ĐỀ PHÒNG KHẢ NĂNG TỰ SUY THOÁI CỦA ĐẠO PHẬT Trần Văn Chánh
Lời BBT: Sự biến mất của Đạo Phật ở Ấn Độ, nơi nó đã được sinh ra, trưởng thành và đạt đến những thành tựu cao nhất, là một hiện tượng đáng ngạc nhiên và đau lòng đối với những người chí thành với Phật pháp, mặc dù vậy nó vẫn đã xảy ra trên thực tế chứ không còn là một điều tưởng tượng. Tuy nhiên, cho đến tận giờ, thế nào và tại sao đạo Phật đã không tồn tạilâu dài ở Ấn Độ vẫn còn là một vấn đề khó hiểu với nhiều ý kiến rất khác nhau. Bài của tác giả đã viết khá lâu nay đọc lại thấy vẫn còn mới như nguyên. Xin tái đăng lại để qúy độc giả suy ngẫm.
Là người Phật tử, hoặc cảm tình viên của Phật giáo, không ai thích nghe bàn về chuyện Phật giáo có thể bị suy thoái, bị hủy diệt, bằng bất cứ kiểu gì. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn giảndựa trên luật vô thườngchuyển biến hay cái lý “thành trụ hoại không” của nhà Phật, thì bất cứ sự vật nào trên thế gian đã có thành tất phải có hoại, và cuối cùng đi đến chỗ diệt vong hoặc biến đổi sang trạng thái khác hẳn. Điều này không chỉ đúng với một tổ chức hay thiết chế xã hội riêng biệt nào trên đời mà còn đúng cả với cuộc nhân sinh tại trần gian này nữa, vì hiện nay, trước tình trạng khủng hoảng môi sinh toàn cầu, thế giới cũng đang đứng trước mối đe dọabị hủy diệt. Phật giáo cũng chỉ là một thiết chế xã hội, không thể ngoại lệ. Giả định, đến một lúc nào đó thế giớiquả thậtbị hủy diệt, tức đến hồi mạt pháp, thì chuyện tu hành không còn, kinh sách cũng sẽ trở nên hoàn toànvô nghĩa.
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ 6 trước Tây lịch. Trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của đạo Bà-la-môn, Phật giáo đã hầu như bị tiêu diệt tại nơi phát tích nhưng đã kịp thời lan tỏa đến các nước xung quanh như Trung Quốc, Việt Nam và một số nước châu Á khác. Riêng tại Việt Nam, sau nhiều giai đoạn thăng trầm, Phật giáo hiện tiếp tục chiếm được địa vịưu việt so với nhiều tôn giáo khác tồn tại song song, và là tôn giáo có ảnh hưởngsâu rộng nhất.
Thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2005 cho thấy Việt Nam chỉ có gần 10 triệu tín đồPhật giáo; nhưng số liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Namghi nhận cả nước có gần 45 triệu người quy y Tam bảo, chiếm phân nửa dân số; có hơn 14.000 tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường…; khoảng 45.000 Tăng Ni; trên 800 đơn vịGia đìnhPhật tử. Báo chí, sách vở truyền bágiáo lýPhật giáo cũng được xuất bản ngày một thêm nhiều, giúp cho Phật pháp có điều kiện lan tỏa, hoằng dương, thâm nhập ngày một thêm sâu rộng vào cuộc sống.
Dựa trên các con số thống kê đơn thuần, Phật giáo Việt Nam đang hưng thịnh và đáng phấn khởi. Nhưng, nhìn sâu hơn để đánh giá thực trạng Phật giáo Việt Nam, thì còn lắm điều phức tạp phải bàn, bởi sự phát triển về hình thứcGiáo hội và số lượng Tăng Ni, Phật tử chưa phải là yếu tốcăn bản đủ để nói lên thực chất của vấn đề. Cũng sẽ có những quan điểmđánh giá rất khác nhau tùy theo việc chú trọng đến bề nổi hay quan tâm đến thực chất nội dung sâu sắc từ bên trong. Vì thật ra, phẩm chất của đạo Phật chính là sự giác ngộ và tu chứng nhiều hay ít trong hàng ngũ xuất gia, bên cạnh sự thăng tiến về đạo đức, niềm tin, và trí tuệ được thể hiệntrong đời sống hàng ngày của hàng Phật tửtại gia, chứ không phải có thật nhiều tự viện với số lượng nhà sư đông đảo, hoặc có thật nhiều nhà sư trẻ đỗ được các cấp bằngtiến sĩ, thạc sĩ từ Ấn Độ, Đài Loan… du học trở về.
Nếu chú trọng đến sự phát triển thực chất, không ít ý kiến cho rằng hiện nay về cơ bản Phật giáo Việt Nam đang phát triển tốt với đội ngũ Tăng chúngtu tậpnghiêm chỉnh theo lời dạy của Phật, nhưng cũng có một số dấu hiệu suy thoái khá đáng lo ngại, biểu hiện qua lối sốngthực tế của một số Tăng Ni trong tầng lớp điều hànhGiáo hội, phần nhiều thuộc các cấp trung gian hoặc ở một số cơ sở chùa chiền lớn, nhỏ trong cả nước.
Do phải tổ chức thành Giáo hội để hoạt động, với tôn ti phẩm trật cao thấp, nên nếu khôngcẩn thậnđề phòng bằng việc nghiêm giữ giới luật, sẽ dễ phát sinh hiện tượng suy thoái đạo đức vì quyền lực ở những người giữ các chức vụ cao. Điều này đúng với mọi tôn giáo trên thế giới, tương tự như hiện tượng suy thoái đạo đức vì quyền lực thông thường của các cấp lãnh đạo trong mọi chính quyền ở hầu khắp các nước dân trí còn thấp và chưa có được một nền dân chủchín muồi vậy.
Mặc dù có giới luậtràng buộc, nhưng nếu hệ thốngkiểm soát sự chấp hành khôngnghiêm từ trên xuống dưới và người trên không làm gương tốt cho kẻ dưới noi theo thì Tăng Ni cũng dễ vi phạmgiới luật, sống không đúng truyền thống của đạo Phật, tạo nên những hiện tượngtiêu cực tuy có ít hơn nhưng cũng na ná như trong xã hội đời thường và trong các tổ chức chính trị-xã hội khác. Trong điều kiện cần đề phòng suy thoái như vậy, Phật giáo Việt Nam dường như vẫn chưa có một giải phápcăn bản nào để ngăn chặn kịp thời và hữu hiệu, vì thế vẫn còn tiềm ẩn nhiều khả năng có chuyện lạm quyền và thu véncá nhân, hoặc kéo bè kết cánh, ở nơi này nơi khác. Nhiều Phật tử được biết, không phải là không có chuyện khi Giáo hội Trung ương xuống công tác hoặc kiểm tra, một số thầy ở địa phương nào đó cũng tập nhiễm thói quenđãi đằngtrọng hậu để lấy cảm tình cấp trên nhằm che giấu những thành tích còn hạn chế hoặc thậm chí bất hảo của mình.
Tuy nhiên, trước một số những biểu hiện tiêu cực đã được trông thấy, chúng ta, dù là Tăng hay tục, cũng không nên vội vã có thái độ quá gay gắt khắt khe, mặc dù vẫn phải có một lập trường rõ rệt và dứt khoátcảnh giác. Ở một quan điểmkhoan dung hơn, chúng tanhận thức rằng chuyện tu hành là không đơn giản. Nó là một quá trình phấn đấu bền bỉ lâu dài đầy gian nantrắc trở, phải trải qua hàng loạt những thử tháchgay go từ bản thân ra đến ngoài xã hội. Đó còn là cuộc đấu tranh gian nan tự vượt thắng mình, với sự trì kéo giữa một bên là bản năng sinh vật của con ngườitrần tục còn bên kia là lý tưởngđạo đức, và vì vậy cũng phải giải quyết luôn các mối mâu thuẫn giữa lý trí với tình cảm, giữa nhận thức với hành động, cũng như giữa lời nói với việc làm cụ thể… Mà có làm được như vậy hay không lại còn tùy thuộc vào căn duyên hiện định và tiền định của mỗi cá thể người, vốn chịu ảnh hưởng các yếu tốtừ di truyền đến điều kiệnxã hội mà con người thật ra chỉ là sản vật, phải chịu đủ thứ cám dỗ và tác độngtiêu cực của ngoại cảnh mà người tu hành không thể đứng ngoài hoặc vượt thoát hoàn toàn.
Câu chuyệnnhà sưHuyền Trangngơ ngẩnbàng hoàng tiếc rẻ khi bị mất áo cà sa kể trong Tây du ký của Ngô Thừa Ân là một chuyện tế nhị cho thấy cái phần cận nhân tình trong thánh của các vị còn đang tu hành chưa đắc quả. Nhà văn Trung Quốctài hoa Lâm Ngữ Đường (1895-1976) có lần phát biểuđại khái cái gì bất cận nhân tình đều là xấu cả, và “một tôn giáo bất cận nhân tình không phải là một tôn giáo, một chính trị bất cận nhân tình là một chính trị điên khùng, một nghệ thuật bất cận nhân tình là một nghệ thuật dở… Lý tưởng cao nhất mà ta có thể hướng tới là thành một người ‘cận nhân tình’, khả ái, biết phải trái, chứ không phải thành một người nộm để phô trương các đạo đức”(Lâm Ngữ Đường, Sống đẹp, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Hóa, 1993, tr.167).
Thực tế cho thấy một số Tăng Ni đang có khuynh hướng coi trọng việc xây chùa to, dựng tượng lớn, phát triển cơ sở vật chất mang tính hiện đại, coi nhẹ thanh quy và việc hoằng pháp. Những năm gần đây, nhiều lễ hội mang màu sắc Phật giáo có khuynh hướng mê tín rõ rệt, bị một số đình chùa lạm dụng trục lợi trắng trợn, tạo nên những hình ảnh lệch lạc khó coi bị cả dư luậnxã hội lên án, làm ảnh hưởng nặng nề đến uy tín chung của Phật giáo. Việc dùng xe công đi lễ chùa rất phổ biến hiện nay cũng cho thấy hiện tượngchạy theo những giá trịhào nhoángbề ngoài của một số Phật tử trong giới công quyền.
Cũng đã có vị tôn túc phê phán một số Phật tử đến viếng chùa không vì động cơ tu học mà chỉ vì lòng tham, tin vào sự cầu cúng có thể mang lại cho mình được nhiều phước lộc và cho rằng đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho Phật giáosuy đồi, vì có cầu thì phải có cung, khiến nhà chùa phải thực hành những nghi thức cầu cúng mê tín.
Trong cộng đồng những người theo đạo Phật, vẫn còn một số biểu hiện mất đoàn kết, tồn tại không ít những mối mâu thuẫn và tranh chấp giữa những nhóm đạo Phật khác nhau, hoặc giữa đạo Phật với các tôn giáo khác, theo tinh thần “bài xích dị kỷ”, chống lại những kẻ khác mình, công khai hoặc ngấm ngầm. Điều này chúng ta có thể đọc được ngay trong một số bài viết về tôn giáohiện hành.
Bệnh chuộng hư danh và phô trương hình thức khá phổ biến hiện nay là một chứng bệnh nguy hiểm, tạo nên ảo giáclạc quan về sự phát triển bề ngoài khiến người ta càng xa dần với nỗ lực sống đạo. Cũng có vị tôn túc sau khi quan sát nhiều nơi ở nhiều quốc gia đã nhận thấy rằng tại những nơi Phật giáo được chính quyền ủng hộ thì Giáo hội phát triển mạnh nhưng thiên trọng về cơ sở vật chất hơn là sự tu chứng. Trái lại, hiện tượngtu chứng đã được ghi nhận nhiều hơn chính tại những nơi chịu cảnh trái nghịch, không đạt được những điều kiệnthuận lợibề ngoài như thế…
Ở Việt Nam, không có tình trạngtôn giáo bị bức hại, riêng Phật giáo còn được đối xử tốt, nhiều chùa chiền lớn đã mọc lên, hoạt độnglễ hội, tu học và hoằng pháp được tự do, nhưng giả định có khuynh hướng một số nhà chức trách nào đó, do quan niệm thiếu chuẩn xác, chỉ muốn coi Phật giáo như một lực lượng có lợi cho mình về phương diện chính trị mà can thiệp hơi sâu vào hoạt động của Giáo hội, thì đó chẳng những không phải là cách tốt nhất giúp Phật giáo phát triển đúng hướng một cách tự nhiên mà còn có thể vô tình là một trong những nguyên nhân góp phần làm cho đạo Phật khó giữ được tính độc lập với bản sắc vốn có. Giữa chính quyền và các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, nên có một sự phân công rõ ràng, trong đó các tôn giáo giữ vai tròtích cực góp phần giáo dụcđời sốngtinh thần của dân chúng để trong nước ngày càng có nhiều hơn những công dân lương thiện, nhờ thế mà chính phủ sẽ đỡ đi gánh nặng trong việc gìn giữtrị an, bài trừtội ác và các tệ nạn xã hội đang gia tăng dưới mọi hình thức mà hầu như chưa có một giải pháp khả thi toàn diện nào có thể ngăn chặn kịp thời.
Giả định một số biểu hiện tiêu cực như mô tả ở trên vẫn tiếp tục kéo dài và lan rộng mà không có cách gì ngăn chặn kịp thời thì cái xấu sẽ phát triển dần đến mức khó kiểm soát, Phật giáo Việt Namchắc chắn phải có hồi suy tàn, dù không hoàn toàn giống như hiện tượngsuy tàn của đạo Phật tại Ấn Độ ngày trước.
Một thực tế không thể chối cãi là Phật giáo đã thật sự bị suy tàn ở chính nơi quê hương gốc của Đức Phật. Sự suy tàn này có thể đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn vào thế kỷ thứ 14. Mãi cho đến thế kỷ 19 thì phong tràochấn hưngPhật giáo tại Ấn Độ mới bắt đầu trở lại, nhưng cũng chỉ vớt vát được một phần rất nhỏ.
Về các nguyên nhân được nêu ra, hiện có rất nhiều bài viết phân tích của các tăng nhân, học giả, ý kiến còn nhiều chỗ phân vân, dị biệt, nhưng chung nhất vẫn có sự thừa nhận rằng một trong những nguyên nhân quan trọng là đời sốngtrụy lạc của giới Tăng sĩ. Quan điểm chung của các học giảẤn Độ cho đó là sự xao lãng và sa đọa trong đời sống đạo đức và tâm linh của giới tu sĩPhật giáo, Tăng cũng như Ni. Cộng thêm vào đó, từ thế kỷ thứ 7 trở đi, đạo Phật có biểu hiện phân hóa với sự xuất hiện của nhiều tông phái có đường lối dị biệt và nhiều lúc chia rẽ nhau. Sự bao dung và tự do của Phật giáo cũng là một tiền đề cho sự suy tàn. Ngoài ra, với đặc tính dễ thích nghi và phù hợp với nhu cầu thờ phụng của người bình dân ở Ấn Độ, đạo Bà-la-môn dễ phát triển hơn đã làm cho đạo Phật dần dà trở thành thứ yếu hay chỉ còn là tôn giáo của tầng lớp trí thức. Một nguyên nhân quan trọng khác nữa thường được nhắc tới là sự bức hại Phật giáo của những người Hồi giáocực đoan trong thời kỳ đó.
Trong quyển sách Câu chuyệnTây Tạng: Những cuộc trò chuyện với Đức Dalai Lama (The Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama), nhà báo Mỹ Thomas C. Laird đã ghi nhận những ý kiến rất đáng chú ý của Đức Dalai Lama về nguyên nhânPhật giáo bị diệt vong tại Ấn Độ. Thomas Laird thuật lại như sau:
“Phật giáobị hủy diệt tại Ấn Độ, biến mất khỏi đất nước đã sinh ra tôn giáo này, hình ảnhmỉa mai ấy ám ảnh tôi trong nhiều thập niên… Tôi hỏi: ‘Phật giáo bị hủy diệt tại Ấn Độ như thế nào? Có phải chỉ vì những cuộc tấn công của người Hồi giáo?’.
Đức Dalai Lama bắt đầu nói: ‘Không có gì xảy ra bởi một nhân tố. Một học giả tài giỏi đã quá cố có gởi tôi một quyển sách ông viết, trong đó bàn về ba nguyên nhânlàm Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ.
… ‘Một là, những thí chủủng hộ các thiền viện ngày càng có xu thế xa rời truyền thốngPhật giáo. Hai là, những tác động từ bên ngoài như Hồi giáo và các lực lượng khác, họ ra sức tiêu diệtPhật giáo. Ba là, các thiền viện và bản thânchư Tăng trở nên rất giàu, tích trữ nhiều vàng, lại thêm tửu sắc. Những việc đó đã xảy ra. Do đó dân chúng không còn tôn kính, có người thì khinh rẻ, hoặc mất lòng tin chư Tăng. Thế nên tôi nghĩ rằng không phải một mà là có nhiều nguyên nhân’.
“Tôi hỏi: ‘Thật ư? Ngài không trách người Hồi giáo sao?’. “Đức Dalai Lama đáp: ‘Tôi nghĩ rằng trường hợpTây Tạngcũng thế, y hệt như trường hợpẤn Độ, có xu hướngxem xét những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng xem xéttrước tiên những tác độngngoại lai đã mọc rễ sâu trong đầu con người và khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều về những người khác, về những tác độngngoại lai. Nhưng chính chúng ta, nếu chúng ta không tu hành tốt, không giữ gìngiới luật, thì tôn giáochúng tatrở thànhgiả dối. Đây là sự thật. Vậy đây đúng là lịch sửPhật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng”.
Thomas C. Laird viết tiếp:“Tôi sửng sốt thấy rằng trong mọi trường hợp, Đức Dalai Lama tìm lỗi bản thân trước khi ngài tìm lỗi người khác. Ngài tìm lỗi ở Phật giáo trước khi tìm lỗi ở các tôn giáo khác. Ngài tìm lỗi ở Tây Tạng rồi mới tìm lỗi ở các nước khác. Khuynh hướng của ngài đã định hình cách ngài nhìn lịch sử… Khuynh hướng của ngài là trước hết hãy thấy lỗi của chính mình, quốc gia mình, và tôn giáo mình” (Dũ Lan Lê Anh Dũngtrích dịch, xem “Tái bút hồi âm một người bạn,”Tuần báo Công Giáo Và Dân Tộc, số 1819, từ 5.8 đến 11.8.2011, tr. 42).
Ý kiến của Dalai Lama như trên thật đáng để mọi ngườitham khảo suy ngẫm, đem soi chiếu một cách hữu ích cho hiện trạng của Phật giáo Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới, vì tại những nơi này, xu hướng sống xa rời truyền thốngPhật giáo của các Tăng sĩ là một sự thật không thể chối cãi, nếu không muốn nói đang ngày một gia tăng. Tại Trung Quốc, tình trạng còn có thể tồi tệ hơn, được Pháp sưTịnh Nhânmô tả: “Các hội Phật giáo Trung Quốc đang đối mặt với những thách thức khốc liệt do cải cách thị trường, hiện đại hóa và mở cửa gây ra. Từ cái nhìn bên ngoài, dường như các chùa viện bây giờ đang đóng chức năng “những cỗ máy làm tiền”… Từ cái nhìn bên trong… nhiều Tăng Ni đã dành quá nhiều thời gian và năng lực vào việc kiếm tiền, dành quá ít thời gian, hoặc không có thời gian để tu học và giảng dạy Phật pháp”.Pháp sưTịnh Nhân còn dẫn lời của cựu Chủ tịch Hội Phật giáo Trung QuốcTriệu Phác Sơ, cho biết thêm: “Một số người không kiên định với tôn giáo của họ, xem nhẹ giới luật và tu tập. Những người này đang săn đuổi tiền tài và danh vọng, sống một đời sống xa hoa và đồi bại. Nếu điều này không được tiếp tục ngăn chặn, nó chắc chắn làm nguy hại đến tiền đồPhật giáo” (bản dịch của Thích Nguyên Hiệp đăng trong Thư viện Hoa Sen). Nếu không ngăn chặn cái đà này, và theo cách nhìn vấn đề của Dalai Lama như trên, khả năng xuống cấp đi dần tới tự hủy diệt của Phật giáo Việt Nam và một số nơi khác trên thế giới là một điều hoàn toàn có thể xảy ra trong một tương lai không xa.
Tuy nhiên, với cái nhìn biện chứngthực tế hơn, và thận trọng hơn, mặc dù luật vô thường “thành trụ hoại không” vẫn là một chân lý bất di bất dịch hiểu theo nghĩa tổng quát, Phật giáochắc chắn sẽ không bị hủy diệt theo nghĩa đen như một khối vật chất bị phá hủy, nhưng quá trình tự hủy của nó cũng sẽ diễn ra tương tựnhư định luật bảo tồnvật chất đã phát biểu, rằng không có gì mất đi hẳn, mà sẽ chuyển hóa để tồn tại dưới những hình thái và số lượng-phẩm chất khác. Như vậy, với cái đà phát triển bất toàn này, có thể Phật giáo không bị biến mất hoàn toàn trên thế gian khi cuộc đời vẫn còn là bể khổ, mà bị biến chất, suy thoái theo một con đường lắt léo phức tạp nào đó tùy theo những yếu tốtác động khác nhau từ bên ngoài, đến mức sẽ có thể trở thànhgiả dối và chỉ còn là một cái xác không hồn, mất hết nội dung Phật chất, tồn tại một cách lu mờ mà không mang lại lợi lạcthực tế gì cho cuộc nhân sinh.
Trong chiều hướng cải cáchPhật giáo để thích nghi với điều kiện mới của xã hộihiện đại, có lẽ nên nghĩ tới việc sửa lại một số điều khoản trong giới luật theo hướng giản dị hóa cho người tu tập dễ theo, nhờ thế cũng sẽ giảm bớt được tình trạngvi phạmgiới luật đang có vẻ quá nhiều như hiện nay, giúp cho việc tu hành được thêm dễ dàng thoải mái. Nếu khôngđạt được sự tu chứng với số đông người ở trình độ cao để có nhiều thiền sưđắc đạo, thì tạo được một xã hội có nội dung Phật chất rộng rãi trong đó có được nhiều người hơn biết ăn chayniệm Phật, thương người thương vật bằng tâm từ bi hỉ xả, hoặc chỉ cần sống theo tinh thần hướng thiện của đạo Phật, trên cơ sở nhận thức luật vô thường và nhân quả, cũng đã tốt lắm rồi.
Để đề phòng khả năng suy sụp về chất (chứ không phải về hình thức, số lượng), và bảo vệuy tín cho cộng đồng, gây lại niềm tin cho dân chúng nói chung và tín đồPhật giáo nói riêng, Giáo hội cũng cần tự cải tạo hình ảnh bằng cách làm trong sạch mình hơn nữa thông qua công tác bầu chọn, bổ nhiệm nhân sự, và tăng cường kỷ luật hơn nữa để có thể đưa ra khỏi hàng ngũ những người vì thiếu căn tu mà vi phạm quá nhiều giới cấm, đặc biệt là đối với một số phần tử xấu cố ýlợi dụng lớp áo nhà tu để trục lợi, mượn đạo tạo đời…
Những việc cần làm ngay này không dễ dàng chút nào đâu, vì chắc chắn sẽ có tình trạngkiêng nể, bao che lẫn nhau, cũng khó khăn tương tự như việc nhà nước muốn chống nạn tham nhũng tràn lan vậy, nên đây có thể coi là một vấn nạn mà khả năng vượt qua được tới đâu là một thách thức rất to lớn đối với toàn thểgiáo đồ, đặc biệt đối với những vị lãnh đạotôn giáo đang có trọng trách và tầm ảnh hưởng quan trọng trong cuộc hưng suy của Phật giáo tại Việt Nam.
Trong lịch sửViệt Nam, từng có trường hợpPhật giáo bị lợi dụng và sa đọa nặng nề, nhưng cũng đã có những tấm gương chấn chỉnhđạo phápthành công, như trường hợp chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đã làm được trong khoảng nửa đầu thế kỷ 18 ở xứ Đàng Trong, nhờ vào nhận thứcsáng suốt và sự kiên quyết (có thể xem Trần Hồng Liên, Đặc điểmPhật giáo Đàng Trong thế kỷ 18, đặc san Suối Nguồn, tập 1, NXB TP.Hồ Chí Minh, tháng 5.2011).
Phải có đủ cả bi, trí, dũng, giới, định, huệ và chánh kiến, chánh tư duy lẫn cả chánh niệm, chánh tín mới dám nhìn thẳng vào sự thật để tự phê phán và từ đó giải quyếtvấn đề, tiến hành công cuộc cải lương Giáo hội một cách thật sự hiệu quả, nhằm tránh vết xe đổ của một đạo Phật bị tuyệt diệt trên thực tế tại Ấn Độ.
Đạo PhậtViệt Nam tuy khó bị hủy diệt hơn, nhờ có những hoàn cảnhthích hợp hơn về các mặt tâm lý, tập quán, truyền thống dân tộc… nhưng những biểu hiện biến tướng không lành mạnh của nó ngày một gia tăng trong vài chục năm gần đây, cũng là một hình thức của sự suy đồi từ bên trong, thật rất đáng lo ngại và cần phải nhanh chóng ra tay cứu chữa càng sớm càng tốt. Công việc hệ trọng đó đòi hỏi sự đoàn kết quyết chí một lòng cùng sự kiên trì của toàn thểTăng NiPhật tử, mới có thể làm được.
Ở các xứ Ả Rập, Hồi giáo là quốc giáo. Họ vô cùng độc đoán và khắc nghiệt. Học không chấp nhận những gì nói khác với kinh Quran. Khắc nghiệt đến độ: Chỉ có thượng đế Alah của họ mới có khuôn mặt người. Học từng vạt mặc các pho tượng khác tôn giáo với họ. Ấy vậy mà hôm nay ở đây mọc lên một ngôi chùa Phật giáo ở Dubai ( UAE ). Một điều không thể tưởng, không thể tin…
Ngày mồng bốn Tết âm lịch năm Kỷ Hợi (8/2/2019) miền nam California vừa khép lại với chương trình ca nhạc Phật giáo đặc biệt mang tên Pháp Nhạc Âm với chủ đề Gia Tài Bậc Thánh, được tổ chức tại Hí viện Saigon Performing Arts Center (16149 Brookhurst St. Fountain Valley, CA 92708, từ 18 giờ đến 22 giờ 30) với sự góp mặt của các ca sĩ Nguyên Khang, Ngọc Hạ, Diễm Liên, Thiên Tôn, Quỳnh Vy.
Tôi mới nhận được thư của các bạn Nhật. Các bạn gửi cho 1 bài báo từ tạp chí nổi tiếng Nikkei Asian Review có tựa đề “The 'silver tsunami': Ten nonagenarians who shaped Asia in 2018”. Tạp chí nổi tiếng của Nhật Nikkei Asian Review đã chọn ra 10 nhân vật định hình châu Á trên 90 tuổi. Tin vui mà các doanh nhân Nhật Bản thông báo cho tôi là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh được bình chọn là 1 trong 10 nhân vật đặc biệt này.