TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN
Tác gỉa: Thích Trí Quang
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2011
08
15/1
Không ai trong Ủy ban Liên phái mà không nghe biết dồn dập về việc chính quyền chuẩn bị thiết quân luật để tổng càn quét
Phật giáo.
Tăng cường cảnh sát quận 3 (
Xá lợi) và quận 10 (
Ấn quang); tập trung và mài dũa
còng tay; bắt
công chức tăng cường gác đêm... Trước đó, và có lẽ đây là
ý định thứ nhất của chính quyền: lấy lịnh tòa án ruồng bố các chùa.
Dự định nầy, theo
tin tức, nhằm cướp kim quan của ngài
Quảng đức,
truy tố các vị tổ chức cho ngài
tự thiêu. Họ đã
điều tra lai rai các vị ấy. Và rằng sẽ
truy tố những kẻ sát nhân.
UBLP họp vài ba lần. Bàn ai
tình nguyện bị bắt, ai
tình nguyện ở ngoài. Nhưng
không ai chịu ở ngoài cả. Riêng tôi, trong UBLP có cụ Hiểu, cầm đầu
Phật tửNguyên thỉ, cho tôi biết riêng, tòa đại sứ Thái lan có ý mời tôi đến
tá túc. Cụ nói 2
lần. Tôi thì đã quyết địn “để bị bắt”. Rồi
hòa thượng Tâm giác cũng làm
tương tự.
Hướng dẫn và thông dịch cho 1 viên chức nói là của tòa đại sứ Nhật, cũng
tỏ ý như
Thái lan. Tôi cũng
trả lời tương tự. Họ ngồi
cho đến gần giờ thiết quân luật mới về.
Nửa giờ sau, ban
Trật tự trong chùa
báo động.
Cùng lúc,
thô bạo cực kỳ, cảnh sát dã
chiến xông vào,
sử dụng dùi cui trước, đối với cả các
ni sư. Rồi tấn
công bằng hành
hung và lựu đạn cay, họ dồn
chúng tôi ra trước điện Phât. Ở đó, thấy ngài Hội chủ
mặt và mắt sưng, bị dẫn ra trước. Một
thị giả níu ngài bị đánh ngất xỉu. Ngài bị đưa
lên xe bít bùng, đưa
đi trước. Các nhóm, tôi cũng bị ở trong một nhóm, rồi tất cả, bị
xua ra, cảnh sát áo trắng đón lấy, đưa lên 4, 5 chiếc xe lớn, trực chỉ đến nơi mà sau
đó mới biết là Rạch cát. Đêm khuya, trời lạnh, nhưng không mưa. Đoàn xe đến một
quãng đồng cạn thì dừng lại. “Vì xe
chỉ huy hỏng máy”. Có tiếng nói nhỏ, nhưng rõ,
“ai xuống được thì xuống mà thoát đi”. Nhưng xe tôi, và sau đó biết các xe khác
cũng vậy, không ai xuống cả. Đoàn xe lại
tiếp tục. Vài mươi phút sau đến Rạch cát.
Chúng tôi bị xua xuống, nhốt vào 3, 4 cái nhà
tương đối nhỏ. Tôi, do một thầy nào
đó không rõ,
đang đêm nên cũng không nhìn được, nói nhỏ và dìu tôi vào gần nhóm
Già lam. Bấy giờ thì biết
Già lam, Pháp quang, Nguyên thỉ gốc Miên,
Ấn quang,
Giác minh,
An dưỡng địa,
Phước hòa,...
đủ mặt bá quan. Cỡ 1 giờ sau, họ dẫn cụ
Chánh trí vào, đi ruồng các phòng, đến phòng tôi,
chúng tôi 4 mắt nhìn nhau rất
nhanh, và cụ
Chánh trí liên tiếp lắc đầu, miệng nói không có, không có. Ấy là họ
“nhờ” cụ giúp họ tìm tôi. Lát sau nữa,
đại đức Giác đức bị bắt, đưa ra, dẫn đi.
Thầy nói khi nãy bảo tôi gối đầu trên vế thầy, nằm xuống mà nghỉ. Trời chưa sáng,
lạnh, nền xi măng,
vậy mà nằm vẫn thấy ấm áp. Gần sáng, thầy thức tôi dậy, nói,
việc con đến đây là hết. Bây giờ xin thầy vào nhóm
Già lam, sát nhóm Miên mà ở.
Thầy đưa tôi đến, rồi xá tôi,
lặng lẽ lui ra. Từ đó
cho đến nay, tôi cố kiếm thầy là ai
mà không tài nào kiếm ra.
Lại nói để phục
chư tăng gốc Miên, và
Phật tử của các ngài, tự ý cùng cảnh sát gốc
Miên,
liên lạc kín đáo và chặt chẽ
với nhau.
Tin tức từ lúc đó,
cho đến khá lâu sau
đó, toàn nhờ nhóm nầy
thông báo,
chính xác và đầy đủ, với máy truyền tin họ được
cấp. Nhờ đó mà biết các
hòa thượng Tâm châu, Đức nghiệp
bị bắt cả rồi, chỉ thiếu
tôi và đang cố lùng kiếm.
Hòa thượng Thiện minh về Huế, và đêm đó
bị bắt ở đây,
chùa Từ đàm. Tất cả các tỉnh,
đặc biệt ở Huế, họ bị ruồng bắt “rất cẩn thận” mà dĩ
nhiên, tôi không rõ lắm.
Nói công bình, mấy ông
chỉ huy ở Rạch cát không
gay gắt.
hống hách gì, bảo chúng
tôi
thu xếp lấy sự
sinh hoạt bình thường. Đi lại và
trò chuyện thoải mái, miễn đừng
ra ngoài khu vực.
Hòa thượng Nhật thiện,
sư đệ của tôi,
liên lạc với bên Ni, với cảnh
sát
công chức gác đêm, nhất là cảnh sát gốc Miên, định
thực hiện cho tôi một cuộc
thoát ra êm xuôi, với bộ cánh cảnh sát và 10 ngàn tiền biếu. Nhưng sáng hôm sau,
lịnh trả
chúng tôi về ăn Vu lan. Trước khi
tiếp tục, tôi kể chuyện nầy cho vui. Một
buổi chiều có đông nhân viên vào lấy lý lịch và
chỉ tay.
Hòa thượng Nhật thiện nói,
nhân việc này làm cho tôi từ nay “vẫn tìm không ra”. Một nhóm hè nhau, do hòa
thượng Nhật thiện điều khiển: tôi khai lý lịch, 1 thầy chụp hình, 1 thầy lăn tay. Tất
cả
bàn giấy, hơi lạ, là thấy
chúng tôi thì cúi xuống, đến phận sự thì làm việc, không
ngước lên, nhìn hay hỏi gì.
Hòa thượng Nhật thiện nói, một người mà lý lịch, hình
ảnh, nhất là dấu tay,
hoàn toàn khác nhau thì hết cách tìm cho ra là ai.
15/ 2
Tiếp tục câu chuyện. Tôi chưa kịp thoát ra theo sự
thu xếp của
sư đệ Nhật thiện, thì
có lịnh thả
chúng tôi về ăn Vu lan. Khi gọi đến nhóm Pháp quang thì
sư cụ Thiện
luật ra ngồi trước. Kế đến gọi Ngô Bửu Đạt (
hòa thượng Hô giác) mới ra đã có một
nhóm đến mời lên xe bịt bùng đi luôn. Khi gọi Đinh văn Tánh (
tên giả của tôi) sư
Chung
thúc đẩy tôi ra. Thế là tôi về chùa Pháp quang. Trước đó,
hòa thượng Thiện
hòa vào, tìm gặp tôi, nói, thầy về
Xá lợi, tôi sẽ đón thầy ở đó. Thế là quá rõ: Ấn
quang bế tắc đối với tôi. Và thế là tôi phải về Pháp quang. Về đây, tôi tắm rửa thoải
mái sau 9 ngày sống mọi rợ. Nhưng, từ trong phòng tắm, đã thấy 4 họng súng chỉ
vào đều nhau. Tôi nghĩ Pháp quang đang bị bao vây chặt chẽ. Quả như vậy,
Sư đệNhật thiện từ
Xá lợi chạy về, tìm gặp tôi đang thay đồ mới, dậm chân, hét, mau lên.
Nó biết thầy ở đây rồi. Thế là Pháp quang không cách gì lọt ra ngoài được nữa. Trừ
ra... tôi nghĩ thật nhanh... và bảo
sư đệ Nhật thiện, kiếm một thầy nữa,
chúng mìnhđi.
Sư đệ có ý hỏi. Tôi khoát tay và thúc nhanh lên. Tôi
đi trước, Nhật thiện và sư
Nhâm
theo sau. Xuống
sư cụ thì thấy cảnh sát đang kỳ kèo gì đó, mà sau này, biết
họ đang đòi
sư cụ cho soát
chư tăng mới được tha về. Tôi
thong thả, trình
sư cụ,
chúng con xin phép đi đưa cái thư mà ngài dạy
mang đến Ấn quang, cám ơn hòa
thượng Thiện hòa.
Sư cụ nhanh trí, bảo đi nhanh lên, sắp tối rồi. Trời lại mưa khá
lớn. Có 2 chiếc taxi đậu ngoài sân, vành xe chạy sơn màu vàng: xe của công an. Loại
nầy có quyền bắt khách, chở thẳng về công an. Mặc,
chúng tôi ngồi ngay lên 1 xe.
Xe ra đường lớn, tôi bắt đầu làm việc. Tôi nói, 2 thầy sao không biết, còn tôi mai sẽ
xin về, không tu nữa. Ngán tu rồi,...
Anh tài xế hỏi, tôi vừa
trả lời vừa nghĩ đến việc
về
Ấn quang. Nhưng về
Ấn quang là nạp mạng. Còn thoát trên đường về đó, thì lúc
bấy giờ tôi không biết gì về đường sá Saigon, không thể thoát được sự chú ý của anh
tài xế. Như vậy chỉ còn cách ra đường Hàm nghi. Tôi nói với
anh tài xế, anh có thể
ra bến tàu cho
chúng tôi hít thở thật mạnh một chút được không? Được. Ra bến tàu,
gần đến đầu đường Hàm nghi, tôi nói phiền anh ghé vào tiệm thuốc cho tôi mua vài
viên thuốc cảm. Anh ghé vào,
vui vẻ. Không biết
ngẫu nhiên hay sao mà lại chỉ có 1
hiệu thuốc mở cửa.
Chúng tôi xuống, nói với
anh tài xế, anh quay xe để rồi chung ta
đi. Nói vậy, nhưng tôi
đi thẳng, qua trước cửa tòa đại sứ Mỹ. Thấy cửa khép, tôi đi
thẳng càng mau. Nhưng đi mươi lăm mét gì đó, tôi quặt lại, thấy cửa ấy mở ra. Vậy
là
sư đệ tôi 1 tay kẹp tôi, 1 tay kẹp sư Nhâm, a vào. Anh lính Mỹ hơi tránh ra cho
chúng tôi vào. Vào rồi, anh khép cửa khá kín, mở tủ lấy một khẩu súng khác, nhỏ
hơn, và hỏi các ông có phải là phe ông
Trí quang không,
sư đệ Nhật thiện chỉ tôi, nói
tiếng Mỹ, ông nầy là
Trí quang đây. Anh lính Mỹ
đóng cửa, gọi điện thoại. Chỉ vài
phút sau, có người đến
nhận diện tôi, mời lên tầng trên, sâu hơn. Ngoài đường tiếng
chiến xa đang
ồn ào chạy quanh. Một chiếc máy
thu thanh được đem để
trước mặtchúng tôi. Đài BBC loan báo:
Thượng tọa Trí quang đã vào tị nạn trong tòa đại sứ
Mỹ.
15/ 3
Tổng hội
Phật giáo Việt nam gồm có 3 miền Nam Trung Bắc, mỗi miền có 2 giới
tăng già và
cư sĩ, thành ra 6 tập đoàn. Hai tập đoàn miền Trung là
Giáo hội Tăng giàTrung phần và hội
Phật giáo Trung phần. Trung phần ở đây là gồm cả
trung nguyênvà cao nguyên. Bộ phận cầm đầu 2 tập đoàn miền Trung cùng được gọi theo tên cũ
là Tổng trị sự (Tts). Tám năm trước 1963, tôi lạy ngài
Thuyền tôn làm hội trưởng
Tts, cho con cháu của Hội mà ngài là 1 trong 3 vị
chứng minh đại đạo sư sáng lập,
được núp trong bóng
đại thụ của ngài,
phục vụ Hội trong giai đoạn khó khăn. Năm
1963, tôi lạy mà
vâng lời ngài làm Hội trưởng Tts để ngài tịnh trú. Như vậy, Hội
trưởng Tts Hội
Phật giáo miền Trung năm 1963 là tôi,
Trí quang. Theo
cổ lệ, Phật
đản miền Trung do
Giáo hội lo
nghi lễ; còn tổ chức thì hội lo
toàn bộ, vì hội có các
tỉnh hội, và các tỉnh hội có các khuôn hội. Như vậy, tôi là người tổ chức
Đại lễ Phật
đản 1963. Lịnh cấm treo cờ
Phật giáo nhằm vào Lễ đi
Phật đản của các tỉnh và
khuôn , nhất là nhắm vào Huế. Hội trưởng Tts chống lịnh ấy, và như vậy tôi thành
người “mở đầu cuộc
vận động 1963 của Phật giáo”.
Cũng nên nhắc lại cái lịnh cấm treo cờ
Phật giáo. Trước
Phật đản 3 ngày, ông tỉnh
trưởng
Thừa thiên lên Từ đàm
vận động tôi đừng treo cờ. Tôi từ chối. Hôm sau, ông
lên, nói bây giờ có lịnh đây, tôi chỉ
tống đạt. Tôi nói rất
ngạc nhiên về cái lịnh như
vậy của chính quyền, mà là chính quyền trung ương, và không thể
tuân hành được.
Với sự kháng cự lịnh nầy, tôi tự
hoàn thành tội danh “mở đầu cuộc
vận động1963 của Phật giáo” không cần ai tự bảo mình
sắp đặt như vậy.
15/ 4
Khi UBLP họp, không ai muốn không
bị bắt, là ai cũng muốn đem
khổ hạnh của
mình,
thành tựu nguyện vọng của
Phật giáo, chứ không phải cầu may hay
áp dụngkhổ
nhục kế. Riêng tôi, với “cái tội khởi xướng”, tôi biết và chính quyền cũng không
ngần ngại gì mà không
cho biết, chờ đợi tôi là cỗ máy đoạn đầu đài, nói nôm na là
máy chém, đừng có ảo vọng gì khác.
Ở đây, nên nói chuyện cũ một chút. Trước 1963 khá lâu, có lần và lần đầu, ông
Diệm mời tôi đến tư thất, và
Cố vấn Cẩn
cho biết riêng, là để nói việc giúp đỡ đồng
hương di cư của
Phật giáo Quảng bình. Khi gặp, tổng thống Diệm nói có 2 vùng đất,
một là vùng cát màu mỡ và rất đẹp ở Cam ranh, hai là vườn ươm của canh nông ở
núi
Thiên thai. Hai vùng đất nầy, vùng nào cũng có thể làm nơi cư trú và làm ăn cho
cả trăm người. Tôi muốn thầy đứng ra nhận để lo cho
đồng hương. Tôi nói, đồng
hương ấy không nhiều, chỉ có 5
học tăng và một ít
cư sĩ, họ dã sinh sống ổn định lâu
rồi. Tôi chắc Tổng thống nói chuyện giúp đỡ nầy là có ý giúp đỡ
Phật giáo. Tôi nghĩ
Tổng thống đặt
vấn đề như vậy
thích đáng hơn. Tổng thống hỏi giúp cách nào, tôi
nói, môt nửa vườn hoa Tao đàn và 5 triệu tiền
lúc ấy, là đủ cho
Phật giáo có đủ một
cơ sở bề thế và
triệu tập một
Đại hội Phật giáo quốc tế. Vừa thay nước mời tôi, vừa
suy nghĩ trên năm ba phút, Tổng thống nói sức tôi không lo nổi. Bấy giờ, năm bảy
hôm sau khi khởi xướng cuộc
vận động 1963, cụ Nh. đến Từ đàm, vào lúc 5 giờ
sáng, nói với tôi, Tổng thống có thể
thỏa mãn đề nghị cũ nếu tôi ngưng cuộc vận
động. Tôi từ tốn nói, đề nghị ấy quá
lỗi thời rồi.
Với lại làm sao Tổng giám mục
chịu cho Tổng thống làm. Cụ Nh.
hiểu biết, ra về, khi trời chưa sáng hẳn.
Hết màn trên tiếp liền màn khác. Một người
công chức tự nói là hội viên khuôn hội
Phú Thạnh,
yêu cầu nói chuyện hơn thiệt với tôi. Rằng thầy chống đối thì đương
nhiên chính quyền sắp sửa máy chém. Sao thầy không nghĩ cuộc sống dài hơn cho
công việc dài hơn? Xét thấy người nầy chỉ học bài và trả bài, tôi
điềm đạm nói với
anh như vậy, anh cũng
điềm đạm ra về sau khi nói, “con không biết gì cả thật”!
15/5
Nếu
bị bắt lúc
Xá lợi bị tấn công, tôi bị thọ
án tử hình theo
thủ tục bình thường, hay
hơn nữa theo
thủ tục khẩn cấp, thì đó là điều tôi đinh ninh như vậy. Nhưng sẽ khác
hẳn nếu
bị bắt lại sau 9 ngày “bị bắt mà
như không bị bắt”, nhất là sau khi về Pháp
quang.
Vì vậy, tôi
quyết định không để
bị bắt lại. Không để
bị bắt lại, nhưng cũng đã
không có cách nào khác hơn đến tòa đại sứ Mỹ.
Tôi
ý thức được sự
phức tạp cho riêng tôi, kể cả khi đã ngồi trong tòa Đại sứ ấy.
Trong người tôi tự thấy
ngạc nhiên và bất ổn. Nhân viên cao cấp của tòa Đại sứ cũng
thấy ra như thế. Họ nói với tôi, nếu
thượng tọa có
ý định tỵ nạn ở đây thì là khách
của
chúng tôi. Nếu
thượng tọa không có
ý định ấy thì có thể đi ra bất cứ lúc nào
thượng tọa muốn. Tôi nói,
dĩ nhiên tôi đang
yêu cầu tị nạn ở đây. Nhưng,
xin lỗi, tôi
vào đây còn muốn nhìn thấy người Mỹ
giải quyết như thế nào về
vấn đề mà người
Mỹ có
trách nhiệm. Tôi ở đây
tùy thuộc vào sự nhìn thấy ấy. Họ nói, vậy xin mời
thượng tọa ở đây với
chúng tôi cho đến khi thấy không cần ở nữa.