là. Cho nên, mặt dù tất cả
chúng ta có
ý nghĩ tốt, nhưng dịch những bài thơ thiền đã được
chứng ngộ như
vậy thì chúng ta chưa
đạt được, nên
chúng ta hãy để nguyên như vậy:
XUÂN VÃN Niên thiếu hà tằng liễu
sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim
khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản,
bồ đoàn khán trụy hồng.
Sacramento, cuối Đông 2011.
Tham Khảo:1. Nguyễn Công Lý, Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân. Giáo Ngộ Online. http://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=5B4250
2. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giao Sử Luận, I-II-III, Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội. 2000.
3. Phan Tấn Hải, Trần Nhân Tông - Đức Vua Sáng Tổ Một Dòng Thiền, Nguyên Giác dịch và bình. Thư Viện Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-134_4-12424_5-50_6-1_17-39_14-1_15-1/
4. Phan Thành Khương, Mùa Xuân, Lại (*) Đọc Thơ Xuân Của Hoàng Đế Trần Nhân Tông (1258 – 1308). Văn Chương Việt. http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17424
5. Thích Thông Huệ, Bài thơ XUÂN VÃN của Điều Ngự Giác Hoàng - Trần Nhân Tông. Thư Viện Hoa Sen. http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-137_4-9805_5-50_6-1_17-41_14-1_15-1/PHÁP LỮ HỒI SINHKính tặng Thầy Đạo Chí
Về đây
lữ khách đường xa
Tụ bên
Tuệ Giác la đà kệ kinh
Thênh thang pháp lữ hồi sinh Thuyền từ bến trọ
phù sinh kiếp người.
CHƯA ĐẾN CHƯA ĐIKính tặng Thầy Thích Đạo Quảng
Giọt nắng long lanh, bình minh êm ả
Hạt mưa lung linh, lòng sao bâng khuâng
Giọt nắng long lanh, nhiệm mầu tượng đá
Thầy về hay đi, hạt mưa lung linh.
Sacramento, CA - Đầu tháng 4, 2010
Như Đóa Vô ThườngTặng chị Nguyên Lợi
Như đóa
vô thường đời
mộng ảoThiền môn sen nở thoát hương đưa
Thuần Tín trao dồi
giới định huệPhật môn vô ngã chơn tánh xưa.
Khoe Bach
http://phebach.blogspot.com