TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN
Tác gỉa: Thích Trí Quang
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2011
02
3/1
Nay xin kể lại việc học Phật của tôi. Việc nầy vừa là
nền móng vừa là trụ cột, của đời tôi. Sau khi
xuất gia, 2482 (1938) 6 năm
tiếp theo 2483-2488 (1939-1944) tôi được vào
Phật học viện của Tổng hội
Phật học, vốn là
sơ đẳng. Viện
thành lập năm 2477 (1933), chủ yếu do
hòa thượng Giác tiên (
khai sơn chùa
Trúc lâm) và
bác sĩ Tâm minh (Lê đình Thám,
đệ tử ngài).
Ban đầu đặt tại
Trúc lâm, kế tại Quan công, sau mới tại
Báo quốc. tôi học tại đây, băng 4 năm của cấp
sơ đẳng. Viện trưởng,
Thân giáo sư chính yếu, là
hòa thượng Trí độ, nguyên là
học đồ của ngài Thập tháp, sau, gần hết học kỳ, thầy thọ
Bồ tát giới với ngài Đắc quang. Về thế học, cấp
sơ đẳng được bổ túc theo chương trìng Cơ thủy,
cấp
trung đẳng học thêm
triết học. Về
Phật học, là
chính yếu, thì nay đủ cả 4 cấp:
sơ đẳng 6 năm,
trung đẳng, cao đẳng và
siêu đẳng, mỗi cấp 2 năm, cọng 12 năm tất cả.
Tôi học 2 năm sau của
sơ đẳng. Khi lên cao đẳng thì
thu gọn siêu đẳng vào đó.
Học xong
cuối năm quí mùi 2487 (1943) làm lễ tốt nghiệp ngay đầu năm sau, 2488 (1944).
Nói tổng quát, từ sự thuộc lòng 2 thời
công phu đến
Đại trí luận và
Du già sư địa luận,
Viện dạy rất
liên tục và
nghiêm cẩn,
đào tạo tăng tài hoàn chỉnh. Nhược điểm là
học hơi nhiều về Duythức học của hệ
Giới hiền – Huyền tráng; nhất là thiếu
Sử truyện
Phật giáo, mà trong đó, có bậc
hoằng Pháp và
hộ Pháp, rất cần
cho sự nung nấu
hạnh nguyện của
học tăng. Trong
thời gian gần xong học kỳ,
tôi “bị” viết bản thảo vài ba dịch phẩm và
tác phẩm của
Thân giáo sư,
lại phải “tập dạy” nhiều môn cho các lớp
sơ đẳng và
trung đẳng mà viện mới mở.
Mấy việc nầy giúp tôi không ít, có số điểm cao nhất khi thi
tốt nghiệp, lại giúp tôi, sau đó, dịch và viết kinh sách
cho đến nay.
4/1
Bấy giờ là năm ất dậu, 2489 (1945). Nói theo dương lịch thì tháng 8 năm đó
CMT8, nói theo
âm lịch thì tháng 10 năm đó cha tôi mất. Cha tôi không lú lẫn gì
nhưng trước đó vài ba năm không nói không hỏi gì
việc đời nữa, chỉ
một mình kể
Truyện Phật gần như thuộc lòng.
Nói
trở lại, 1944, 2 lớp
sơ đẳng và
trung đẳng của
Phật học viện (mà bây giờ
gọi là
Kim sơn) được tạm dời vào Nam, với
thân giáo sư là thầy
Trí tịnh,
quản lý là
thầy Thiện hoa, hộ chủ là
Trương hoằng Lâu. Vào đó liền gặp 1945, trường rã luôn.
Thân giáo sư của
Phật học viện gốc thì về
quê nhà Bình định, với
chí nguyện đem
kinh nghiệm giáo thọ chúng tôi mà lập một
Phật học viện cho
vừa ý hơn. Rồi chưa
đến đâu, ngài ra Huế nghỉ thư giãn ở
Kim sơn.
Quãng hè 1946, thầy Tâm chính, cũng là bạn học ở
Kim sơn, thay lời các vị
lãnh đạoPhật giáo ở miền Bắc, vào Huế mời được
Thân giáo sư Trí độ, lại mời tôi theo ngài,
ra lập
Phật học viện tại
Quán sứ, tổ chức đầy qui mô và
thiện chí. Nhưng đầu tháng
10
âm lịch năm đó, lịnh toàn quốc kháng chiến
ban hành.
Phật học viện cũng phải
tạm xếp lại.
4/2
Tôi về Quảng bình thì cha tôi mất. Trước đó một ngày, đêm 21 tháng 10
âm lịch, tôi
thức khuya trong gian chái
hướng tây bắc, đọc
lại Du già sư
địa luận, thì các anh
Cẩn và Minh lù lù cùng về. Hỏi ngay, Thầy thế nào, tôi bảo, thì cũng như cũ, yếu và
dễ mệt. Tôi thêm, vẫn ăn được bắp rang ngào mật ong. Răng cha tôi tốt
nổi tiếng.
Chúng tôi hạ giọng, nói chỉ đủ nghe. Thế mà trong gian nhà thứ 5 cha tôi vẫn nghe
được, hỏi, mấy đứa về đó, phải không? Tôi dạ. Cha tôi nói, để thầy nghỉ, nói gì thì
sáng mai rồi nói. Mỗi anh môt gói đồ khá lớn. Dỡ ra thì gói nào cũng là đồ điếu
tang. Tôi hỏi, biết người nào cũng thấy
tự nhiên phải về vì nghĩ cha đang
lâm nguy.
Rồi anh Cẩn ở Lào thì
đệ tử, anh Minh ở Huế thì người cùng
cơ quan, ai cũng sắp đồ
phúng điếu như vậy. Trên chuyến tàu suốt, anh Minh ở Huế ra dừng ở Đông hà, thì
tại đây anh Cần lên tàu ấy. Nhưng xuống Thuận lý mới
gặp nhau. Sáng sớm hôm
sau, 22 tháng 10
âm lịch, cha tôi bảo chú Đại nấu nước lá chanh lá bưởi cho nhiều
một chút, tắm kỹ cho cha tôi. Mẹ tôi, và chị Thuyết, chị con dì của tôi, làm bánh lá
gạo hom cho cha tôi ăn. Khi chú Đại đỡ vào thì cha tôi thả chân xuống nền nhà. Sau
nầy mới biết đó là hạ thổ. Cha tôi bảo
đóng cửa cả 5 gian nhà để ngủ bù
mất ngủ hồi
khuya. Rồi trừ Đại ở nhà canh cho cha ngủ, 4 anh em, kể cả chú Chánh, ai cũng
xuống tỉnh. Từ cổng Bình quan, tôi rẽ qua phải đến chùa
Phật học, anh Minh rẽ qua
trái đến
cơ quan của anh. Anh Cần xuống thẳng bến sông Nhật lệ thăm đò nhà vợ.
Còn Chánh, anh chàng đi tìm
chỉ huy của mình. Quãng 4 giờ chiều, không ai hẹn ai
mà cũng
gặp nhau, thì Đại ôm ngực chạy xuống, hét lớn, các anh về gấp mà coi,
Thầy lạ lắm, nằm thẳng cẳng ra rồi! Cả nhà bấy giờ nhìn kỹ. Cha tôi mang tất trắng,
mang y hậu
chỉnh tề, đầu đội mão
quan âm,
nằm ngửa ngay thẳng và gọn gàng, 3 tay
để trên ngực, ấn cuốn Truyện Phạt
Thích ca. Cha tôi đưa tay là lấy đúng cả, từng cái
một. Tôi
để ý thấy thiếu cái kính, tức khắc hiểu ra, cha tôi không cầm kính vì sợ
kính không phân hủy hay xương. Đến chết mà kỹ tính vẫn y nguyên! Anh Cần lên
giường, bắt cánh tay rồi bàn tay, từ từ kéo rồi buông ra, thì từ từ tự thu lại như cũ.
Anh lấy sợi chỉ rất nhỏ, cầm để nơi mũi cha tôi,
chỉ không một chút lay động. Mắt
cha tôi khép kín, nhưng
thoải mái, miệng không mở ra hay xiết lại vì ngột thở hay
nén đau.
Toàn bộ sắc mặt
bình thường, rất
bình thường.
Tìm cách khám kỹ hậu môn
và hạ bộ thì đại tiện
tiểu tiện không tiết gì ra cả, cũng không hôi hám. Anh Cần, nhất
là Đại, làm rất kỹ việc nầy. Xong, anh Cần hỏi mẹ tôi, Mệ tính gì không, mẹ bảo, tùy
ý các con. Khi kéo anh Cần ra, tôi hỏi, Thầy mất ngày giờ xấu hay tốt? Anh tính đi
tính lại rồi
nói xấu, phải đổi lấy ngày mai, 23 tháng 10. Tôi ngac nhiên, 23 xấu mà.
Anh nói, xấu cho việc khác, không xấu cho cái chết. Tôi hỏi, Thầy dạy kỹ và anh
nhớ kỹ không, anh bảo yên tâm đi, tôi dặn kỹ, ngoài anh với tôi, không được nói gì
với ai về việc nầy. Anh nói, tôi cũng định dặn chú như vậy. Rồi anh coi luôn ngày
giờ
nhập liệm, động quan,
an táng.
Ngớt mưa,
bác sĩ Du lên coi kỹ,
xác nhận Ôông
đi lâu rồi.
Cả nhà ngồi xuống nền nhà, chung quanh giường, tôi
lên tiếng đầu tiên, “tuyệt đối
không khóc”. Không được khóc lớn, không khóc thầm, không khóc ấm ức. Ai không
nhịn được thì ra ngoài mới khóc. Mẹ tôi giao chìa khóa cho tôi. Tôi thành quản gia
lúc ấy. Tôi nói với anh Minh, vào chùa trình cho bổn sư hay. Ngài nói, thầy biết rồi,
đang chờ
ngớt mưa thì ra liền. Anh Minh đi, có Chánh làm vệ sĩ mà vẫn còn sợ ma!
Thầy mang tơi mà ra. Cả nhà quì lạy, và trình bạch ngày giờ các lễ quan trọng. Thầy
niệm Phật, rồi cùng các
sư huynh đi theo, trì tụng
liên tiếp 3 biến kinh
Di đà, lại
xướng
long vị cha tôi mà lạy. Thầy để nguyên y hậu, vào thăm cha tôi. Thầy niệm
Phật lớn tiếng. Vừa niệm vừa đưa tay để trên trán cha tôi, rồi dời tay để trên cuốn
Truyện Phật, nói như nói
Pháp ngữ, rằng chỉ một cuốn sách mà làm cho cha tôi chết
rất
tự tại, đúng là “hỏa diệm hóa hồng liên”! Thầy xá sâu 3 cái, ra về, dáng vẻ hoan
hỉ.
Với sự giúp đỡ của chú Đông, em con cô, tôi lo đủ hết các
thủ tục và tục lệ. Lúc
nhập liệm, trước khi đậy nắp quan, trưởng họ của tôi hô lớn 3 lần, “Cả nhà ra nhìn
Ôông lần chót.”! Lại hô, “ai muốn Ôông
mang theo cái gì thì đem ra bỏ vào.”! Nghe
thế, tôi chạy vào mở rương kinh của tôi, thì thấy ngay cuốn
Kim cang, nhỏ và gọn,
vốn tôi rất quí, chạy ra đặt trên cuốn Truyện Phật. Nắp hòm đậy lại.
Một mình bổn
sư tôi đứng trên đầu cha tôi. Trưởng họ xua ra hết. Thợ làm việc. Tiếng nện nắp hòm
e dè, nhưng vẫn khá mạnh và lớn.
Đột nhiên tôi
chấn động cả người, vụt chạy vào
buồng, khóc không gào thét, nhưng
dữ dội. Tôi đứng úp mặt vào ván gỗ, khóc không
lấy hơi được. Bổn sư tôi vào, đỡ nhẹ tôi đứng thẳng. Cứ như thế, Thầy đứng với tôi
niệm Phật rất nhẹ.