Lời giới thiệu
Đã từ năm mươi năm nay, Phật tử Việt Nam, nhất là giới xuất gia, chờ đợi một cuốn Thiền Môn Nhật Tụng bằng quốc ngữ. Trong quá trình thực tập và hoằng pháp, tôi cũng đã từng nhiều lần cảm thấy nhu yếu cấp thiết này. Nay sách Nhật Tụng Thiền Môn của Đạo Tràng Mai Thôn được ấn hành, tôi hết sức vui mừng và xin trân trọng giới thiệu với các giới hành giả khắp nơi trong toàn quốc.
Sách Nhật Tụng Thiền Môn mà quý vị đang nâng trên tay quả là một pháp bảo, quý giá vô cùng. Các vị giáo thọ của Đạo Tràng Mai Thôn đã để ra mười lăm năm để soạn tập, phiên dịch và xây dựng lên nó. Văn dịch sáng sủa và đẹp đẽ, diễn đạt được ý kinh một cách rõ ràng và tự nhiên, rất dễ tụng đọc. Các kinh điển được chọn lọc trong kinh tạng lại là những kinh tiêu biểu và căn bản, kinh nào cũng thiết yếu cho công phu hành trì của người xuất gia. Những bài kệ tán và xướng tụng hay nhất trong sách Thiền Môn Nhật Tụng cũ đều đã được phiên dịch rất khéo léo, và thêm vào đó còn có rất nhiều bài kệ tán, phát nguyện và sám nguyện mới rất thích hợp với căn cơ và thời đại.
Sách Nhật Tụng Thiền Môn này nếu được đem ra áp dụng sớm sẽ tạo ra rất nhiều sinh khí mới cho thiền môn và mở ra một kỷ nguyên mới cho sự thực tập.
Trúc Lâm Thiền Viện, ngày 15.5.1997
Thiền sư Thích Thanh Từ
Lời nói đầu
Truyền thống thực tập hai buổi công phu bắt đầu từ đời Minh (1368 – 1628) và mãi đến đời Thanh (1610 – 1902) vào năm Quang Tự thứ 12 (1886), sách Thiền Môn Nhật Tụng mới chính thức ra đời trong hình thức ta thấy. Sách này gồm thâu lại tất cả những kinh văn, pháp ngữ, đà la ni, nghi thức, cảnh sách, vấn đối và giáo huấn trước đó thường được dùng trong các chùa thuộc nhiều tông phái khác nhau. Vì vậy tuy tên sách là Thiền Môn Nhật Tụng nhưng kỳ thực công phu soạn lục không phải chỉ là công phu của thiền môn mà còn là của các truyền thống khác như Luật, Tịnh Độ và Mật. Vào đời Thanh, các tông phái có khuynh hướng dung hợp, nhất là Thiền và Tịnh, vì vậy sách đã được sử dụng rộng rãi trong cả hai tông phái này.
Buổi
công phu sáng mang nặng màu sắc
Mật Tông, nội dung là
thần chú Lăng Nghiêm và mười
thần chú khác. Buổi
công phu chiều thì vừa có màu sắc
Tịnh Độ Tông vừa có màu sắc
Mật Tông (
nghi thức Tiểu
Mông Sơn). Màu sắc
Thiền Tông của đạo Bụt
Việt Nam, vốn rất
đậm đà trong lịch sử, qua hai buổi
công phu ấy đã không được biểu hiện đầy đủ. Trong sách
Nhật Tụng Thiền Môn Năm 2010 này, hai buổi
công phu ở chùa đã được đề nghị thay đổi để nội dung được
giàu có hơn về cả hai phía
thiền tập và kinh văn. Thay vì ngày nào cũng tụng những kinh như nhau, ta được trì tụng mỗi ngày một hay nhiều kinh khác nhau, do đó những
kinh điển căn bản về
thiền tập đều được có dịp trì tụng và
học hỏi. Buổi sáng, sau nửa giờ
tĩnh tọa và
kinh hành im lặng, ta bắt đầu trì tụng một kinh, như Kinh
Kim Cương. Ngày hôm sau, ta
tụng kinh khác. Sách này
cống hiến nhiều kinh khác nhau cho bảy ngày trong tuần, và những tiết mục của buổi
công phu cũng đầy đủ như trong
nghi thức truyền thống, chỉ có khác hơn là
nghi thức mới được trì tụng
hoàn toàn bằng Quốc Ngữ.
Vì ta đã bắt đầu bằng nửa giờ
tĩnh tọa và một vòng
đi kinh hành im lặng nên đến tiết mục
tuần nhiễu niệm Bụt, ta chỉ cần đi một hoặc hai vòng. Những điều vừa nói cũng được
áp dụng cho
nghi thức công phu chiều. Theo
Nghi Thức này, mỗi tuần ta chỉ cúng
thí thực bằng
nghi thức Tiểu
Mông Sơn một lần vào chiều thứ bảy. Tại những chùa vừa
tu Thiền vừa tu
Tịnh Độ thì trong buổi
công phu chiều, ta niệm Bụt
A Di Đà trong khi đi
tuần nhiễu.
Thay vì có hai buổi
công phu, ta có tới mười bốn buổi. Buổi
công phu nào cũng được bắt đầu bằng
tĩnh tọa và một vòng
kinh hành im lặng. Giờ
tĩnh tọa tối thiểu là từ 20 tới 30 phút. Tại các
thiền viện,
thời gian này có thể tăng lên
tùy theo nhu yếu. Tại các chùa
Thiền Tịnh song tu,
hành giả có thể niệm Bụt
Di Đà trong các buổi
tĩnh tọa. Ngồi niệm Bụt, theo
tinh thần của đạo Bụt nguyên thỉ, cũng là
ngồi thiền. Khuya rằm và mồng một ta có thể thay buổi
công phu sáng bằng
nghi thức Chúc Tán.
Để cho nội dung các buổi
tĩnh tọa được
giàu có và
lợi lạc, xin
hành giả sử dụng sách Sen Búp Từng Cánh Hé, một thiền phổ tập hợp nhiều bài
thiền tập rất có
giá trị. Sách này do
thiền sư Nhất Hạnh biên soạn căn cứ vào kinh nghiệm tu tập của mình và của những năm giảng dạy và hướng dẫn
thiền tập ở Á Đông cũng như ở
Tây Phương.