NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ:
Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam
Nhà xuất bản: PHƯƠNG ĐÔNG 2011
Phần II
CÁC VỊ THẦY, GIÁO PHÁP, VÀ SỰ TRUYỀN THỪA
Sự Chuyển Hóa Của Một Phụ Nữ
Dipa Ma Barua & Những Bài Pháp
Dành Cho Nữ Phật tử Nguyên Thủy
AMY SCHMIDT
Là người tu theo Phật giáo, tôi thường thắc mắc không biết người ta có thể chuyển hóa được bao nhiêu trong một kiếp sống. Tôi có tự huyễn hoặc mình với hy vọng rằng những thói quen đã huân tập từ bao kiếp có thể được xóa bỏ, nhất là trong một người cư sĩ như tôi? Những nỗi lo sợ, giận dữ, phiền não và tham đắm có thực sự bắt đầu tan rã?
Câu chuyện sau đây, của một phụ nữ tầm thường, trong độ tuổi trung niên, có tên là Dipa Ma, là câu chuyện về người phụ nữ đã bị bầm dập dưới bao tai biến dồn dập của mất mát, khổ đau. Người phụ nữ đó, dưới nhiều mức độ, cũng không khác lắm đối với tôi. Người phụ nữ đó cũng đã bắt đầu như một người cư sĩ, và đã coi sứ mệnh của bà là để giáo huấn những người bình thường. Nhưng bà đã trở nên gần như một vị thánh trong Phật giáo. Bà đã tạo nhiều ảnh hưởng đến tương lai của thiền vipassana bằng việc cảm hóa được trái tim của các vị thiền sư Mỹ đầu tiên. Bà đã trở nên là một điển hình, một bằng chứng sống cho quan niệm “điều gì cũng có thể khả thi”.
Câu chuyện của bà Dipa Ma đã thúc đẩy tôi tiếp tục hành thiền từng giây phút, năm này qua năm kia, với chút hy vọng rằng tôi cũng có thể tìm được tình thương yêu và hạnh phúc như thế.
*
Dipa Ma, tên thực là Nani Bala Barua, được sinh ra trong một ngôi làng nhỏ bé ở vùng đồng bằng của Chittagong, Pakistan, giờ là Bangladesh. Năm 1911, bà là con cả trong gia đình Purnachandra Barua, thuộc tộc Bengal, là dòng họ có nguồn gốc từ thời đức Phật.[1]
Nani rất gần gủi với cha mẹ và sáu người em trong gia đình. Cha mẹ bà nhận thấy con gái mình là một đứa trẻ rất đặc biệt vì từ thuở ấu thơ, bà đã rất thích thú với các nghi thức trong Phật giáo. Trái với phong tục thường không cho trẻ em đến gần các vị tu sĩ, cha mẹ bà cho phép bà được dâng cúng thực phẩm, rửa chân các vị sư, và ngồi một bên khi họ thọ thực. Thay vì bày trò chơi nấu nướng như các bé gái cùng tuổi, Nani lại chỉ thích tạo các tượng nhỏ, sắp xếp bàn thờ và dâng hoa cúng Phật. Nani cũng rất thích được đi học. Dầu theo truyền thống, các bé gái trong làng không được đi học, nhưng không ai cản được Nani đi học. Ngay cả khi bị bệnh, cô bé cũng lẻn chạy đến trường, và thường thức khuya để hỏi bài cùng cha.
Theo phong tục của người Bengal, Nani phải lập gia đình khi đến tuổi dậy thì, nên dù rất thích được học, sự học của bà cũng phải bỏ dỡ chừng ở lớp 5. Năm 12 tuổi, bà được gả cho Rajani Barua, một người đàn ông 25 tuổi, nên bà phải rời bỏ gia đình, làng quê để đến sống với cha mẹ chồng. Chỉ sau lễ cưới hai tuần, Rajani phải sang Miến Điện làm công việc của một người kỹ sư. Nani phải ở lại nhà, chịu đựng sự hà khắc của gia đình chồng trong suốt hai năm trời. Năm 14 tuổi, bà lên tàu đi Rangoon để bắt đầu một cuộc sống mới trong một xứ sở xa lạ với người chồng mà bà chỉ mới biết trong hai tuần.
Bước chân lên khỏi tàu, người con gái quê mùa này không thể kiềm chế sự sợ hãi. Rangoon là một thành phố ồn ào, xa lạ với những gương mặt không quen biết, một ngôn ngữ mà Nani không thể hiểu. Cuộc sống gia đình cũng là một lãnh địa mới mẻ đối với cô gái trẻ Nani. Dầu bà đã được mẹ và các dì cẩn thận dạy bảo công việc nội trợ, nhưng không ai nói điều gì về tình dục với bà. Chính chồng bà là người đầu tiên nói điều đó với bà. Nani nhớ lại là cô “rất sốc, rất lo lắng và vô cùng xấu hổ”. Trong năm đầu tiên chung sống, bà rất sợ hãi chồng. Trong thời gian đó, Rajani luôn tỏ ra dịu dàng, thông cảm với người vợ trẻ của mình. Nani bắt đầu cảm nhận chồng cũng là “một con người hiếm thấy”, nên dần dần giữa hai người đã phát triển lòng tin yêu lẫn nhau. Nani coi Rajani như là “người thầy đầu tiên” của bà, và qua những năm tháng kế tiếp, hai người rất đỗi yêu nhau. Dầu có được một hôn nhân hạnh phúc, với thời gian qua đi, Nani ngày càng trở nên âu lo: để làm tròn bổn phận làm vợ, bà phải có con, ngay trong năm đầu lập gia đình, ưu tiên là có con trai. Nhưng qua bao năm, bà vẫn không thụ thai. Nani cố gắng chạy chữa với các bác sĩ, với các thầy lang, nhưng không ai tìm ra lý do về sự hiếm muộn của bà.
Trong lúc đó, gia đình của Rajani cũng như làng xóm, đều nghĩ rằng Nani đã làm hoen ố danh giá của họ, do hiếm muộn, nên họ đã lừa Rajani trở về Pakistan với lý do gia đình có người bệnh nặng. Khi vừa trở về nhà, Rajani được báo tin là một người vợ mới đang chờ ông, và ông phải cưới người này ngay lập tức. Rajani từ chối làm điều này, vì cho rằng làm vậy sẽ không công bằng đối với Nani. Sau đó Rajani trở về Miến Điện và khuyên Nani đừng bao giờ phải lo về việc sinh con. Nani vẫn giữ trong lòng những lời khuyên này suốt cuộc đời: “Tại sao em không biến mọi đứa trẻ khác thành con của mình? Hãy chấp nhận tất cả những người ta gặp, và xem họ như là đứa con duy nhất của mình”. Trong những năm cuối đời, những lời này càng trở nên hiện thực đối với Nani. Bà thường âu yếm gọi mọi người là ‘con yêu của ta”. Dipak Chowdhury, một đệ tử của bà hồi tưởng lại: “Bà không chỉ là người thầy, mà còn là người mẹ. Bà dạy dỗ từng người với sự tận tụy, lo lắng như đối với con của chính mình. Tôi sẽ luôn là đứa con nhỏ của ‘mẹ’”.
Năm 18 tuổi, lòng mong ước được có con đã thành hiện thực một cách oái oăm, khi người mẹ thân yêu của bà qua đời, để lại một bé trai 18 tháng tuổi, do đó người em út của bà, Bijoy, rất cần có một mái ấm gia đình. Nani và Rajani xin phép được nuôi đứa trẻ như con của mình.
Cả gia đình Nani rất tích cực tham gia trong cộng đồng Phật giáo. Tất cả đều giữ giới luật, duy trì các nghi lễ thường nhật, và thường hỗ trợ các ngày trai tăng. Nani thường xin phép Rajani để tu thiền. Mỗi lần như thế ông đều từ chối, nhưng luôn đề nghị bà hãy đợi đến lúc lớn tuổi hơn, theo đúng với phong tục Ấn Độ, để theo đuổi cuộc sống tâm linh với tư cách một người sa-di lúc cuối đời khi đã hoàn thành xong các bổn phận của người nội trợ trong gia đình.
Năm bà 34 tuổi, cũng là lúc Bijoy đã trưởng thành, và cha bà đã mất vì tuổi già, Nani nghĩ rằng thời điểm bà được tu học thiền đã đến gần. Bỗng nhiên một phép mầu đã xảy ra. Sau hơn 20 năm cố gắng thụ thai mà không thành công, Nani bỗng khám phá ra mình mang thai, và đã sinh một bé gái trong niềm hạnh phúc vô biên. Ba tháng sau, đứa trẻ bị bệnh chết. Quá tuyệt vọng, khổ đau, Nani sinh bệnh tim. Bốn năm sau, bà lại mang thai. Lần này cũng là bé gái, bà đặt tên cho bé là Dipa, đó là nguồn gốc cái tên Dipa Ma của bà, nghĩa là mẹ của Dipa. Dipa là một đứa trẻ khỏe mạnh, khi bé lẫm chẫm biết đi thì mẹ có thai lần nữa, lần này là một đứa bé trai mà mọi người hằng mong đợi. Nhưng đứa bé chết ngay sau khi sanh khiến người mẹ vô vàn khổ đau. Trong nỗi tuyệt vọng, Ma đòi quyền được tu học thiền để giải tõa nỗi khổ đau. Nhưng Rajani lần nữa lại từ chối cho rằng chưa phải lúc. Ma chống đối quyết liệt, và dọa rằng nếu cần, bà sẽ trốn đi khiến Rajani phải nhờ hàng xóm canh chừng bà.
Việc canh chừng này chẳng bao lâu sau không còn cần thiết nữa vì Nani bị chứng cao huyết áp nghiêm trọng đến nỗi bà phải nằm liệt giường gần năm năm, và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Rajani một mình phải nuôi vợ bệnh, chăm sóc đứa con nhỏ Dipa, trong khi vẫn phải tiếp tục công việc của người kỹ sư. Dần dần ông bị đuối sức trong hoàn cảnh quá căng thẳng đó. Một đêm nọ, Rajani từ sở làm trở về nhà, cảm thấy trong người không khỏe, và qua đời chỉ trong mấy tiếng đồng hồ sau đó do đột quỵ.
Dipa Ma tràn ngập khổ đau và bấn loạn. “Tôi không biết phải làm gì, đi đâu và sinh sống ra sao. Tôi chẳng còn gì nữa". Cha mẹ cả hai bên nội ngoại, hai đứa con và chồng bà đã ra đi. Đất nước Ấn Độ của bà thì quá xa xôi. Trong khi bà là một người phụ nữ tàn phế ở tuổi 44, với đứa con gái 6 tuổi, và không ai giúp đỡ. Tháng ngày qua đi mà Ma chỉ biết ôm hình chồng trong lòng mà khóc. Sức khỏe của bà ngày càng giảm sút đến nỗi bác sĩ khuyên bà thử hành thiền như là nguồn hy vọng duy nhất để sống sót. Ma chua chát nghĩ đến điều này: Khi bà khỏe mạnh, tha thiết muốn tu thiền thì bị ngăn cản; giờ, khi cơ thể rã rời, đối mặt với cái chết, thì lại được khuyên nên đi tìm thầy tu học.
Tôi nhìn quanh mình. Nhìn những của hồi môn -những chiếc sa-ri lụa, nữ trang - và tôi biết mình chẳng thể mang chúng theo. Tôi nhìn con gái, và tôi biết, dầu tôi có yêu thương nó đến mấy, tôi cũng không thể mang nó theo. Vậy tôi mang được gì theo khi tôi ra đi? Tôi nói, ‘Hãy đem tôi đến thiền viện. Có thể tôi sẽ tìm được điều gì đó để mang theo khi tôi chết”.[2]
Một đêm kia Ma thấy đức Phật hiện ra sáng rỡ trong giấc mơ của bà. Ngài nhìn Ma, rồi nhẹ nhàng tụng câu Pháp Cú cho bà nghe:
Bám víu vào những gì yêu quí sẽ đem lại sầu khổ.
Bám víu vào những gì yêu quí sẽ đem lại sợ hãi.
Với người đã hoàn toàn thoát khỏi ái dục
Chẳng còn phiền muộn lẫn lo âu.[3]
Khi Ma tỉnh dậy, bà cảm thấy rất sáng suốt và tự tại. Bà biết mình phải hành thiền bất kể tình trạng sức khoẻ có như thế nào. Bà hiểu rất rõ lời khuyên của đức Phật: Nếu bà muốn có bình an thực sự, bà phải hành thiền cho đến khi giải thoát khỏi mọi tham đắm. Ma biết Trung tâm Thiền Kamayut ở Rangoon, nên thu xếp để được đến đó ngay. Dầu luôn thực hành các nghi thức Phật giáo, Ma lại hoàn toàn không có khái niệm gì về thiền, và phương pháp thực hành chúng ra sao. Bà trao tất cả tài sản, nhà cửa, nữ trang cho người hàng xóm và nói: “Hãy nhận tất cả những gì tôi có, và chăm sóc Dipa giùm tôi”. Bà nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ còn trở lại nhà.
Đến Trung tâm, ngay trong buổi sáng đó, Ma được dạy bài học đầu tiên về thiền. Suốt đêm và suốt ngày hôm sau đó Ma chỉ ngồi thiền. Ma trở nên định tĩnh một cách lạ lùng và vào được trạng thái thiền định (samàdhi). Buổi chiều, bà bước những bước chân chậm rãi, chánh niệm đến tham vấn với vị thiền sư. Giữa chừng, bà cảm thấy chân nặng nề không cất bước nỗi. Bối rối, bà cố nhắc chân lên nhưng không được. Bà đứng yên đó trong vòng vài phút, cảm nhận sự nặng nề ở chân và cố di chuyển chân. Cuối cùng Ma nhìn xuống chân và kinh sợ khi nhìn thấy một con chó to lớn đang ngặm chặt chân bà. Bà sực tỉnh, và la lên cầu cứu. Bà cố xua đuổi kẻ tấn công, nhưng con chó, cũng thể hiện sự kiên định không kém, nhất định không buông ra. Cuối cùng một số tăng sĩ phải đến để giải thoát cho bà. Sau đó, Ma phải lặn lội lên mạn ngược để đến bệnh viện chích thuốc ngừa dại mỗi ngày. Thảm họa này đã lấy đi bao sức lực của bà, cuối cùng bà đành phải trở về nhà.
Về đến nhà, cô con gái 9 tuổi Dipa, quá hoảng loạn vì lần ra đi trước kia của mẹ, nên giờ không rời bà nửa bước. Ma cảm thấy cơ hội được giác ngộ duy nhất của mình đã qua đi, bà thường khóc vì nỗi tuyệt vọng đó. Tuy vậy, bà quyết không từ bỏ việc tu tập. Dựa vào những hướng dẫn thiền tập trước đó, suốt mấy năm trường, bà kiên trì thực hành tại nhà bất cứ khi nào có thể. May mắn thay, cuộc đời đưa đẩy, lần nữa bà lại có cơ hội để hành thiền miên mật. Ma biết một người Bengal, bạn của gia đình, ngài Munidraji, sống ở một thiền viện gần đó. Bà đã mời ông đến nhà dùng trà và trình các kinh nghiệm hành thiền với ông. Ngài Munindraji khuyên bà nên đến thiền viện Thathana Yeiktha, nơi ông đang tu học dưới sự hướng dẫn của ngài Mahasi Sayadaw. Cơ hội hiếm có được tu học với một vị thiền sư nổi tiếng đã trở thành hiện thực khi em bà, Hema, cùng gia đình đến sống tại Rangoon. Dipa sẽ an toàn hơn khi sống với dì dượng và nhiều anh chị em họ thân thích.
Vì thế Ma lại ra đi lần nữa. Từ ngày Rajani mất, Ma bị chứng mất ngủ, không cách gì để chữa trị, nhưng khi vào thiền viện thì bà không thể thức. Tuy nhiên, qua ngày thứ ba, Ma đã nhanh chóng đi sâu vào trong định, nhu cầu phải ngủ cũng biến mất, cùng với nhu cầu ăn uống. Ngài Munindraji, lo ngại rằng tâm định của bà không bình thường, nên khuyên bà đến dự pháp thoại của ngài Mahasi Sayadaw hàng tuần, dầu bà không hiểu đến một từ tiếng Miến Điện. Ma không muốn đi, nhưng Munindraji khuyến khích bà mãi.
Khó nhọc lắm bà mới đến được nơi đó. Trên đường đi, bà cảm thấy nhịp tim loạn động, cơ thể yếu đuối hẳn đi đến nỗi bà phải thực sự bò vào thiền đường bằng tay và đầu gối. Bà không hiểu gì về bài pháp thoại, nên chỉ ngồi đó tiếp tục hành thiền. Khi ngài Sayadaw hoàn mãn thời pháp đó, ngài kiểm chứng sự thực hành của một số thiền sinh, rồi đi. Ma cảm thấy mình không thể đứng lên. Thân thể bà dường như dính cứng dưới đất. Thân bà cứng đờ, bất động bởi định lực sâu lắng. Một số thiền sinh phải ở lại, canh chừng bà cho đến khi bà có thể ra về.[4]
Những ngày kế tiếp, sự hành thiền của Ma trải qua những giai đoạn thông thường của tiến trình đạt tuệ. Bà cảm nhận một luồng ánh sáng chói lòa, tiếp theo bởi một cảm giác rằng tất cả mọi thứ quanh bà đều tan biến đi. Thân bà, sàn nhà “tất cả đều vỡ tan thành mảnh vụng, trống không”. Điều đó gây ra cảm giác đau đớn cùng tột nơi thân tâm. Cái đau nơi thân thể hiện bằng cảm giác đột ngột bị đốt cháy bỏng, và thân thể co rút lại, tưởng chừng không thể nào chịu đựng nỗi. Áp lực đó khiến bà như sắp nổ tung ra khi bất ngờ một điều gì đó xảy ra. Bà đã tả lại giây phút kế tiếp đó như là “Tôi không biết” một sát na thuần khiết nơi mọi thứ đều dừng lại. Một sát na mong manh, chóng vánh và tĩnh lặng, dường như lúc đó không có gì xảy ra cả. Tuy nhiên, Ma nhận thức được rằng “một sự chuyển hóa đã xảy ra trong đời tôi”.
Sau ba thập kỷ đi tìm tự do, giải thoát, chỉ trong sáu ngày bà đã đạt được giai đoạn Giác Ngộ đầu tiên. Và cuộc đời bà đã thực sự thay đổi. Gần như ngay tức khắc, huyết áp của Ma đã trở lại bình thường. Nhịp tim đập của bà giảm đáng kể; Ma kể lại rằng “trong một buổi tọa thiền, nhịp tim của tôi đã giảm xuống 75%”. Trước đó bà không thể trèo lên các bậc thềm trong tu viện, giờ việc đó trở thành quá dễ, và bà có thể đi với bất cứ nhịp độ nào, ở bất cứ nơi đâu. Như đức Phật đã phán trong giấc mơ của bà, những muộn phiền mà bà mang bao năm tháng đã tan thành mây khói. Ma cũng không còn sợ hãi, bà tràn ngập cảm giác tự tại.
Thời gian còn lại trong năm, Ma tất bật đi lại giữa trung tâm thiền và nhà. Bà thực hành để đạt được một giai đoạn khác của định tuệ, và đã trải nghiệm được một sự đột phá sau chỉ năm ngày hành thiền. Sự tiến triển đến tuệ này rất giống với lần đầu tiên, chỉ khác là nó tạo ra càng nhiều đau đớn, khốn khổ. Tuy nhiên, sau giai đoạn chứng tuệ thứ hai, tình trạng sức khỏe và tinh thần của bà chuyển đổi đáng kể, tánh nóng nảy, bức rức giảm bớt đi và sức chịu đựng của bà tăng trưởng.
Bạn bè và người thân của Ma, ngỡ ngàng, thán phục trước sự chuyển hóa của bà, và họ bắt đầu rủ nhau đi đến thiền viện. Khuki Ma, bạn bà và cô em gái, Hema, nằm trong số những người tiên phong đó. Dipa, con gái của Ma, và vài người con gái của Hema cũng tham gia tiếp theo. Nhìn họ thật ấn tượng: hai người mẹ tuổi trung niên và đám con gái nhí nhố lẫn trong một biển áo cà sa của các vị tăng. Vì phụ nữ ít khi đến các thiền viện, việc thu xếp cho họ cũng qua loa. Daw Than Myint, cháu gái của Ma, vui vẻ kể lại rằng, “chúng con phải trèo qua mấy bụi cây để đến tham vấn với vị thiền sư”.
Hema, cũng giỏi như Ma, đã tiến bộ nhanh chóng đến trình độ ngang bằng với chị gái của mình. Dầu cả Ma và Hema đều không tiết lộ về mức độ tiến bộ tâm linh của họ, cả hai chị em đều đã giải thoát khỏi tâm tham ái và sân hận đến một mức độ đáng kể. Tiến sĩ Jack Engler, trong quá trình tìm hiểu về Ma, đã khiến bà tiết lộ sự tiến bộ của mình, một cách không trực tiếp.
Jack Engler (JE): Thường trong khi hành thiền, tâm tham ái khởi lên. Điều đó có xảy ra khi bà tham thiền?
Dipa Ma (DM): Tâm tham ái khởi lên với tất cả mọi người. Nó cũng khởi lên trong tôi. Nhưng khi nó khởi lên, tôi biết. Khi chánh niệm được lúc nào nó khởi lên, thì ta có thể chế ngự nó. Giờ tôi không còn cảm nhận tâm tham ái nữa.
JE: Bà không còn bị chúng quấy nhiễu nữa?
DM: Không. Sau ‘đạo tuệ thứ ba’, chúng không còn xuất hiện nữa. Năm ‘hạ phần kiết sử’ đã được tháo gở. [Bà kể tên Pali của chúng, đó là: tà kiến, chấp thủ, nghi, tham và sân].
JE: Để xác minh cho rõ, cho tôi hỏi lại lần nữa là bản thân bà có khởi lên tâm tham ái không?
DM: Vâng, tôi đã có cảm nhận đó.
JE: Bà còn cảm nhận điều đó?
DM: Tôi đã.
JE: Trong quá khứ, bà có, nhưng giờ thì không?
DM: Giờ thì không.
JE: Vậy cái nhìn cơ bản về cuộc đời của bà đã đổi thay?
DM: Cái nhìn của tôi đã chuyển đổi rất nhiều. Trước kia, tôi chấp vào tất cả. Tôi tham đắm. Tôi muốn sở hữu nhiều thứ. Nhưng giờ tôi cảm thấy như tôi dửng dưng, buông xả. Tôi có mặt ở đây, nhưng tôi không còn muốn gì nữa, tôi không muốn sở hữu bất cứ thứ gì. Tôi sống chỉ có vậy. Vậy là đủ rồi.
Ma cũng không còn biểu lộ sân hận: “Sân khởi lên, rồi tan biến ngay khi đó”. Điều này đặc biệt tạo khó khăn cho bà trong vai trò làm mẹ. Dầu bà biết rằng cần phải dạy dỗ Dipa hướng đến những cách hành xử phù hợp, nhưng bà không cảm thấy giận dữ dẩu Dipa láu lỉnh đến thế nào. Cuối cùng Ma phải ‘giả bộ’ giận dữ, là điều bà nhớ lại là rất khó thực hiện.
Ngoài những thành quả trong Giác Ngộ, Ma còn tham dự vào một lãnh vực tu tập mới nữa. 1965 là năm của phép thuật, của vui vẻ. Ngài Mahasi Sayadaw trước khi vị đệ tử của mình, Munindraji, trở về Ấn Độ đã khuyên, “Ông sắp trở về đất nước của siddhis (thần thông) để truyền giáo. Ông cũng nên biết đôi điều về chúng”. Munindraji đang rất bận rộn lo cho các đệ tử người Bengal làm gì có thời gian để luyện tập trong lãnh vực của năng lực tâm linh. Vì thế, để thử nghiệm, ông đã chọn những vị đệ tử tinh tấn nhất (Ma và gia đình của bà) và luyện tập cho họ theo ngay trong sách vở.[5] Vì Munindraji biết rằng các phép thuật này thực chất là không tốt, nên ông đã cẩn thận chọn lựa những người đệ tử ít nhất đã đạt được tuệ thứ nhất, để họ không bị lung lay hay lôi cuốn khi sử dụng các thần thông vừa khám phá được này.
Ma, Hema và ba người con gái của bà tập được các thần thông như đi đến cõi vô sắc giới, phân thân, nấu ăn không cần lửa, tha tâm thông, du hành đến các cõi trời và địa ngục, vượt thời gian và nhiều thứ nữa. Ma là người lão luyện nhất trong số các đệ tử của Munindraji và cũng rất tinh nghịch. Bà sẽ có mặt ở đâu đó bằng cách thản nhiên đi qua tường, hay đột nhiên xuất hiện trước mặt ai. Có lần Munindraji nhìn qua cửa sổ và thấy Ma ngồi trên mây, trong một căn phòng tự bà dựng lên, đang đùa giỡn một cách rất hạnh phúc. Lần khác, Ma và em gái cùng kết hợp sức mạnh thần thông. Lúc đó hai người đang đi trên một chuyến xe buýt để đến một điểm hẹn hơi xa. Chiếc xe buýt bị trễ giờ, nên họ sợ mình cũng bị trễ lây, họ đã mang chiếc xe buýt đầy người, vượt thời gian và không gian. Họ đã đến nơi được ‘đúng giờ’, trước sự ngạc nhiên quá thể của tất cả hành khách trên xe.
Ngài Munindraji rất thích nhờ đến Ma trong những ‘thử nghiệm’ thần thông mà ông có thể kiểm chứng lại. Lúc đó, U Thant, một nhà ngoại giao Miến Điện, sắp trở thành tân tổng thư ký của Liên Hiệp Quốc. Munindraji biết rằng U Thant sẽ đọc diễn văn nhậm chức, nên bảo Ma hãy vượt thời gian, đi vào tương lai, để nghe và nhớ nội dung của bài diễn văn đó. Ma đã đọc lại bài phát biểu, trong khi Munindraji ghi chép xuống, quả nhiên không sai, một tháng sau đó U Thant đã đọc bài diễn văn giống hệt như thế, không sai một từ.
Thử nghiệm đáng kể nhất Munindraji liên quan đến sự kiểm chứng của người thứ ba, xảy ra lâu sau này khi cả hai đã trở về Ấn Độ. Người bạn của Munindraji, một giáo sư về lịch sử Ấn Độ cổ xưa ở đại học Magadha, đã tuyên bố rằng ông không tin có phép thần thông. Munindraji bảo rằng có, và ông có thể chứng minh điều đó. Cả hai sắp đặt tình huống như sau: vị giáo sư cho một sinh viên cao học thân thiết của ông đến đền Gandhi Ashram, nơi Ma đang hành thiền. Người sinh viên không rời mắt khỏi Ma. Nhưng trong lúc đó, Ma lại bước vào văn phòng của vị giáo sư, cách đó hơn mười mấy cây số, để thăm hỏi vị giáo sư.
Dầu có một năm đầy đáng nhớ như thế, nhưng trò phép thuật đó chấm dứt khi Munindraji trở về Ấn Độ năm 1966. Ma, Dipa, Hema và hai con gái của Hema tiếp tục hành thiền, nhưng dần dần họ cũng quyết định chấm dứt làm các phép thần thông. Ma chẳng bao giờ biểu diễn những phép thuật đó nữa, trừ khi Munindraji có yêu cầu đặc biệt. Bà luôn cho rằng những phép thuật đó ‘chẳng là gì cả’, và ‘chúng không đưa ta đến giải thoát, là mục đích thực sự của việc tu tập”.
Sau khi Munindraji ra đi, người ta tìm đến với Dipa Ma để được hướng dẫn hành thiền. Người đệ tử chính thức đầu tiên là Malati Barua. Malati phải nuôi dưỡng sáu đứa con mọn. Bà rất thích hành thiền nhưng không thể rời khỏi nhà. Dipa Ma lập ra cách tu tại gia cho người đệ tử mới của mình. Bà dạy Malati phải hết sức chánh niệm mỗi khi bồng con cho bú. Đúng như Ma đã hy vọng, Malati đã đạt được thiền tuệ mà không bao giờ cần phải ra khỏi nhà. Đây là khởi đầu của ‘sự nghiệp’ lâu bền của Ma trong việc hướng dẫn những người tại gia, nhất là các bà nội trợ, đạt được thiền tuệ trong cuộc sống hằng ngày của họ.
Năm 1967, chính quyền Miến Điện yêu cầu tất cả mọi người ngoại quốc đều phải ra khỏi xứ. Quý sư nài nỉ Ma: “Đừng đi. Hãy ở luôn đây để hướng dẫn chúng tôi, con gái của bà cũng được ở luôn đây”. Đây là một danh dự chưa từng có đối với một người phụ nữ, một ngoại kiều, một góa phụ. Nhưng Ma nghĩ rằng tốt nhất là trở về Ấn Độ, nơi Dipa có thể tiếp tục chương trình cao học ở Bengal. Cuối cùng họ dọn vào nhà của một người bà con ở ngoại ô của Calcutta. Ma cảm thấy lạc lỏng ở môi trường mới này. Bà nhớ lại rằng bất cứ khi nào bà nhắc đến hành thiền, là các bà phụ nữ địa phương ‘trở nên khó chịu’.
Sau một năm, Ma và Dipa dọn về một căn phòng nhỏ tí tẹo trong một chung cư cũ, ở phía trên của một cửa hàng mài dũa kim loại, ngay trung tâm thành phố. Nhà bếp nhỏ như một tủ đựng quần áo, có một bếp lò than đặt trên sàn nhà, không có nước máy, và chỉ có một nhà vệ sinh chung cho hai hộ gia đình. Giường ngủ của Ma là một tấm chiếu mỏng. Đó là sự lựa chọn của Ma, vì đối với “quá nhiều tiện nghi có thể làm trở ngại việc tu tập”.
Dần dà, với thời gian, tiếng đồn về một nữ thiền sư Miến Điện đã chứng ngộ lan tỏa trong cộng đồng Bengal. Dĩ nhiên lúc đầu người ta còn có sự dè dặt. Vì dầu phần đông các gia đình ở đây theo đạo Phật, nhưng việc hành thiền vẫn còn xa lạ đối với người cư sĩ tại gia. Ma là biểu tượng của một đường lối tân tiến, khác biệt trong cộng đồng Phật giáo. Tuy nhiên, tiếng đồn rằng đó là vị thầy có thể ‘đem lại kết quả’, nên từng bà, từng bà nội trợ ở Calcutta bắt đầu đến tu tập.
Dipa Ma dạy họ phải biến từng giây phút trong cuộc sống của họ thành những giây phút hành thiền. Bà nhắc nhở họ chú tâm chánh niệm trong lúc nói năng, lúc ủi đồ, hay nấu nướng - tất cả mọi hoạt động. Bà thường nói, “Tất cả con đường tu tập chánh niệm chỉ là bất cứ bạn làm gì, hãy chú tâm vào việc đó”. Michele Levey, một đệ tử của bà, hồi tưởng lại, “Bà ấy tin tưởng rằng chúng ta có thể chứng đắc ngay cả khi đang ủi quần áo… Bà tin rằng tất cả mọi hoạt động đều phải được làm với tâm chánh niệm! Và phải đặt tâm từ bi vào đó nữa, tâm từ bi đối với người bạn đang ủi quần áo cho họ”.
Ma cũng khuyên các đệ tử của bà giữ gìn năm giới nghiêm mật, là điều chính bản thân bà cũng gìn giữ cho đến ngày ra đi. Bà khuyên các đệ tử chỉ nên ngủ 4 tiếng mỗi đêm, dầu họ có phải làm việc cả ngày. Họ phải hành thiền vài tiếng mỗi ngày, trình kết quả tu tập với bà ít nhất mỗi tuần hai lần, phải trải qua những thời khóa tự tu miên mật khi bà thấy là họ đã ‘sẵn sàng’. Jack Kornfield, một vị thiền sư Vipassana, tác giả của nhiều đầu sách, nhớ lại phương pháp hướng dẫn tu thiền tại gia độc đáo của bà: “Bà không bắt đệ tử phải đến sống ở Ấn Độ suốt đời, hay phải xuất gia, hay phải gia nhập tăng đoàn; bà chỉ nói: Hãy cứ sống cuộc sống bình thường, rửa chén, giặt đồ, đưa con đi học, nuôi nấng con cháu, chăm lo cho cộng đồng nơi mình đang sống, và biến tất cả những thứ đó thành con đường đạo của mình, rồi đi theo con đường đó với tất cả tấm lòng”.
Ma rất tin tưởng vào sự mầu nhiệm của việc hành thiền mỗi ngày giữa bao bộn bề công việc của người nội trợ đến nỗi một đệ tử đã hoan hỷ đặt cho bà cái tên “bà thánh đỡ đầu của các bà nội trợ”.[6] Khi được hỏi về sự khác biệt giữa việc thiền tập chính quy và thiền tập trong cuộc sống hằng ngày, bà khẳng định mạnh mẽ rằng, “Chúng ta không thể tách rời thiền ra khỏi cuộc sống”.
Vì Ma rất tin tưởng nơi các bà nội trợ Calcutta trung niên này, ngược lại họ cũng hết lòng tin nơi bà, nên dầu chỉ đơn giản hành thiền trong phạm vi đời sống hằng ngày, mà số người chứng được tuệ khá đáng kể. Tương tự như trong các câu chuyện thời đức Phật còn tại thế, khi đức Phật chỉ nói một vài lời mà người nghe có thể hoàn toàn Giác Ngộ. Dipa Ma cũng ảnh hưởng đến các đệ tử của bà một cách sâu sắc và bất ngờ. Tiến sĩ Engler đã kể lại câu chuyện của một đệ tử cá biệt, Madhuri Lata:
Vì Madhuri là một phụ nữ bị thiểu năng trí tuệ nhẹ, có lẻ chỉ số thông minh của bà chỉ khoảng 80 gì đó, Ma đã dạy cho bà điều cơ bản đơn giản nhất [để theo dõi hơi thở ở bụng, và nghĩ] “phồng, xẹp, phồng, xẹp”. Madhuri đáp, “Dạ”, rồi quay về nhà. Bà phải xuống bốn thang lầu, băng qua một con hẽm để về nhà. Nhưng chưa xuống hết mấy thang lầu, bà đã quên hết mấy lời dặn của Ma. Nên bà quày trở lên.
“Tôi phải làm gì chứ?”
“Phồng, xẹp, phồng, xẹp,” Dipa Ma trả lời.
“À, đúng rồi”.
Trở ra rồi lại quên, bốn lần như thế, Mahadri phải trở lại bốn lần, nhưng Ma rất kiên nhẫn với bà. Phải mất gần một năm trời bà mới thấu đáo lời dạy căn bản này. Nhưng một khi đã nhớ được, bà trở nên khỏe như cọp. Trước khi bắt đầu thiền tập, bà bị còng lưng góc độ đến khoảng 90. Rồi còn bị thấp khớp, có vấn đề về tiêu hóa. Khi tôi được gặp bà, sau một thời gian hành thiền, bà đã đi thẳng lưng. Không còn vấn đề về đường ruột. Bà là một phụ nữ dễ thương, đôn hậu, hòa nhã nhất. Và bà đã được chứng đắc. Sau khỉ kể cho tôi nghe chuyện chứng đắc, bà nói, “Bao lâu nay tôi rất muốn kể cho ai đó nghe về điều kỳ diệu đã xảy ra cho tôi, nhưng chưa có dịp. Đó là thứ quý giá nhất trong cuộc đời tôi”.
Trong một xã hội truyền thống mà các vị thầy, các nhân vật điển hình, và ngay cả đức bổn sư, đều là nam giới, Ma là một biểu tượng hùng hồn rằng phụ nữ cũng có thể tìm được giải thoát. Michele McDonald-Smith, một thiền sư Vipassana, hồi tưởng, “Đối với tôi, được diện kiến một phụ nữ đã chứng đắc, là một điều quá kỳ diệu đến nỗi tôi không có lời nào để diễn tả. Bà là hình ảnh mà tôi hoài vọng được trở thành. Bà giống như một ngọn hải đăng… với ánh sáng mà tôi có thể hướng tới để tôi cũng có thể tự mình trở thành như thế. Tôi không còn cần gì khác hơn nữa để làm nguồn hứng khởi cho mình!”
Ma thường nói với các nữ đệ tử của mình, “Chúng ta có thể tiến nhanh hơn, sâu sắc hơn người nam trong việc tu tập vì tâm chúng ta uyển chuyển hơn. Việc phụ nữ có khuynh hướng tỏ ra nhiều tình cảm không phải là một trở ngại”. Bà giải thích rằng, tâm uyển chuyển khiến người phụ nữ nhiều tình cảm hơn, nhiều biến đổi hơn, nhưng đó là điều họ phải nhận ra, chứ không phải để bám víu vào. Ma không bao giờ ngần ngại thách thức giáo thuyết cho rằng chỉ có nam giới mới có thể trở thành Phật. Trong vị thế của một người phụ nữ, thường bị thiệt thòi, nhưng lắm khi bà cũng khiến các đệ tử của mình phải kinh ngạc:
Vào một ngày nọ, chúng tôi ngồi trên sàn nhà trong phòng của Ma, với sự có mặt của bà. Trong phòng rất đông người và rất nóng. Munindra đang ngồi trên ghế ở một góc phòng, và giảng cho đệ tử của Ma về Pháp và về sự tu tập của họ. Ông và tôi là hai người đàn ông duy nhất trong phòng. Trong khi ông nói, Ma ngồi trên chiếc giường cây, lưng tựa vào vách, mắt nhắm lại. Nhìn giống như bà đang ngủ. Mấy ngày nay bà không được khỏe, nên không ai chú ý đến bà. Câu chuyện xoay quanh đề tài tái sinh, và có nhắc đến những chuyện tiền kiếp của đức Phật. Theo thói quen, Munindra không đắn đo gì khi nói rằng chỉ có người nam mới có thể trở thành một vị Phật, phải tái sinh làm thân người nam mới được thành Phật. Bỗng nhiên, Ma ngồi vụt dậy, mắt mở lớn, và nói từng tiếng rõ ràng, mạnh mẽ, “Tôi có thể làm bất cứ gì mà người nam làm được”. Chúng tôi ai cũng phá ra cười, kể cả Munindra, theo phản ứng tự nhiên. Tôi nghĩ là tất cả đều biết điều đó là sự thật”[7].
Việc Ma ủng hộ nữ giới đã để lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. Một phụ nữ đã nhớ lại: “Những điều bà nói làm chúng tôi kinh ngạc. Xuất thân từ một truyền thống luôn coi phụ nữ là yếu kém, chỉ việc nói đến sự bình đẳng cũng đã là một vấn đề to lớn. Vậy mà Ma tuyên bố, ‘Đúng ra trong việc tu tập, phụ nữ có lợi thế hơn’, thì đó quả là một thái độ cách mạng!” Ma cũng dám thách thức cả những mẫu mực mà văn hóa Ấn Độ dành cho người phụ nữ. Đối với Dipaka Barua, cũng như với các bà nội trợ khác, Ma luôn khuyến khích họ “đi học để có thể được độc lập về kinh tế”. Ma không chấp nhận bất cứ lý do gì để họ có thể thối thác hay phản đối. Nếu có người phụ nữ nào tỏ vẻ nghi ngờ gì về việc này, Ma sẽ khẳng định mạnh mẽ, “Đừng bao giờ nghĩ rằng phụ nữ là vô tích sự”.
Ma thúc đẩy mọi người đi xa hơn, tu tập chuyên cần hơn, sử dụng mỗi giây phút như là giây phút cuối cùng của họ. Bà luôn nhắc nhở đệ tử rằng: “Được làm người là điều quý báu nhất. Ta chớ nên để nó uổng phí”. Với lòng từ bi, nhưng bằng con mắt nghiêm khắc, bà xét xem các đệ tử của mình tu tập chểnh mãng chỗ nào - họ lười biếng chỗ nào, chỗ nào họ có thể làm cho tốt hơn. Kate Wheeler đã mô tả Dipa Ma như là người “có thể quán sát tâm mình trải qua bao nhiêu khổ đau, và vẫn có thể ngồi yên suốt thời gian đó. Sau đó, khi bà đã xả thiền, có điều gì đó rất quyết liệt nơi bà, khiến ta thấy sợ về cái cách bà có thể nhìn ta vì bà đã tự nhìn ra bản thân. Không có nơi nào để ta trốn tránh cả”.
Ma không thích giúp những đệ tử “không dốc lòng tu”[8]. Bà muốn nhìn thấy sự thay đổi thực sự ở họ, và thực sự thay đổi có nghĩa là tinh tấn. Khi Sudipti Barua, một đệ tử, cương quyết cho rằng việc phải quản lý một tiệm bánh đông khách và chăm lo cho một gia đình lớn, không cho bà chút thời gian rảnh nào để hành thiền. Ma hỏi ngay, “Vậy, ngay bây giờ, bà có thể ngồi thiền với tôi trong năm phút không?” Sau năm phút, Ma nói, “Ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục làm như thế này”. Sau vài tháng, Sudipti đã có thể hành thiền đến tận khuya, hy sinh giấc ngủ để dành nhiều giờ hành thiền. Ma không cho phép ai được “nghỉ ngơi”. Bà yêu cầu các đệ tử phải coi việc hành thiền và chánh niệm là ưu tiên hàng đầu của họ. Bob Ray nhớ lại:
Khi Dipa Ma hỏi thăm về việc hành thiền, tôi báo với bà rằng tôi thiền vào mỗi sáng và mỗi tối, còn lại trong ngày tôi phải làm việc. Sau đó bà lại hỏi, “Vậy…ông làm gì cuối tuần?” Tôi không nhớ mình đã trả lời ra sao, nhưng tôi nhớ câu đáp ứng của bà là, “Còn 2 ngày. Ông phải hành thiền cả hai ngày thứ bảy và chủ nhật”.
Còn Joseph Goldstein thì kể:
Lần cuối cùng tôi gặp bà trước khi bà mất, Dipa Ma đã quay qua nói với tôi, “con biết không, con phải ngồi suốt hai ngày”. Không phải ý bà là tu miên mật trong hai ngày, mà là tôi phải ngồi suốt hai ngày trời! Chỉ việc ngồi, trong hai ngày! Khi bà nói điều này, tôi bật cười vì điều đó dường như vượt quá khả năng của tôi. Nhưng bà nhìn tôi với ánh nhìn đầy từ bi và nói, “Đừng lười biếng, con ạ”.
Tuy nhiên, điều kỳ diệu nhất ở Ma là sự nghiêm khắc đi đôi với tình thương yêu tràn trề của người mẹ. Bà hết lòng thương yêu các đệ tử, chăm sóc cho họ từng chút. Bà cưng chiều, tặng quà, ve vuốt, an ủi, đút cà-ri cho họ ăn, và nâng niu, dỗ dành từng người như thể họ là trẻ em. Có lần, bà tiến hành một buổi phỏng vấn tập trung mà tinh nghịch đội lên đầu một chiếc xe đồ chơi bằng nhựa lật úp. Suốt ngày, không có gì không được bà rải tâm từ. Buổi sáng, có thể bà chúc lành cho đám cá trong hồ nuôi, buổi trưa nựng nịu chú chó của một người bạn, và tối đến đọc kinh nguyện cầu cho một chiếc máy bay đáp xuống bình an. Tâm hoan hỷ của bà giống như của một đứa trẻ, và điều đó dường như rất dễ lây lan.
Khi hướng dẫn thiền quán từ bi, bà luôn lặp đi lặp lại, “việc đầu tiên là phải thương yêu bản thân”. Bà nhắc nhở, “Chúng ta không thể tiến bộ bằng lòng hoài nghi và ghét bỏ bản thân; mà phải bằng lòng thương yêu bản thân. Đó là năng lượng. Tâm ta là bạn của ta. Đó là nguồn hỗ trợ tự thân. Là chỗ nương tựa. Nếu không tin tưởng nơi bản thân, chúng ta không thể tiến bộ”. Bà khuyến khích họ phải khám phá ra điều gì trong trái tim họ có sức mạnh tựa hùm beo. Đối với bà, đó chính là tâm từ và chánh niệm.
Việc hoằng pháp của Ma bắt đầu lôi cuốn được một số đông đệ tử đến căn phòng trọ nhỏ bé của bà. Những vị khách đến hằng ngày bao gồm phụ huynh, con trẻ, người già, hàng xóm tò mò, thân quyến nhiệt tình, và các vị chuyên tu. Tiến sĩ Rastrapal Mahathera, một vị sư trưởng lão, một nhà học giả, đã lắng nghe theo lời khuyên của Ma, không cần biết là đồng nghiệp của ông có người thắc mắc, “Đã đạt tới học vị tiến sĩ, làm sao ông lại có thể hành thiền dưới sự hướng dẫn của một người phụ nữ?”[9] Đôi khi Ma có quá nhiều khách vãng lai thăm viếng đến nỗi không còn chỗ trong phòng, các đệ tử phải đứng cả ra ngoài hành lang. Họ đến cả ngày từ sáng sớm cho đến 11 giờ khuya. Ma ngủ rất ít, dành thời gian tiếp bất cứ ai muốn tìm đến hỏi Pháp một cách không mệt mỏi.
Hành động quan tâm của Ma không chỉ chuyển hóa được các đệ tử mà cả những người chung quanh bà:
Khi bà mới dọn vào khu nhà trọ, nơi đây khá ồn ào, náo loạn với những tiếng chửi rủa, cãi cọ, la lối giữa những người hàng xóm với nhau, âm thanh càng được khuếch tán bởi khoảng sân trống trải. Nhà nào cũng thấu đáo chuyện của nhà kia, vì nhà nào cũng có chuyện cãi vả nhau. Sáu tháng sau kể từ ngày bà dọn về đây, cả khu vực yên ắng lại, mọi người lần đầu tiên mới biết cư xử thuận hòa với nhau. Sự có mặt của bà, cùng với cách giao tiếp của bà với người - một cách bình tĩnh, nhẹ nhàng, kín đáo, đối xử với họ bằng sự tử tế và kính trọng, nhưng có giới hạn và khi cần cũng thách thức thái độ, hành vi của họ, nhưng vì lợi ích chung của mọi người, chứ không phải vì tâm sân hận hay tham vọng nhỏ nhen cho lợi ích của cá nhân bà - đã là một tấm gương cho mọi người noi theo, khiến họ không thể bạo hành hay chua ngoa như trước kia…. Đó là uy lực tự nhiên của sự hiện diện của bà: bạn không thể hành động như thế trước bà. Bạn thực sự không thể”.[10]
Dần dà danh tiếng của Ma cũng lan tới cộng đồng những người Tây phương tu thiền. Joseph Goldstein là một trong những người đầu tiên tìm đến bà, và sau này ông còn giới thiệu một người bạn nữa là Sharon Salzbert. Sharon và Joseph, hai người này đều kính ngưỡng Ma, và tiếp tục tu theo sự hướng dẫn của bà cho đến ngày bà ra đi. Họ đã diễn tả Ma như “một người đáng thương kính nhất mà tôi được biết”. Ma đối với cô gái trẻ Sharon như một người mẹ, bà thường khuyên nhủ và đôi khi nói cả những lời dự đoán rất thú vị:
Năm 1974, khi tôi đến Calcutta để từ giã bà, tôi nói, “Con sẽ trở về Mỹ một thời gian ngắn để phục hồi sức khỏe, kiếm ít tiền rồi con sẽ trở lại”. Bà đã lắc đầu và khẳng định, “Không, khi trở về Mỹ, con với Joseph sẽ hướng dẫn người khác tu thiền”. Tôi đáp, “Không, không có việc đó đâu”, nhưng bà cứ nói, “Có, con sẽ làm điều đó”, và tôi cứ cãi. Cuối cùng bà nhìn sâu vào mắt tôi và nói, “Con biết con có thể làm bất cứ điều gì con muốn… Chỉ là vì con nghĩ mình không làm được nên không làm thôi”. Đó là lời chúc phúc mà bà đã ban cho tôi trước khi tôi trở về Mỹ. Đó là những lời nói của hai mươi năm về trước. Và bà đã nói đúng!
Sharon và Joseph đã nói với những người bạn khác về Ma, trong đó có Jack Kornfield, người đã đến gặp Ma vào những năm cuối 1970. Mỗi vị thầy đều nhắc đến Ma với đệ tử của họ, rồi đệ tử của họ lại truyền tin cho người khác và người khác nữa. Ma là một hiện tượng lạ thường đối với người Tây phương. Về ngoại hình, bà dường như bị che lấp - một bà lão ốm yếu, vận sari trắng giống như “một con côn trùng nhỏ quấn mình trong đống vải trắng”.[11] Tuy nhiên, chỉ nói riêng về năng lực, bà là một người khổng lồ. Đối diện với bà thì giống như bạn đang “bước vào một cánh đồng năng lực”, nơi những sự thay đổi thần kỳ có thể xảy ra. Đôi khi những sự thay đổi này bao gồm kinh nghiệm của một cuộc đối thoại theo kiểu tâm truyền tâm, các thay đổi trong tư duy và các trạng thái định. Có khi những biến đổi này bình lặng, như thể ta chìm vào trong ‘sự bình lặng mà không gì có thể chạm tới’ của bà, hay đã tìm ra được một nơi để ‘nương trú trong sự lặng thinh của bà, giống như an trú dưới một bóng cây sum suê mát”.[12]
Dipa Ma càng lôi cuốn thêm nhiều đệ tử Mỹ khi bà hướng dẫn ba tháng thiền chuyên tu tại trung tâm Thiền Quán (IMS) vào năm 1980 và 1984. Dầu Ma đã 69 tuổi, và có vấn đề về tim, bà vẫn đồng ý du hành đến Mỹ, cùng với con gái và cháu ngoại.
Sự khác biệt văn hóa thật lớn lao. Khi có sự hiện diện của Ma, người ta không thể coi thường những thứ mà người Mỹ vẫn coi thường, thí dụ, ăn ngũ cốc với sữa bằng muỗng là cách tốt nhất, nước chảy ra từ vòi sen để tắm, rằng chó có thể được sống trong nhà, được ăn trong dĩa, hay những cái máy không có người, nhưng khi bạn ấn nút thì có thể lấy tiền ra. Steven Schwartz, người cho bà tạm trú tại nhà trong tháng đầu tiên, đã phải mất rất nhiều thì giờ cố gắng làm cho bà được thỏai mái, cho đến khi cuối cùng ông cũng nhận ra rằng, giống như đức Phật, bà thực sự không có đòi hỏi gì.
Uy lực của sự hiện diện của Ma thật diệu kỳ. Trong một buổi phỏng vấn chung với nhóm tu, Jack Kornfield đã ngây thơ hỏi bà, “Tâm của bà ra sao?” Ma mỉm cười, nhắm mắt lại, trả lời nhỏ nhẹ, “Trong tâm tôi chỉ có ba thứ, định, từ bi và tĩnh lặng”. Jack, không chắc rằng mình đã nghe đúng, nên hỏi lại, “Chỉ có vậy thôi sao?” Ma bình tĩnh trả lời, “Vâng,…chỉ có thế”. Cả phòng im lặng. Có vài tiếng thở dài, vài tiếng cười, rồi Jack thầm thì vừa đủ nghe, “Thật tuyệt vời”. Sau đó vì sức khỏe bà không thể trở lại Mỹ, nhưng bà vẫn tiếp tục hoằng pháp trong căn phòng trọ ở Calcutta cho đến năm năm sau bà mất.
Dipa Ma đã ra đi vào buổi chiều ngày 1, tháng 9, năm 1989, lúc bà 78 tuổi. Bà ra đi đột ngột và không bị đau đớn gì. Theo người con gái, bà hấp hối chỉ trong mười hay hai mươi phút là ra đi. Sandip Mutsuddi, hàng xóm và là một đệ tử trung thành của bà trong bao năm, thường nguyện cầu, “Hãy cho con được ở bên Ma khi bà ra đi”. Kỳ diệu thay, dầu Ma ra đi đột ngột nhưng điều mong muốn của ông cũng thành hiện thực. Sandip đã kể lại câu chuyện lúc Ma ra đi:
Khi Dipa từ văn phòng trở về nhà buổi chiều hôm ấy, Ma nói với con gái rằng bà hơi mệt. Dipa hỏi bà, “Mẹ cần gọi bác sĩ không?” Ma im lặng một lúc, sau đó nói, “Ừ”. Dipa nhờ tôi đi gọi bác sĩ. Vì thế tôi đi, nhưng bác sĩ không có ở phòng khám - ông đi viếng thăm bệnh nhân tại nhà. Khi tôi trở về báo bác sĩ đi vắng, nhưng sẽ đến ngay khi được tin. Sau đó tôi đến ngồi bên Dipa Ma, rồi tôi và Dipa xoa bóp cho bà. Lúc đó Ma bảo tôi sờ đầu bà, nên tôi sờ, rồi tôi bắt đầu tụng bài kinh bà đã dạy tôi. Khi bà nghe tôi tụng, bà chấp tay nguyện cầu. Bà cúi xuống đảnh lễ đức Phật, nhưng không đứng dậy. Nên cả hai chúng tôi đở bà đứng lên, nhưng bà đã ngưng thở. Bà đã ra đi khi đang đảnh lễ đức Phật! Khuôn mặt bà rất bình an, tĩnh lặng.
Có đến ba, bốn trăm người, kể cả quý sư, dự đám tang của Dipa Ma cử hành vài ngày sau đó. Bà nằm trên một ghế bố. Các đệ tử, từng người một sắp hàng đi qua và đặt một bông hoa lên người bà, cho đến khi cả người bà được phủ đầy hoa.
[1] Trong cả chương này, gấn như tất cả các chi tiết về lịch sữ và các câu ghi chú trực tiếp đều có nguồn từ Tiến Sĩ Jack Engler. Đây là những văn bản riêng của ông, chưa xuất bản, là tư liệu trong một quyển sách đang thành hình về Dipa Ma. Jack đã vô cùng tử tế khi phải tìm trong các tư liệu nghiên cứu đồ sộ và hồi ký cá nhân để giúp tôi phần chính trong câu chuyện này.
Các thông tin khác do Thượng tọa Tiến Sĩ Rastrapala cung cấp từ tài liệu trong hồi ký của Nani Bala, viết bằng tiếng Ấn Độ năm 1989, và do Tiến sĩ Sukomal Chowdhury cung cấp từ bản dịch tiếng Anh, năm 1997 của hồi ký này. Cảm tạ con gái của Ma, cô Dipa Barua, về các chi tiết khác.
[2] Jack Engler, Ghi Chép Riêng.
[3] Ananda Maitreya & Rose Kramer, Kinh Pháp Cú (Novato, CA: Lotsawa, 1988) kệ 4 & 16.
[4] Jack Engler, Ghi Chép Riêng.
[5] Bhadantàcariya Buddhaghosa, Thanh Tịnh Đạo (The Path of Purification: Visuddhi Magga (3rd ed.; Kandy, Sri Lanka: Buddhist Publication Society, 1975).
[6] Daeja Napier, Phỏng vấn, 1997.
[7] Jack Engler, ghi chép cá nhân.
[8] Kate Wheeler, Phỏng Vấn, 1997.
[9] May mắn thay, sự kiên trì của Tiến sĩ Rastrapal đã được thành quả: sau mười tám năm làm người tu sĩ, chỉ trong một tuần dưới sự hướng dẫn của Ma, ông đã chứng được thiền tuệ. Để tỏ lòng biết ơn đối với Ma, ông đã xây dựng một thiền đường đề tên bà (Thiền Đường Nani Bala) tại Trung tâm Thiền Quốc Tế ở Bodhgaya, Ấn Độ.
[10] Jack Engler, Ghi chép cá nhân. Nguyên bản câu chuyện này đã được in trong: M.McDonald, op. cit.
[11] Kate Wheeler, Phỏng vấn, 1977.
[12] Alan Clements, Phỏng vấn, 1997.