Tâm Bình Thường Là Đạo

07/08/20153:57 SA(Xem: 15143)
Tâm Bình Thường Là Đạo

TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO
Thiện Ý

          ho thu yen binhCâu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”, nói theo chữ Hán là “bình thường tâm thị đạo”.  Vậy, tâm bình thường có gì ghê gớm mà có thể gọi là Đạo?  Chữ “bình” (平)trong tiếng Hán, nếu dịch sang tiếng Anh là ‘peace,’ mà nghĩa peace trong tiếng Anh rất là nhiều nghĩa.  Peace có thể dịch là sự bình an mà vượt lên trên cả bình diện hạnh phúc và khổ đau.  Một khi tâm đã bình an, nghĩa là trong trạng thái buông xã hoàn toàn, không còn chấp thủ, hay dính mắc. Theo thiển ý, tâm bình thường là tâm với một thái độ vô cầu, không vướng mắcTâm bình thường cũng có thể hiểu là tâm an trú trong sự bình an, tĩnh mặc, như mặt nước hồ thu, yên tịnh, trong sáng, soi rọi và ôm trọn tất cả những cảnh trí quanh mình, mà hoàn toàn không bị đắm say, hay xáo trộn, dính mắc, như thi kệ nổi tiếng của thiền sư Hương Hải (1628-1715), còn gọi là Tổ Cầu, một thiền sư Việt nam, đã mô tả:

Nhạn bay ngang trời
Bóng chim đầm lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu bóng hình. 
(Bản dịch của Sư Ông Làng Mai)

(Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm)

          Người sống với tâm bình thường là người đã biết đủ, không còn tham cầu, mong ngóng để thành tựu thêm một cái gì nữa.  Cuộc sống của họ đã quá đầy đủ và họ mãn nguyện với cái mình đang có.  Họ không còn những đấu tranh, dằn vặt trong nội tâm.  Họ đã có thể sống bình an, hòa bình với tâm thức, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Đói khát, nóng lạnh, khổ đau, hạnh phúc, v.v.. chỉ là những khái niệm do con người đặt tên.  Nên trong câu chuyện ‘chém mèo,’(Nguyên tác Vô Môn Quan do Nguyễn Nam Trân biên dịch),  ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) nhân việc các học tăng ở đông đường và tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói:  

-‘Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi.’

Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo.

Tối hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xãy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng.

Nam Tuyền thấy thế mới bảo:

-‘Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết!’

Thói thường, chúng ta hay đặt tên cho tất cả các sinh vật, hay đồ vật là để tiện việc đối thoại.  Nhưng lâu ngày, chày tháng chúng ta bị dính mắc vào tên gọi, nên khi ai đó có một ý niệm khác về vật đã được gọi quen lâu nay, mình cho rằng như vậy là sai. Sở dĩ ngài Nam Truyền làm thế và ngài Triệu Châu trả lời như vậy vì các ngài không còn bị dính mắc vào những thông tục về tên gọi và khái niệm của thế gianNên chi, giày dép là vật dơ bẩn để đi đường tránh dơ, sao lại đem đội trên đầu!  Tập khí của thói quen rất là mạnh.  Khi mình đã quen thuộc với một cái gì đó, phải thay đổi cách suy nghĩ hay việc làm là điều rất khó chịu! Những hình thức mà đã được mình lập trình (programmed) trong tâm nên chi rất là khó khăn khi mình phải phá bỏ (delete) cái mà lâu nay mình cho là hoàn toàn đúng!

          Có thể đa số chúng ta sẽ cho rằng: như vậy khi mà chúng ta ai cũng tham muốn thành tựu cái này, cái kia nên chưa thấy khả năng chứng ngộ của mình thì tất cả đều có “tâm bất bình thường” cả sao?!  Trở lại vấn đề bên trên, bình thường, hay bất bình thường đều là những khái niệm cả; giống như đa số chúng ta khi đồng ý một chuyện gì thì gật đầu tán đồng.  Nhưng theo người gốc Ấn độ thì lắc đầu mới có nghĩa là tán thành, đồng ý.  Vậy khi mình đến xứ Ấn, muốn cho họ hiểu mình cũng phải lắc đầu theo vậy! 

          Theo tư tưởng trung đạo, tâm bình thường có nghĩa là chúng ta không để mình bị lôi kéo hay vướng mắc vào một cực đoan nào cả!  Hôm nay, sự kiện này có thể là đúng.  Nhưng ngày mai nó sẽ có thể không còn đúng nữa.  Nếu chúng ta bị mắc kẹt vào sự đúng sai, phải trái tyệt đối như vậy, thì tâm mình có được bình an trong cái thế giới vô thường, luôn luôn thay đổi này hay không?  Thế nên Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết Bàn :

Chư hành vô thường,
Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.  

Nghĩa là: Các hiện tượng đều là vô thường, đều là những hiện tượng có sinh và có diệt. Khi cả sinh và diệt đều không còn, thì trạng thái ‘bình thường’ vắng lặng (tịch diệt) mới là niềm an lạc chân thật nhất.

          Cho nên, ngày xưa có một vị vua treo giải thưởng lớn cho họa sĩ nào có thể vẻ được một bức tranh ý nghĩa nhất, mô tả sự bình an.  Có rất nhiều họa sĩ dự thi.  Nhà vua xem xét hết mọi bức tranh nhưng chỉ có hai bức là nhà vua thích nhất và vua phải chọn một bức thắng giải.

          Một bức tranh mô tả một hồ nước tỉnh lặng.  Hồ nước trong tranh như là một tấm gương tuyệt hảo, phản ảnh những ngọn núi hùng vĩ bình yên, vững chải bao bọc xung quanh.  Trên cao là bầu trời xanh trong với những đám mây trắng như bông tuyết.  Mọi người xem bức tranh đều nghĩ đây quả thậtbức tranh tuyệt vời diễn tả sự bình an.

          Bức tranh kia cũng có núi non hùng vĩ, nhưng chúng rất hiểm trở, gồ ghề, và trần trụi.  Bên trên là một bầu trời xám xịt, mưa rơi tầm tả, và sấm chớp đầy trời.  Bên hông núi là một thác nước ầm ầm chảy.  Cảnh này chẳng có vẻ gì là bình an cả.  Nhưng khi nhà vua nhìn kỷ hơn, ông thấy phía sau thác nước là một bụi cây nhỏ mọc bám vào kẻ nứt của tảng đá.  Bên trong bụi cây là một con chim mẹ đang ngồi trong một cái tổ ấp con mình, an nhiên giữa những cuồng phong bảo tố của trời đất … thật là bình an làm sao!

          Bạn đoán thử xem bức tranh nào thắng giải?

          Nhà vua chọn bức thứ hai, bởi vì theo lời giải thích của nhà vua, “bình an không có nghĩa là đang sống trong một nơi bình an, không có sự ồn ào, phiền phức, hay khó khăn.  Bình an có nghĩa là đang sống ngay trong lòng của những hoàn cảnh trên, nhưng trong tâm vẫn an nhàn, tự tại.  Đó mới chính là ý nghĩa thực sự của sự bình an.”

                                                                                Thiện Ý

                                                                           (tháng 7, 2015)





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :