CHO LÀ NHẬN
Nguyên Minh
Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin
Chia sẻ những gì
Rất có thể bạn sẽ phân vân khi nghĩ đến việc chia sẻ với mọi người: liệu bản thân tôi có gì để chia sẻ? Bạn có thể thấy mình vẫn còn đang quá khó khăn về tài chánh, vậy làm sao có thể chia sẻ với người khác? Bạn có thể thấy bản thân mình vẫn không ngừng phải đối phó với biết bao điều bất ổn, bế tắc trong cuộc sống và chưa thực sự đủ sức để vượt qua, làm sao có khả năng chỉ dẫn hoặc chia sẻ tri thức với người khác? Bạn cũng có thể thấy bản thân mình thường xuyên phải đối mặt với nhiều nỗi lo toan, đe dọa từ cuộc sống vốn đầy bất trắc, và không nghĩ rằng mình có đủ điều kiện để che chở hay cứu giúp người khác thoát khỏi nỗi sợ hãi của họ... Nói chung, bạn thấy mình có lẽ chưa đủ điều kiện để chia sẻ trong lúc này, nên dù rất muốn làm điều đó, bạn vẫn thường nghĩ rằng phải đợi đến một lúc nào đó khi mọi điều kiện trở nên dễ dàng hơn...
Liệu những suy nghĩ như thế có đúng không? Chắc chắn là không! Sự thật là, nếu bạn vẫn giữ nguyên những suy nghĩ như thế, sẽ không bao giờ có “một lúc nào đó” để bạn thực sự chia sẻ với người khác. Trong khi đó, những ranh giới của sự hẹp hòi sẽ từng ngày khép chặt hơn quanh bạn, và bạn sẽ không bao giờ có thể cảm nhận được những niềm vui thực sự trong đời sống. Khuynh hướng “bất toại nguyện” sẽ không ngừng chi phối, hành hạ bạn, chỉ đơn giản vì bạn chưa bao giờ tự thấy mình có đủ những thứ mình cần.
Và khái niệm “đủ” thì luôn mang một ý nghĩa hết sức mơ hồ, tương đối. Bạn có thể tự thấy mình đã có đủ trong mọi hoàn cảnh, nhưng bạn cũng có thể không bao giờ thấy đủ cho dù đã có được rất nhiều. Trong thực tế, cảm giác biết đủ không phụ thuộc hoàn toàn vào những gì bạn có được, mà phụ thuộc nhiều hơn vào nhận thức của bạn về cuộc sống. Có lần, tôi bắt gặp một bức ảnh đầy ý nghĩa được một bạn trẻ chia sẻ trên trang Facebook: Một bà lão hành khất đã trích từ số tiền nhỏ nhoi xin được để đóng góp vào một thùng quyên góp từ thiện.
Tôi nghĩ, hình ảnh này đã quá đủ để nói lên tất cả những ý nghĩa về sự biết đủ. Nếu suy ngẫm từ đây, bạn sẽ thấy chúng ta luôn đầy đủ và thậm chí là may mắn biết bao. Vì thế, chỉ cần thay đổi nhận thức về cuộc sống thì bạn luôn có thể chia sẻ trong cuộc sống. Sự thật là khi chúng ta sẵn lòng chia sẻ cùng người khác, ta sẽ cảm thấy bản thân mình đầy đủ, chứ không phải đợi khi ta cảm thấy đầy đủ rồi mới khởi lên ý muốn chia sẻ. Trong số nhiều tấn gạo chuyển về miền Trung để cứu trợ sau những cơn bão lụt tàn phá, phần lớn đã được tự nguyện đóng góp từ rất nhiều người lao động đang vất vả từng ngày kiếm sống chứ không chỉ từ những gia đình thuộc tầng lớp trung lưu hay giàu có.
Hơn thế nữa, khi bạn sẵn lòng chia sẻ, bạn sẽ nghĩ ra được phương pháp tốt nhất để thực hiện việc chia sẻ. Trong truyện ngắn “Vị ngọt của chè”, ngay cả những em học sinh tiểu học cũng có thể làm chúng ta ngạc nhiên vì sự chững chạc và thông minh khi nghĩ ra phương thức giúp đỡ người khác một cách hoàn hảo không kém gì người lớn. Hơn thế nữa, có một điều gần như đã trở thành quy luật tự nhiên là, giải pháp chia sẻ luôn xuất hiện và chỉ xuất hiện sau khi chúng ta thật lòng khởi tâm chia sẻ.
Khi nhìn lại những gì xảy ra quanh ta với nhận thức này, bạn sẽ thấy có rất nhiều điều tương tự vẫn luôn diễn ra trong cuộc sống, nhưng chỉ vì không lưu tâm đến nên ta thường bỏ qua không nhận biết. Một khi bạn thực sự chọn cách sống chia sẻ với mọi người, bạn sẽ dễ dàng nhận ra vô số những cơ hội chia sẻ quanh mình. Việc mang lại niềm vui và lợi lạc cho người khác thật ra dễ hơn nhiều so với bạn vẫn tưởng, và điều đó cũng mang lại cho bạn nhiều niềm vui mà có thể trước đây bạn vẫn chưa bao giờ hình dung một cách trọn vẹn.
... ...việc chia sẻ niềm tin là điều nên làm, nhưng phải được thực hiện một cách thích hợp và xuất phát từ lòng vị tha, chân thành muốn mang đến lợi lạc cho người khác. Nếu được như thế, bản thân chúng ta sẽ được lợi lạc nhờ nuôi dưỡng tâm từ bi mà cũng đồng thời làm lợi lạc cho người khác qua việc giúp họ sớm xác lập được một niềm tin chân chánh.
Khi chúng ta giảm bớt sự quan tâm đến bản thân mình và lưu tâm nhiều hơn đến những nhu cầu, mong muốn của người khác, ta sẽ tự nhiên thay đổi những cung cách ứng xử thông thường. Điều quan trọng ở đây không phải là bạn giúp ích được nhiều hay ít cho người khác, mà chính là ở sự thay đổi khuynh hướng ứng xử vốn có từ lâu nay. Từ một khuynh hướng vị kỷ, luôn quan tâm đến những gì có lợi cho chính bản thân mình, bạn sẽ thay đổi sang một khuynh hướng vị tha, chú trọng nhiều hơn đến những lợi lạc cho người khác. Và chính khuynh hướng vị tha là yếu tố quan trọng nhất sẽ làm thay đổi cuộc đời bạn, bởi nó sẽ làm cho tâm hồn bạn rộng mở hơn thay vì là ngày càng khép chặt. Một tâm hồn rộng mở là điều kiện tối cần thiết để cảm nhận mọi niềm vui đến từ cuộc sống, trong khi một tâm hồn khép kín luôn ươm mầm cho vô số những bất hạnh và khổ đau.
Tâm hồn rộng mở cũng chính là điều kiện để bạn nhận biết những nhu cầu của người khác. Với một tâm hồn khép kín, hẹp hòi, bạn thường sẽ phân vân rất nhiều về việc ai là người xứng đáng nhận sự chia sẻ của bạn, hoặc liệu bạn có nên hay không nên chia sẻ với ai đó... Sự phân vân này ngăn cản bạn chia sẻ với người khác vì luôn thấy họ không ở vào hoàn cảnh thực sự cần thiết, hoặc không có nhu cầu được chia sẻ... Bạn cảm thấy có sự bất công nếu phải chia sẻ những gì mình có với một ai đó mà theo bạn là không quá khó khăn, thiếu thốn...
Những rào cản này được sinh ra từ một tâm hồn khép chặt, nhưng rồi chính bản thân chúng lại có tác dụng làm khép chặt hơn nữa tâm hồn của bạn. Vì vậy, đây quả thật là một vòng xoáy luẩn quẩn rất khó vượt thoát ra.
Nhưng ngay khi bạn khởi lên ý nguyện vị tha thì những tia sáng đầu tiên sẽ bắt đầu soi chiếu vào bóng tối của một tâm hồn khép kín. Những cánh cửa sẽ dần được mở ra và ngày càng rộng mở hơn khi nhận thức của bạn dần thay đổi. Khi khuynh hướng vị tha dần dần thay cho khuynh hướng vị kỷ, bạn sẽ bắt đầu tiếp cận người khác với một cách nhìn hoàn toàn mới. Tâm hồn rộng mở giúp bạn đón nhận mọi nguồn thông tin từ thế giới bên ngoài một cách khách quan, đúng thật và không định kiến. Nhờ đó, bạn sẽ nhận ra một sự thật là bất cứ ai trong chúng ta cũng đều đang có những nhu cầu nhất định; hay nói khác đi là mỗi người quanh ta đều đang cần được ta chia sẻ một điều gì đó, có thể giúp họ được lợi lạc, tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Nhận biết được nhu cầu của người khác chính là bước khởi đầu của một sự chia sẻ đúng nghĩa, và chỉ có một tâm hồn rộng mở mới có thể giúp ta làm được điều đó.
Trong thực tế, tất cả chúng ta đều có nhu cầu chia sẻ và được chia sẻ, và thực ra thì cuộc sống này sẽ vô cùng tẻ nhạt, ảm đạm nếu không có sự sẻ chia cùng nhau giữa những con người. Tuy vậy, không phải ai trong chúng ta cũng đã và đang chọn nếp sống biết chia sẻ, và đó quả thật là một điều đáng buồn. Vì thế, ngay khi bạn quyết định chọn một cuộc sống chia sẻ với mọi người, đó sẽ là điều quan trọng nhất trong cuộc đời của bạn: bạn đang thay đổi để trở thành một người hạnh phúc hơn!
Chia sẻ tài vật
Các giá trị vật chất luôn nổi bật lên trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Khi tiếp xúc với một con người, điều ta dễ dàng nhìn thấy trước nhất là hình thức bên ngoài của người ấy, và điều đó thường cho thấy phần nào những giá trị vật chất mà họ đang sở hữu. Khi ta thật lòng muốn chia sẻ với người khác, vật chất cũng chính là những giá trị mà ta có thể dễ dàng chia sẻ nhất. Có thể lâu nay bạn vẫn quen nghĩ đến điều này qua các hình thức như ủng hộ những chương trình quyên góp từ thiện, vận động xây dựng các công trình công cộng, hay chí ít cũng là đóng góp cho các tổ chức thiện nguyện... Những điều đó là hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ, vì thật ra thì sự chia sẻ vật chất còn có thể và cần thiết phải được thực hiện trong một phạm vi rộng lớn hơn, phổ quát hơn. Bạn có thể thực hành nếp sống chia sẻ với tất cả mọi người mà bạn có cơ hội tiếp xúc, chứ không chỉ là với những người đang gặp bất hạnh, khó khăn... Tất nhiên, những đối tượng gần gũi trước tiên và thiết thực nhất sẽ là những người thân quanh ta như gia đình, bạn bè, cộng đồng thôn xóm...
Lần đầu tiên nghĩ đến điều này, có thể bạn sẽ thấy hơi xa lạ. Chẳng phải chỉ những người đang khốn khó mới cần đến sự chia sẻ tài vật hay sao? Chẳng phải chỉ những người đang gặp bất hạnh, tai họa mới cần đến sự quan tâm giúp đỡ của người khác hay sao? Những điều đó hẳn đã là lẽ tất nhiên. Nhưng đối tượng của sự chia sẻ không chỉ giới hạn trong số đó, mà thật ra còn là tất cả mọi người. Và chỉ khi bạn có khả năng hướng sự chia sẻ của mình đến với tất cả mọi người thì tâm hồn bạn mới thực sự rộng mở.
Trong bất kỳ mối quan hệ tiếp xúc nào, khi bạn biết lưu tâm đến mọi người quanh mình, bạn sẽ nhận ra vô số những cơ hội cần đến sự chia sẻ. Có những điều có thể là vô cùng nhỏ nhặt, nhưng khi có sự quan tâm thực hành, bạn sẽ nhận ra những giá trị mà chúng mang lại là không nhỏ.
Hãy bắt đầu từ một bữa ăn chẳng hạn. Thay vì ngồi vào bàn ăn và nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu của dạ dày rồi đứng dậy, bạn hãy thử dành một chút thời gian để quan tâm đến những người khác trong cùng mâm ăn. Khi ấy, có thể bạn sẽ nhận ra có một số món ăn thích hợp với người này nhưng không thích hợp với người khác, chẳng hạn như người già cần thức ăn mềm, trẻ con cần những thức ăn nhiều dinh dưỡng, một ai đó không ăn được các món cay, trong khi một người khác dường như rất thích các món béo v.v... Với sự quan tâm nhận biết đó, bạn có thể thực hiện chia sẻ theo cách rất đơn giản và dễ dàng, như nhường các món ăn thích hợp cho người khác, gắp thức ăn cho trẻ con và không dành quá nhiều các món ăn ngon cho phần mình... Bạn sẽ thấy một bữa ăn trôi qua theo cách đó không chỉ là một bữa ăn, mà sẽ trở thành một cơ hội để mọi người chia sẻ, quan tâm đến nhau. Điều nhỏ nhặt này có thể vẫn luôn được duy trì ở một số gia đình, nhưng đồng thời cũng đã bị lãng quên ở nhiều gia đình khác. Với sự quan tâm chia sẻ, chắc chắn bạn sẽ mang lại một không khí ấm áp, đầy tình cảm thắm thiết cho những bữa ăn trong gia đình hay ngay cả ở các phòng ăn tập thể, thay vì chỉ đơn giản là để nhét cho đầy dạ dày.
Sự chia sẻ, nhường nhịn cũng có thể dễ dàng được thực hành ở nơi làm việc, khi bạn có sự quan tâm đến những đồng nghiệp của mình. Mỗi người đều có một nhu cầu nào đó, nhưng bạn sẽ không thể nhận ra khi thiếu sự quan tâm. Khi quan tâm và nhận biết được nhu cầu của người khác, có thể chỉ một vài cử chỉ nhỏ nhặt đáp ứng đúng các nhu cầu đó cũng có thể làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của mọi người về nhau, và điều đó chắc chắn sẽ làm cho môi trường sống chung trở nên ấm áp, tốt đẹp hơn nhiều.
Cách ứng xử như trên cũng đúng trong mọi quan hệ xã hội. Khi bạn biết quan tâm và nhường nhịn, chia sẻ với người khác, những mối quan hệ xã hội sẽ không còn là đối đầu nữa mà trở thành những cơ hội tốt đẹp để bạn hiểu thêm về người khác, vun đắp thêm những tình cảm tốt đẹp vốn có hoặc xây dựng những quan hệ tình cảm mới.
Trở ngại lớn nhất của sự chia sẻ vẫn là lòng vị kỷ. Điều này xuất hiện ở mọi phạm trù của sự chia sẻ, nhưng mạnh mẽ và thường gặp nhất vẫn là khi bạn khởi tâm chia sẻ vật chất với người khác. Khi thực hiện các hành vi chia sẻ, bạn rất thường có khuynh hướng sẽ tự nêu lên câu hỏi: Bản thân tôi rồi sẽ được gì?
Việc trả lời câu hỏi này đưa chúng ta trở lại với sự phân biệt giữa hai khuynh hướng vị kỷ và vị tha như đã bàn ở phần trước. Sự thật là, khi chọn nếp sống chia sẻ vị tha, bạn sẽ được rất nhiều, mà cái được lớn nhất chính là một tâm hồn rộng mở, một cách nhìn hoàn toàn thay đổi về cuộc sống, và vô số những niềm vui sẽ tràn vào tâm hồn rộng mở của bạn để biến cuộc đời thành một chuỗi nối dài của những niềm vui.
Các giá trị vật chất là rất khó chia sẻ khi tâm hồn bạn khép kín bởi khuynh hướng vị kỷ. Tục ngữ dân gian có câu: “Đồng tiền gắn liền khúc ruột.” Đó là một quan niệm rất thông thường. Những người chưa nhận hiểu được ý nghĩa sâu xa của đời sống luôn nghĩ về tiền bạc vật chất như là kết quả của sự lao động khó nhọc, của những vất vả bon chen, nên không thể dễ dàng buông ra chia sẻ cho người khác. Khi bị thôi thúc bởi những giá trị luân lý, đạo đức hay dư luận xã hội và phải bất đắc dĩ chia sẻ tiền bạc với người khác, họ luôn đặt ra vô số những câu hỏi, luôn hoài nghi về kết quả việc chia sẻ của mình... Những người làm công việc vận động quyên góp từ thiện thường bộc bạch tâm sự rằng, họ phải gánh chịu rất nhiều sự nghi ngờ từ những người mà họ đến vận động. Người ta luôn có khuynh hướng ngờ vực thiện chí của họ, sợ rằng phía sau chiêu bài quyên góp từ thiện rất có thể là những mục tiêu ám muội, vụ lợi cá nhân... Chúng ta không thể phủ nhận một thực tế là những điều tồi tệ như thế cũng đã từng xảy ra không ít lần, khi những kẻ xấu mượn danh nghĩa việc làm cao quý vì người khác để rồi cuối cùng chỉ nhằm mục đích trục lợi cho bản thân. Tuy nhiên, nếu vì lý do đó mà ta đánh mất hoàn toàn niềm tin vào những con người chân thật, những tâm hồn cao quý, thì quả thật sự mất mát lớn nhất đang nằm về phía bản thân ta chứ không phải là người khác.
Chúng ta cần biết tỉnh táo và sáng suốt trước khi đặt niềm tin vào người khác, không thể mù quáng và nhẹ dạ cả tin để dễ dàng trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ tham lam và xấu xa lợi dụng. Nhưng đồng thời ta cũng phải biết rộng mở tâm hồn để cảm nhận được những nhịp đập từ trái tim cuộc sống, để có thể rung động đúng lúc trước những mảnh đời khó khăn cần chia sẻ, và để nhận biết rằng dù sao đi nữa thì trong cuộc sống này vẫn có rất nhiều những tâm hồn cao quý luôn tỏa sáng chứ không chỉ toàn là những mảng tối xấu xa, những con người ích kỷ.
Và như đã nói, thật ra thì sự chia sẻ tài vật còn có thể được thực hiện đúng nghĩa mà không cần thiết phải là sự đóng góp những khoản tiền lớn cho mục đích từ thiện. Tất nhiên, thỉnh thoảng bạn có thể làm điều đó, nhưng rất ít người trong chúng ta có đủ khả năng để làm như vậy thường xuyên. Thế nhưng, với mọi giao tiếp trong đời sống, bạn đều có thể thực hành sự chia sẻ. Một người bán gạo cân nhiều hơn khi bán cho một người nghèo đông con trong xóm; anh thợ cắt tóc chỉ lấy phân nửa tiền công với khách hàng là một cụ già; cô bán rau tặng không mấy bó rau khi người mua là một cháu thiếu niên nghèo phải đi chợ vì mẹ ốm nặng... Những hành vi như thế có thể là nhỏ nhặt, nhưng niềm vui chúng mang lại là không nhỏ, cho cả người chia sẻ và người nhận chia sẻ. Cho dù công việc của bạn là gì, bạn vẫn luôn có thể chia sẻ khi biết quan tâm đến những đối tượng mà bạn đang phục vụ mỗi ngày. Và chắc chắn bạn sẽ nhận ra ngay những cơ hội cũng như phương thức để chia sẻ trong hoàn cảnh cụ thể của mình.
Điều kỳ diệu rồi sẽ xảy ra khi bạn chọn nếp sống chia sẻ. Tiền bạc sẽ không “đội nón ra đi” mãi mãi như nhiều người vẫn tưởng. Ngược lại, bạn sẽ thấy công việc cũng như thu nhập của mình ngày càng được cải thiện hơn. Bạn không biết vì sao ư? Khi bạn quan tâm đến khách hàng và không chỉ giao tiếp đơn thuần trong quan hệ mua bán, phục vụ, mọi khách hàng đều sẽ nhanh chóng cảm nhận được điều đó. Những hành vi, cử chỉ sẵn lòng chia sẻ của bạn, dù nhỏ nhặt, đều sẽ được ghi nhận. Kết quả là bạn ngày càng có đông khách hàng hơn, quan hệ ngày càng dễ dàng thuận lợi hơn. Và hệ quả tất yếu là thu nhập của bạn sẽ tốt hơn.
Ngày nay, các siêu thị lớn thường xuyên mở các lớp đào tạo để nhân viên của họ luôn biết cách quan tâm thật tinh tế đến khách hàng. Mục đích của họ là để việc kinh doanh được tốt hơn, nhưng trong cách làm họ đã bắt đầu nhận ra được nguyên lý quan trọng của sự quan tâm chia sẻ. Một cô bán hàng vừa giao gói hàng cho bạn xong, trìu mến sửa giúp chiếc nón của đứa con bạn đang đội lệch, chắc chắn sẽ là một lý do thuyết phục để lần mua hàng sau bạn vui vẻ quay lại đúng cửa hàng đó. Quan hệ mua bán đơn thuần sẽ bị phá vỡ để đưa mọi người đến gần nhau hơn khi mỗi người đều biết quan tâm chia sẻ cùng người khác. Vì thế, tôi không muốn khuyên bạn sống chia sẻ như một phương thức để phát triển công việc kinh doanh hay dịch vụ, nhưng sự thật thì đó sẽ là một trong những kết quả có được từ nếp sống biết chia sẻ chân thành. Và thật ra thì bạn còn nhận được nhiều hơn thế nữa.
Hạn chế việc chi tiêu hoặc sử dụng tài nguyên quá mức cần thiết cũng là một cách để chia sẻ với cộng đồng. Giới truyền thông ngày nay liên tục quảng bá về việc tiết kiệm điện như một giải pháp thiết thực để bảo vệ môi trường, nhưng chúng ta rất buồn khi phải thừa nhận là còn rất nhiều người chưa hề quan tâm đến điều này. Việc sử dụng nước sạch cũng tương tự. Nhiều người không cho rằng cần phải tiết kiệm nguồn nước sạch tự nhiên. Điều đơn giản chỉ là vì những người ấy không thấy có khó khăn gì nhiều trong việc thanh toán hóa đơn tiền điện hay tiền nước. Nhưng thật ra vấn đề không nằm ở chỗ chúng ta có khả năng thanh toán hay không, mà là ở chỗ ta đang hoang phí những nguồn tài nguyên có giới hạn của toàn nhân loại, lẽ ra có thể dành để phụng sự cho nhiều người một cách lâu dài hơn.
Chúng ta thường có thói quen xem tất cả những gì do mình làm ra hoặc mua sắm được là của riêng ta, và ta có quyền sử dụng theo bất cứ cách nào tùy ý. Thực phẩm đã được mua và trả tiền xong, ta có quyền vất bỏ phần thừa thải sau khi ăn. Hóa đơn tiền nước luôn được trả đủ, ta có quyền sử dụng không hạn chế, dù có tăng thêm năm hoặc mười mét khối cũng chẳng là bao, không cần suy nghĩ. Tiền điện cũng sẽ không đáng là bao, ta thừa sức trả đủ, không cần thiết phải quan tâm đến việc tắt mở quá nhiều lần, cứ để đèn sáng liên tục khắp trong nhà ngoài sân, như vậy vẫn thoải mái hơn...
Cách suy nghĩ như vậy là không đúng, vì nếu tất cả mọi người trên hành tinh này đều quan niệm như thế và thẳng tay hoang phí mọi nguồn tài nguyên, thì chắc chắn là không bao lâu tai họa sẽ đến với toàn nhân loại. Không khí là tài nguyên có giới hạn và đang bị con người làm cho ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Nước sạch là tài nguyên có giới hạn và đang bị con người hoang phí khắp mọi nơi, cho dù một tương lai khan hiếm là không khó để nhận biết. Để tạo ra dòng điện, người ta đã tiêu tốn rất nhiều tài nguyên thiên nhiên. Tắt bớt một bóng điện khi không cần đến, sử dụng vừa đủ lượng nước cho nhu cầu thực sự của bạn, tính toán lượng thức ăn sao cho hạn chế sự thừa mứa... Tất cả những điều đó sẽ không làm cho cuộc sống của bạn khốn khổ hơn chút nào, nhưng nếu hàng tỷ người trên hành tinh này đều ý thức được như vậy, chúng ta sẽ tránh được những thảm họa sắp tới cho nhân loại vì sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chúng ta sẽ không phải ân hận vì đã để lại một di sản quá tồi tệ cho các thế hệ mai sau.
Khi ta hiểu được rằng trái đất là ngôi nhà chung và cộng đồng nhân loại luôn phải cùng nhau chia sẻ những gì hiện có trong ngôi nhà đó, chúng ta sẽ thấy rằng mọi sự hoang phí, tàn phá đều là đáng chê trách. Khi chúng ta chi tiêu hay sử dụng vượt quá nhu cầu cần thiết của bản thân, đó là ta đang xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của những người khác. Khi mọi thứ trong môi trường chung này là có giới hạn, thì bất kỳ sự lạm dụng nào cũng đều đang góp phần làm cạn kiệt nhanh chóng hơn nguồn tài nguyên giới hạn đó.
Và trong mỗi cộng đồng xã hội, mỗi thôn xóm hay gia đình cũng vậy. Khi ta biết khéo léo sử dụng thật vừa đủ những gì cần thiết cho cuộc sống, không lạm dụng, không hoang phí, đó là ta đang góp phần giúp cho những người thân quanh ta có được một cuộc sống dễ dàng hơn, tốt đẹp hơn. Và như vậy cũng chính là một nếp sống chia sẻ, chính là sự thực hành bố thí.
Tuy nhiên, nếu bạn vẫn nghĩ rằng cần phải có những sự đóng góp lớn lao hơn, cụ thể hơn, như giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật; ủng hộ các quỹ từ thiện, các chương trình phát triển cộng đồng... bằng những số tiền đáng kể mới có thể xem là thực hành bố thí, thì điều đó thật ra cũng không quá khó khăn như bạn tưởng. Bạn vẫn có thể làm được những chuyện “lớn lao” đó với thu nhập thường xuyên khiêm tốn của mình. Bạn thấy khó khăn ư? Tất nhiên, tôi sẽ không khuyên bạn trích ra một lúc nửa tháng lương hoặc nhiều hơn nữa để làm từ thiện. Điều đó sẽ không mang niềm vui đến cho gia đình bạn, mà e là ngược lại. Tuy nhiên, bí quyết ở đây là bạn có thể đơn giản thực hiện mục tiêu bố thí mỗi ngày với một số tiền rất nhỏ. Chỉ cần tương đương với một chút tiền bạn vẫn cho con bạn ăn quà vặt mỗi ngày chẳng hạn, nhưng tất cả sẽ được đều đặn cho vào một con heo đất dành riêng cho mục đích bố thí. Trong vòng một, hai hoặc thậm chí là nhiều tháng sau, vào một dịp nào đó thuận tiện cần đến, bạn sẽ sẵn có một khoản tiền thực sự khá lớn để thực hành bố thí mà không hề ảnh hưởng gì nhiều đến kinh tế gia đình.
Thật ra, không phải tôi đã nghĩ ra điều này. Tôi chỉ biết được qua thực tiễn từ người bạn là một doanh nhân rất thành đạt. Nhưng anh ấy cũng không tự làm việc này, anh đã khuyến khích hai đứa con mình làm như thế. Bên ngoài con heo đất mà anh nhờ tôi chuyển đến cho một chùa nuôi trẻ mồ côi, tôi thấy ghi rõ dòng chữ: phóng sinh và bố thí. Vì thế, tôi đã thật sự ngạc nhiên khi thấy hai cháu nhỏ đã có thể làm được một việc không nhỏ chút nào, nhờ vào phương pháp “tích lũy” này. Tôi tin là mỗi chúng ta đều có thể làm được như thế, nếu muốn.
Nhưng như đã nói trên, nếu bạn có thể rộng lòng chia sẻ mỗi ngày với tất cả những con người mà bạn tiếp xúc, thì chuyện “nuôi heo đất” như thế có thể là không còn cần thiết nữa.
Bạn cũng có thể mang những vật dụng mình không cần đến nữa để chia sẻ cho người khác, đó cũng là bố thí. Nếu gia đình bạn đã ở yên trong một ngôi nhà từ khoảng ba năm hay lâu hơn, tôi tin là chỉ cần dành ra một chút thời gian để xem kỹ lại, bạn sẽ thấy có rất nhiều thứ mà thật ra hiện nay bạn không dùng đến nữa, hoặc thậm chí là không thể sử dụng, nhưng chúng vẫn nghiễm nhiên chiếm chỗ trong nhà bạn. Đó có thể là những dụng cụ không cần dùng đến, những quần áo không còn mặc được vì quá chật, hoặc chỉ đơn giản là những món đồ đã được thay mới bằng loại tốt hơn, tiện dụng hơn... Mặc dù vậy, những thứ “vô dụng” đối với bạn lại rất hữu ích với nhiều người khác, khi họ đang có nhu cầu sử dụng chúng. Chỉ cần có sự quan tâm đúng mức, bạn sẽ có thể nhận ra được những ai đang cần đến các món đồ cũ của mình. Khi cho đi những thứ ấy, bạn thực sự không mất gì cả, thậm chí còn giúp cho căn nhà của bạn được gọn gàng ngăn nắp hơn. Thế nhưng, bằng cách đó bạn đã mang lại lợi lạc cho người khác, và như thế chính là bố thí.
Lòng tham lam ích kỷ rất nhiều khi khiến chúng ta hành xử hết sức vô lý. Chẳng hạn, với những thứ đã trở thành phế thải trong nhà như giấy báo cũ, vỏ chai, hộp nhựa v.v... thay vì phải tự mình mang đến hố rác để vất bỏ, thì khi có người đến tận nhà thu gom mang đi giúp ta, ta lại bắt họ phải trả tiền, cho dù chỉ là một khoản tiền không đáng vào đâu! Những người phải làm công việc vất vả đi mua gom phế liệu thường chẳng mấy ai khá giả, chúng ta nên cảm thông với hoàn cảnh của họ. Khi tôi bảo một người mua ve chai rằng bà ta không phải trả tiền và tôi phải cảm ơn bà, bà đã tròn mắt ngạc nhiên nhìn tôi vì nhiều người khác không làm như vậy. Thậm chí có những người còn kì kèo để bán được với một giá cao hơn! Những người ấy có thể bỏ ra hàng triệu đồng cúng chùa hoặc làm từ thiện để được ghi rõ họ tên, nhưng chỉ vì không hiểu đúng nghĩa hai chữ bố thí nên họ đã bỏ lỡ đi những cơ hội tốt đẹp để thực hành pháp tu này.
Dâng cúng cho các vị tu sĩ hoặc cúng tiền cho các tự viện, chùa chiền cũng là bố thí, nhưng đó là một hình thức bố thí đặc biệt, và do sự cung kính nên ta không gọi đó là bố thí, mà là cúng dường. Xét về ý nghĩa thì việc cúng dường mang lại lợi lạc cho người khác trên hai phương diện. Về mặt trực tiếp, nó tạo điều kiện cho các vị tu sĩ có thể duy trì sự tu tập theo Chánh pháp. Chính nhờ có sự cúng dường của thập phương tín thí mà quý vị tu sĩ mới có được điều kiện ăn ở thật an ổn, thuận tiện cho con đường tu tập. Về mặt gián tiếp, việc cúng dường mang lại lợi lạc cho rất nhiều người, vì nó giúp vào việc xây dựng tự viện, chùa chiền để mọi người có nơi lễ bái; giúp các vị tu sĩ có điều kiện tu tập và qua đó thực hiện được công việc giáo hóa, dắt dẫn nhiều người đi theo Chánh pháp. Do đó, có thể nói rằng việc cúng dường mang cả hai ý nghĩa tài thí và pháp thí.
Tuy nhiên, việc cúng dường có thực sự mang ý nghĩa pháp thí hay không cũng còn tùy thuộc vào sự phát tâm của người cúng dường. Về ý nghĩa tài thí thì quả thật đã quá rõ ràng, bởi chỉ cần chia sẻ với người khác một chén cơm, đó cũng đã là tài thí, huống chi là dâng cúng cho chùa chiền, tự viện... Nhưng về ý nghĩa pháp thí thì còn phải xét theo sự nhận hiểu của người cúng dường. Nếu người cúng dường nhận hiểu sâu xa về việc mình làm thì ý nghĩa pháp thí là rất lớn; nhưng nếu họ chỉ nhận hiểu một cách cạn cợt hoặc thậm chí là không hiểu hay hiểu sai, thì ý nghĩa pháp thí sẽ rất mờ nhạt hoặc thậm chí là hoàn toàn không có.
Một số người đến chùa dâng cúng để cầu nguyện cho mình được “mua may bán đắt, tai qua nạn khỏi, gia đạo bình an...” Với sự cầu nguyện đó khi cúng dường, trước hết là họ đã không xa lìa được tâm tham lam, và như thế đã rơi vào trường hợp “bất thanh tịnh thí”. Việc cúng dường của họ vì thế chỉ mang lại những lợi ích hoàn toàn giới hạn trong giá trị vật chất của số tiền họ hiến cúng. Tôi thường so sánh cách cúng dường như thế này với việc mang tiền gửi vào ngân hàng. Tiền không mất đi, nhưng đến một lúc nào đó bạn chỉ có thể nhận lại cũng số tiền ấy kèm theo một ít tiền lãi, thế thôi. Cách cúng dường này chắc chắn không thể nào mang lại “công đức vô lượng” như được mô tả trong Kinh điển, bởi nó bất quá chỉ là một loại tài thí, nhưng lại không thanh tịnh, vì không hề khởi tâm vị tha mà bị chi phối bởi tâm tham lam, vị kỷ. Do đó, trong trường hợp này thì hoàn toàn không có chút ý nghĩa nào của pháp thí.
Ngược lại, nếu người cúng dường nhận hiểu được sâu xa việc mình đang làm, phát khởi tâm nguyện vị tha, vì sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh mà cầu đạo giải thoát, quyết thành Chánh giác để giáo hóa chúng sanh, thì việc cúng dường đó sẽ có thể xem là bước khởi đầu cho hạnh nguyện vô biên của một vị Bồ Tát. Theo Kinh điển, công đức của việc cúng dường như thế sẽ là vô lượng, bất kể khoản tài vật cúng dường là lớn hay nhỏ, nhiều hay ít. Vì người cúng dường hướng tâm đến việc cầu đạo giải thoát và vì lợi lạc cho tất cả chúng sanh, nên ý nghĩa pháp thí ở đây là quá rõ ràng. Và như đã nói, sự phát tâm như thế chắc chắn sẽ không dừng lại ở việc cúng dường này, mà sẽ tiếp tục dẫn dắt người ấy đi theo con đường tu tập Chánh pháp, tiếp tục làm lợi lạc cho vô số người khác. Chính vì thế mà Kinh điển dạy rằng người cúng dường được như thế sẽ có công đức vô lượng.
Lấy theo hai trường hợp điển hình như trên mà xét, thì việc cúng dường có thể rơi vào bất kỳ khoảng nào ở giữa hai trường hợp đó. Khi sự nhận hiểu về ý nghĩa cúng dường càng sâu xa, sự phát tâm càng mãnh liệt trong ý hướng vị tha, thì ý nghĩa pháp thí càng rõ rệt và công đức cúng dường càng lớn lao. Ngược lại, khi người cúng dường không hiểu hoặc hiểu sai, hiểu một cách mơ hồ về ý nghĩa cúng dường, buông thả theo sự chi phối của lòng tham lam, vị kỷ, thì ý nghĩa pháp thí sẽ trở nên mờ nhạt hoặc mất hẳn, và kết quả của sự cúng dường đó chẳng qua cũng chỉ nằm trong phạm trù các giá trị vật chất mà thôi.
Vì thế, mỗi chúng ta trước khi phát tâm cúng dường lên chư vị tăng ni, chùa chiền, tự viện... cần biết tự vấn mình xem đã có đủ sự hiểu biết cần thiết về ý nghĩa của việc cúng dường hay chưa, đã có thể phát khởi tâm nguyện vị tha, vì sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh hay chưa? Có như vậy thì việc cúng dường của chúng ta mới thực sự mang lại kết quả tốt đẹp và đúng nghĩa.
Chia sẻ tri thức
Đối với khá nhiều người, việc chia sẻ tri thức dường như rất ít khi được xem là có liên quan đến khái niệm bố thí. Thế nhưng, như đã nói rõ trong phần trước, chia sẻ tri thức là một trong các loại bố thí theo cách hiểu trong đạo Phật, và đó chính là hình thức pháp thí.
Với một số người khác, tuy cũng biết đến hình thức pháp thí, nhưng lại thường có khuynh hướng cho rằng chỉ những bài thuyết giảng Giáo pháp, Kinh điển... mới được xem là pháp thí. Thật ra, việc thuyết giảng Giáo pháp, Kinh điển được gọi là xuất thế pháp thí, nhưng pháp thí cũng đồng thời bao gồm cả việc chia sẻ mọi phạm trù tri thức khác, và việc chia sẻ những tri thức thuộc phạm vi thế tục được gọi là thế gian pháp thí, cũng là một hình thức bố thí.
Phần lớn chúng ta thường cho rằng mình không có khả năng để thực hành xuất thế pháp thí, bởi không có đủ sự am hiểu Giáo pháp, Kinh điển đến mức đủ để có thể giảng dạy cho người khác. Tuy nhiên, cách hiểu này chưa thực sự đúng, vì ngoài việc giảng giải, thuyết dạy, ta vẫn có thể thực hành xuất thế pháp thí theo nhiều cách khác nữa. Những việc làm như sao chép, in ấn, lưu hành Kinh điển, tạo điều kiện cho người khác được tiếp cận, học hỏi Kinh điển cũng chính là xuất thế pháp thí, vì chúng gieo xuống những hạt giống Bồ-đề, giúp cho nhiều người có thể nhờ đó mà sẽ đạt được sự giải thoát.
Chủ đề pháp thí sẽ bàn đến nhiều hơn trong một phần sau. Ở đây, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu về việc chia sẻ tri thức như một trong các hình thức bố thí, tức là thế gian pháp thí.
Tri thức là một loại giá trị đặc thù mà khi mang ra chia sẻ chúng ta không hề bị mất đi như các giá trị vật chất. Khi chia sẻ các giá trị vật chất như thức ăn, quần áo, tiền bạc... với người khác, chúng ta chấp nhận cho đi phần giá trị vật chất ấy để làm lợi lạc cho người khác. Nhưng với các giá trị tri thức thì hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta có thể chia sẻ nhiều giá trị tri thức với người khác để giúp họ được lợi lạc, nhưng bản thân ta không mất đi gì cả. Ngược lại, chính trong quá trình truyền thụ tri thức cho người khác, chúng ta lại càng củng cố một cách vững chắc hơn nữa những kiến thức đã có.
Mặt khác, những lợi lạc mà tri thức có thể mang lại cho người khác là vô giá. Trong khi những giá trị vật chất như tiền bạc, thức ăn... có thể đo lường được số lượng và mang lại những lợi ích có giới hạn tùy theo số lượng nhiều hay ít của chúng, thì những giá trị tri thức lại không có sự hạn chế như vậy. Chẳng hạn, khi bạn dạy cho một người các công thức nấu ăn, và nhờ đó anh ta kiếm được việc làm nấu bếp cho một nhà hàng nào đó chẳng hạn, thì những tri thức do bạn chia sẻ đó sẽ tiếp tục mang lại lợi lạc cho anh ta một cách lâu dài không hạn chế... Những tri thức thuộc lãnh vực kinh nghiệm sống cũng vậy, đôi khi có thể giúp thay đổi cả một đời người theo hướng tốt đẹp hơn. Đó là điều mà các giá trị vật chất rất khó làm được.
Mỗi tri thức mà ta đã tích lũy được trong cuộc sống khi mang ra chia sẻ đúng lúc đều có thể làm lợi ích cho người khác. Một vài vị thuốc thảo dược đơn giản nhưng khi được chỉ dẫn đúng lúc có thể trị dứt một căn bệnh. Người chia sẻ bài thuốc ấy không mất mát gì, nhưng người nhận chia sẻ thì được lợi lạc vì trị dứt được bệnh tật cho người thân... Một kinh nghiệm mà ta phải mất nhiều năm mới có được, nếu hoan hỷ mang ra chia sẻ với đồng nghiệp sẽ có thể giúp người ấy không phải mất nhiều thời gian để tìm tòi, thử nghiệm như bản thân ta trước đây. Mỗi một lãnh vực đa dạng trong đời sống mà ta đã từng trải qua chắc chắn đều đã tích lũy cho ta ít nhiều những hiểu biết, kinh nghiệm. Những điều ấy sẽ có giá trị vô cùng lớn lao đối với những người đi sau ta trên cùng một con đường, hoặc thậm chí còn có thể giúp ích cho nhiều lãnh vực liên quan khác. Nhưng khi sẵn lòng mang ra chia sẻ những thứ ấy, bản thân ta cũng không mất đi điều gì cả.
Hẳn có người sẽ viện dẫn một số điều mà họ thấy là bất lợi khi chia sẻ tri thức cùng người khác. Họ có thể cho rằng, trong môi trường sống cạnh tranh lẫn nhau, khi người khác có được những tri thức mà ta đang nắm giữ, họ sẽ giành lấy nhiều nguồn lợi mà lẽ ra phải thuộc về ta. Nói cách khác, bạn sẽ phải cạnh tranh với chính những người mà bạn đã chia sẻ tri thức. Nhưng điều đó chỉ đúng trong một số trường hợp giới hạn, với những tri thức hiện đang là nguồn sống của người sở hữu nó chẳng hạn...
Như đã nói,
tri thức là một
giá trị. Và do đó, quyền
sở hữu tri thức, hay
sở hữu trí tuệ được
cộng đồng xã hội thừa nhận và
bảo vệ. Khi một
tri thức nào đó là phát minh hay
thành tựu có được từ quá trình
nỗ lực học hỏi,
nghiên cứu của riêng bạn, không ai có quyền
sử dụng nó mà không được sự
cho phép của bạn.
Luật pháp bảo vệ điều này và có những
quy định thích hợp để
thực hiện sự
bảo vệ đó. Tất nhiên, với những
tri thức loại này, bạn
hoàn toàn giữ quyền
quyết định việc có chia sẻ với người khác hay không, và nếu có thì nên chia sẻ theo cách nào. Với những người làm việc trong
lãnh vực nghiên cứu và
sáng tạo, đôi khi quyền
sở hữu trí tuệ là điều
duy nhất mà họ có được từ
thành quả lao động trí óc của mình. Những ai
sử dụng các
thành quả trí tuệ đó tất nhiên có nghĩa vụ phải chi trả bằng những khoản tiền tương xứng. Có như
vậy thì những công việc
nghiên cứu sáng tạo mới có thể được
duy trì để
tiếp tục phụng sự xã hội.
Trong nền
văn minh phương Đông
ngày xưa không thấy đặt ra
vấn đề bảo vệ tác quyền. Những
kiến thức chuyên môn như
kinh nghiệm độc đáo hay sáng chế
cá nhân được người ta giữ bản quyền cũng
như tự bảo vệ bằng cách giấu kín và chỉ truyền dạy cho một số ít người nào đó, thường là trong
gia tộc hoặc
môn phái của mình. Từ đó ta thấy phát sinh những
hiện tượng gia truyền,
bí truyền... Điều này đã gây ra nhiều
tổn thất lớn lao cho
cộng đồng xã hội, vì những
kiến thức loại này thường rất quý giá, có thể là
kinh nghiệm tích lũy nhiều đời của những bộ óc
kiệt xuất, tài ba, nhưng
cuối cùng lại rất dễ dàng rơi vào
tình trạng thất truyền, mất hẳn đi chỉ vì có
một thế hệ nào đó không
hoàn thành được việc trao truyền cho
thế hệ truyền nhân
kế tiếp. Ngày nay,
chúng ta không chọn cách giấu kín
tri thức như thế nữa, mà thay
vì vậy những
tri thức loại này sẽ được
truyền bá một cách có
điều kiện. Những người
sử dụng tri thức phải trả
tác quyền cho người
sở hữu tri thức, sáng chế... Bằng cách đó,
tri thức vẫn được
lưu hành rộng rãi mà người
sở hữu hay sáng chế nó vẫn không bị
thiệt thòi.
Tuy nhiên, nhìn chung thì không phải tất cả những
tri thức bạn có đều thuộc loại cần được
bảo vệ. Trong
thực tế, có rất nhiều
tri thức chúng ta có được chính là nhờ sự chia sẻ
miễn phí từ người khác. Một số khác có thể là
kinh nghiệm của riêng ta, hoặc là kết quả của quá trình
nghiên cứu,
học hỏi dài lâu, nhưng việc chia sẻ với người khác chưa hẳn đã mang lại điều gì
bất lợi cho ta. Trong
trường hợp đó,
chúng ta không có lý do gì khác cho việc không chia sẻ những
tri thức ấy để
mang đến sự
lợi lạc cho người khác, trừ
lý do duy nhất là lòng
ích kỷ. Thậm chí, nếu
quả thật có phải chịu
thiệt thòi phần nào về mình, nhưng xét thấy sự
lợi lạc mang đến cho người khác là lớn hơn, ta
vẫn có thể chọn
con đường chia sẻ hơn là khép kín.
Bản thân người viết đã chọn chia sẻ những
tác phẩm của mình
hoàn toàn miễn phí với tất cả
mọi người qua nhiều
hình thức, cho dù việc phát hành bản in các
tác phẩm đó là
yếu tố quyết định phần
lợi nhuận mà
tác giả được hưởng.
Kho
tri thức của mỗi người
chúng ta đều đa dạng và
vô tận. Mỗi một giây phút còn
tồn tại trong đời sống,
chúng ta không ngừng
tiếp nhận thêm những
hiểu biết, những
kinh nghiệm mới.
Tuy nhiên, trong
thực tế thì phần lớn nguồn
tri thức căn bản của
chúng ta là nhận được từ sự chia sẻ của người khác. Những
kiến thức khoa học, những
hiểu biết thường thức, hầu hết không do ta tự
tìm ra, mà là
thừa hưởng từ
sự tích lũy trao truyền của nhiều
thế hệ đi trước. Không có những nguồn chia sẻ
tri thức đó,
chúng ta không thể được tận hưởng
nếp sống văn minh của
con người hiện đại. Hơn thế nữa, từ những phương thức ứng xử
trong đời sống
cho đến rất nhiều những
hiểu biết thiết thực hằng ngày,
chúng ta đều được
học hỏi “miễn phí” theo một cách nào đó từ người khác. Vì thế, nếu
xem xét vấn đề một cách “sòng phẳng” thì ta cũng có bổn phận phải đền đáp bằng cách chia sẻ
tri thức với người khác, với
cộng đồng quanh ta.
Chia sẻ
tri thức là điều rất
đơn giản nhưng ít người sẵn lòng
thực hiện. Nhiều người thấy khó chịu khi phải dành
thời gian để chỉ bày hay
truyền đạt điều này điều nọ cho người khác, nhất là khi
việc làm đó chẳng mang lại cho họ chút
lợi ích vật chất nào ngay
trước mắt.
Tuy nhiên, nếu bạn thử chọn
con đường hoan hỷ chia sẻ những gì mình biết với người khác, không bao lâu bạn sẽ thấy
đời sống của mình thực sự thay đổi. Mọi quan hệ giữa bạn với người khác sẽ
trở nên cởi mở và
thân thiện hơn. Và điều này
chắc chắn sẽ giúp bạn dễ dàng
học hỏi được rất nhiều từ người khác.
Cuối cùng, bạn sẽ sớm
nhận ra một mối tương quan tất yếu: sự chia sẻ
tri thức cũng chính là
điều kiện để
chúng ta có thể nhận được
tri thức từ người khác.
Hơn nữa, khi
nhận biết rằng
tri thức cũng là một
giá trị để ta
sử dụng trong việc
thực hành bố thí, ta sẽ không còn thấy việc dành
thời gian để chia sẻ
tri thức với người khác là
vô bổ, vì ta biết rằng điều đó đang mang lại
lợi lạc cho người được chia sẻ cũng như chính
bản thân ta. Thật ra, một trong những
giá trị thực sự của
đời sống chính là có được quan hệ giao tiếp
tốt đẹp với
mọi người quanh ta, và
thực hành bố thí bằng cách chia sẻ
tri thức giúp ta dễ dàng
đạt được điều đó.
Chia sẻ
thời gianThời gian là một
giá trị vô cùng đặc biệt trong đời sống. Tự thân nó dường như rất khó có thể được xác định
giá trị một cách cụ thể, nhưng
nếu không có
thời gian thì hầu như tất cả các
giá trị khác đều
trở thành vô nghĩa. Vì thế,
giá trị của
thời gian chính là
giá trị nền tảng để ta có thể
sử dụng được bất kỳ
giá trị nào khác.
Và với sự quý giá như thế, việc chia sẻ
thời gian của mỗi
chúng ta với người khác tất nhiên sẽ là điều rất khó khăn. Có người cho rằng,
thời gian ngày nay có
giá trị gấp nhiều lần so với những thập niên trước đây, bởi hiện nay tất cả
chúng ta đang phải
vận hành với tốc độ của những máy vi tính
cá nhân, của những đường truyền tải dữ liệu siêu tốc do
con người tạo ra, thay vì là với tốc độ thông thường của những
con người bằng xương bằng thịt. Điều đó làm cho quỹ
thời gian của
chúng ta trở nên ngày càng khan hiếm.
Ngày nay
con người làm ra được rất nhiều thứ với một tốc độ
chóng mặt, nhưng khi nhìn lại sự phân bổ
thời gian trong một ngày của
bản thân mỗi người,
chúng ta thường không khỏi giật mình vì dường như ta có quá ít
thời gian để dành cho chính mình và người thân trong
gia đình. Thật ra, nếu
chúng ta không sớm
nhận ra và thay đổi, điều này có thể sẽ
trở thành một
vấn nạn trong đời sống
tinh thần.
Người ta thường kể cho nhau nghe một
giai thoại về Bill Gates, ông chủ của Microsoft, rằng nếu khi đang đi mà đánh rơi tờ 100 đô-la thì ông ta sẽ không dừng lại để cúi xuống nhặt lên, vì như vậy sẽ mất đi một quãng
thời gian mà ông có thể làm ra nhiều hơn 100 đô-la!
Tôi không
hoài nghi khả năng đó ở một
con người tài ba và
thành đạt như Bill Gates, nhưng tôi không nghĩ rằng tất cả
thời gian của ông đều phải hoán đổi thành tiền theo cách đó. Lấy ví dụ, cứ cho là ông ta sẽ mất khoảng 5 giây để dừng lại và cúi xuống nhặt tờ giấy bạc vừa đánh rơi, và sau khi làm phép toán
so sánh như trên thì ông không cần nhặt nó để khỏi mất quãng
thời gian 5 giây. Như vậy, có thể biết rằng trong một phút ông ta có thể làm ra nhiều hơn con số 60/5 = 12 lần x 100 đô-la, tức là 1.200 đô-la. Mặc dù vậy, nếu ông ta đưa vợ đi ăn tối
trong khoảng 1 giờ, tôi không tin là ông sẽ
suy tính đến khoản tiền 1.200 đô-la x 60 phút = 72.000 đô-la bị mất đi, hoặc chí ít cũng không nghĩ rằng vợ ông phải
thừa nhận ông đang dành cho bà một
giá trị khoảng 72.000 đô-la!
Vì thế, cho dù
tục ngữ có câu: “Thì giờ là vàng bạc”,
chúng ta cũng không thể
hình dung được rằng tất cả
thời gian của mình đều có thể
hoán chuyển thành tiền bạc. Trong
thực tế, để
thời gian có thể
biến thành tiền bạc hay
giá trị vật chất,
chúng ta cần đến hàng loạt các
giá trị khác phải được
sử dụng đồng thời trên nền tảng của quãng
thời gian đó. Như thế,
thời gian tự nó không
biến thành tiền bạc, mà điều đó chỉ xảy ra khi
chúng ta kết hợp sử dụng được
năng lực làm việc,
cảm hứng làm việc, các
điều kiện làm việc... cũng như nhiều
yếu tố hỗ trợ khác nữa. Chính vì thế mà điều tất yếu là
chúng ta không thể
sử dụng tất cả
thời gian của mình để làm ra tiền bạc nói riêng, hay các
giá trị vật chất nói chung.
Chúng ta còn cần đến
thời gian để
nuôi dưỡng năng lực làm việc, để tạo
cảm hứng,
điều kiện... cho công việc của mình. Và vượt trên tất cả những điều đó,
chúng ta cần
thời gian để thực sự được sống, bởi mọi
giá trị vật chất được làm ra suy cho cùng cũng chỉ là để
phục vụ đời sống, nếu ta cứ
mải miết chạy theo việc tạo ra các
giá trị vật chất mà không có được những phút giây thực sự để cảm nhận
đời sống này thì điều đó sẽ
vô nghĩa biết bao!
Trong
ý nghĩa đó,
chúng ta rất
cần phải xét đến việc dành
thời gian chia sẻ với người khác. Chia sẻ
thời gian không giống với việc chia sẻ các
giá trị vật chất hay
tri thức, vì nó vừa có thể
bao gồm các
giá trị đó, vừa mang những
tính chất đặc thù khác nữa. Khi bạn chia sẻ
tri thức với người khác trực tiếp hoặc
gián tiếp, điều tất nhiên là bạn vẫn đang dành một phần
thời gian cho người được chia sẻ.
Tuy nhiên, điều mà bạn đang nhắm đến vẫn là chia sẻ
tri thức. Khi bạn hướng đến việc chia sẻ
thời gian, bạn không
nhất thiết phải có hoặc không có kèm theo các
giá trị khác. Việc dành
thời gian để chia sẻ với người khác tự nó đã là một
giá trị. Khi một người thân cần đến và bạn có mặt bên cạnh, tự thân điều đó đã là một
giá trị. Bạn không kèm theo và người đó cũng có
thể không cần đến bất kỳ
giá trị nào khác ngoài sự có mặt bên cạnh của bạn. Cũng vậy, khi bạn đến với một ai đó trong
ý nghĩa chia sẻ
thời gian, bạn có thể làm bất cứ điều gì có thể được vì người ấy, nhưng cũng có thể là không
cần phải làm gì cả, mà chỉ là một sự có mặt
đơn thuần để chia sẻ cùng nhau những
cảm xúc nhất định, những khoảnh khắc
trong đời sống.
Những người
trước tiên mà bạn
cần thiết phải chia sẻ
thời gian chính là những người thân quanh bạn. Nếu bạn nghĩ rằng
trách nhiệm của một người cha tốt hay một người chồng
lý tưởng chỉ là lo
chống đỡ kinh
tế gia đình, có lẽ bạn
cần phải xem xét lại. Điều đó tất nhiên cũng không sai, nhưng có lẽ là chưa đủ. Bạn nên biết, những gì mà người thân của bạn cần đến không chỉ là những
giá trị vật chất để
đảm bảo một cuộc sống
gia đình sung túc, mà còn là bầu không khí ấm áp thực sự dưới một mái
gia đình, khi
mọi người có đủ cơ hội để chia sẻ
cảm xúc và
quan tâm đến nhau. Và xét từ góc độ này thì việc chia sẻ
thời gian là điều tối
cần thiết mà không gì khác có thể thay thế được. Nếu nhìn lại quỹ
thời gian trong ngày và không thấy có
thời gian nào dành riêng cho
gia đình, có lẽ bạn
cần phải suy nghĩ về điều đó.
Rất có thể một số người sẽ đặt câu hỏi, khi tôi dành
thời gian cho chính
gia đình tôi thì điều đó làm sao có thể mang
ý nghĩa vị tha,
bố thí như đang bàn ở đây?
Sự thật là có đấy. Khi bạn
sinh khởi tâm
vị tha hướng về sự
lợi lạc cho người khác,
hoàn toàn không có lý do gì để bạn phải loại trừ những “người khác” ở ngay bên cạnh bạn, trong
gia đình bạn. Trong
thực tế, nếu bạn còn chưa ứng xử
vị tha được với chính
gia đình mình thì bạn rất khó lòng có thể thực sự
mở lòng vị tha đến với những người khác. Vì thế, cách
thực hành vị tha tốt nhất vẫn phải là khởi đầu từ chính những người thân quanh bạn, trước khi phát triển
dần dần đến với
mọi người khác.
Khi đã tạo được một không khí
gia đình hạnh phúc, bạn mới có thể tiến đến sự hài hòa chia sẻ với những người khác trong
cộng đồng thôn xóm, rồi rộng ra đến với tất cả
mọi người. Nền tảng của quá trình phát triển
tốt đẹp này chính là việc biết dành
thời gian để chia sẻ,
cảm thông cùng người khác. Và khi chia sẻ
thời gian với người khác để giúp cho cuộc sống ngày càng
tốt đẹp hơn, đó chính là bạn đang
thực hành bố thí.
Chia sẻ
yêu thươngMỗi
chúng ta ai cũng đã có
ít nhất hơn
một lần cảm nhận những
cảm xúc ngọt ngào ấm áp khi được ai đó dành cho ta sự
thương yêu. Đó có thể là một
lời nói thương yêu, một
cử chỉ đằm thắm biểu lộ tình cảm
sâu xa, hay một sự
vuốt ve trìu mến từ khi ta còn
thơ ấu... Những
cảm xúc ngọt ngào khi được
thương yêu luôn để lại nhiều
ấn tượng tốt đẹp và sâu đậm trong lòng ta. Có những
ấn tượng thuộc loại này thậm chí có thể theo ta
trong suốt cả
cuộc đời.
Điều
nghịch lý đối với phần lớn
chúng ta là, cho dù ta cảm nhận dễ dàng những
tác động tích cực của
tình thương mà người khác dành cho ta, nhưng
bản thân ta lại thường rất
hạn chế việc dành
tình thương cho người khác.
Chúng ta thường tiếp cận người khác với ít nhiều sự
hoài nghi hơn là cởi mở; với sự phê phán, chê bai và
chỉ trích hơn là
cảm thông,
thân thiện và gần gũi. Những điều đó
trở thành rào cản của sự
thương yêu, và khiến cho ta luôn phải
tìm kiếm một
lý do nào đó để
mở lòng chia sẻ
yêu thương cùng người khác.
Thật ra, về
bản chất thì
tình thương không
cần phải viện đến
lý do. Khi nhìn thấy một em bé kháu khỉnh, cảm nhận chung của hầu hết
chúng ta là “em bé thật dễ thương”, nhưng
chúng ta không cần đến sự
giải thích vì sao nó “dễ thương”. Những
cảm xúc tự nhiên như thế thuộc về
bản năng của mỗi
chúng ta, và nó
sinh khởi rất
tự nhiên. Cũng giống như khi ta nhìn thấy một ai đó rơi vào
hoàn cảnh đau thương bi đát thì trong ta
tự nhiên khởi sinh lòng thương cảm, muốn sẻ chia giúp đỡ... Điều đó hầu như sẵn có ở tất cả
chúng ta, và nếu như nó thật sự đã mất đi ở một người, ta sẽ bảo đó là một
con người vô cảm.
Nhưng trong
thực tế thì cuộc sống với nhiều
va chạm và lăn trải dường như đã làm cho mỗi
chúng ta cũng
dần dần trở nên vô cảm ở một
chừng mực nào đó mà chính ta đôi khi không thể tự
nhận biết. Điều này khiến cho
chúng ta gần như luôn bị ngăn trở mỗi khi
sinh khởi lòng
yêu thương hướng về ai đó
theo bản năng tự nhiên. Khuynh hướng “vô cảm” cũng như sự ngăn trở này thật ra có
nguyên nhân sâu xa từ lòng
vị kỷ mà
chúng ta đang âm thầm
nuôi dưỡng. Do
tâm lý vị kỷ,
chúng ta luôn có
cảm giác hoài nghi về người khác, luôn nghĩ rằng họ rất có thể đang có ý đồ
lấy đi một cái gì đó của ta... Điều nguy hiểm hơn nữa là, trong lòng ta vẫn luôn âm thầm xem
tâm lý hoài nghi đó như một kiểu cơ chế “tự vệ”
cần thiết để giúp ta
phòng ngừa trước những “mưu đồ hãm hại” nếu có của người khác.
Các nhà khoa học hiện nay cũng đã
nhận biết được
tâm lý ẩn tàng này và có khuynh hướng
giải thích về nó như là hệ quả từ
hoạt động của phần não bộ được gọi tên là cuống não (brain stem) hay não bò sát, vốn là một trong 3 phần cấu thành
toàn bộ não của
con người,
bao gồm cuống não (brain stem), viền não (limbic system) và vỏ não mới (neocortex).
Trong quá trình hình thành và phát triển não bộ
con người, phần cuống não (brain stem) là phần có nguồn gốc cổ xưa nhất, đã
xuất hiện sớm nhất. Trong
thực tế, loài bò sát hiện nay vẫn còn giữ nguyên cấu trúc não bộ gần giống như phần cuống não của
con người, vì thế mà phần cuống não này cũng thường được gọi là phần não bò sát. Đặc trưng của các
hoạt động cuống não là điều khiển những
phản ứng tức thời hoàn toàn theo bản năng, không có sự
tham gia của tiến trình
suy luận hay
đối chiếu kinh nghiệm. Các
hoạt động này là
bản năng tối
cần thiết cho sự
sinh tồn của
động vật, khi
cần phải phản ứng tức thời trước bất kỳ mối nguy hiểm
đe dọa nào từ môi trường sống. Hệ quả là nếu một loài
động vật chỉ
đơn thuần hoạt động theo kiểu này - như loài bò sát - thì chúng
hoàn toàn không có khả năng
thân thiện hay
hòa giải. Trong “lập trình” của loại não bộ này chỉ có
đơn thuần một kiểu
phản ứng chọn lựa
tức thời giữa “bỏ chạy” (khi thấy mình
yếu kém) hoặc “tấn công” (khi thấy mình đủ mạnh).
Thuật ngữ tiếng Anh gọi kiểu
phản ứng này là fight-or-flight (
chống lại hay bỏ chạy).
Chúng ta có thể thấy ngay kiểu
hoạt động “sơ khai” này của phần não bò sát không thể là mảnh đất màu mỡ cho
tình thương phát triển.
Nhưng
bản năng sinh tồn là
hết sức mạnh mẽ. Vì thế, tuy với các phần não bộ phát triển về sau,
đặc biệt là lớp vỏ não mới (neocortex),
con người đã
trở thành một sinh vật bậc cao với những phát triển tâm
sinh lý vô cùng phức tạp và
tinh tế, có khả năng
nuôi dưỡng lòng
thương yêu hướng về người khác, nhưng kiểu
bản năng fight-or-flight của thời cổ xưa dường như vẫn chưa
hoàn toàn mất hẳn. Nó vẫn âm thầm
tác động và làm cho
chúng ta luôn có khuynh hướng
ngờ vực khi tiếp cận bất kỳ đối tượng mới nào, như một cách mà ta cho là
cần thiết để tự
bảo vệ.
Và chính cái
tâm lý “tự vệ” này là một rào cản rất
kiên cố, nó ngăn trở mỗi khi ta muốn
mở lòng chia sẻ
yêu thương cùng ai đó. Thay vì khởi đầu một quan hệ mới với sự
cảm thông và
thân thiện,
tâm lý “tự vệ” này
thôi thúc ta phải luôn dè dặt,
hoài nghi đối với bất kỳ
con người nào mà ta chưa thực sự biết rõ. Ta có
cảm giác rằng cung cách ứng xử như vậy là
an toàn hơn, ít
rủi ro hơn, và do đó có thể
bảo vệ ta trước những mối nguy hiểm nào đó có thể có trong giao tiếp.
Tuy nhiên, khi ta chọn cách ứng xử “an toàn” như thế thì ta cũng
đồng thời đánh mất đi nhiều cơ hội quý giá để
cảm thông với người khác. Điều đó khiến cho
tâm hồn ta trở nên khép chặt thay vì là rộng mở, và sự “an toàn” mà ta cảm nhận đó thật ra chỉ là một sự né tránh
thực tại, nên nó luôn mang lại cho ta
cảm giác yếu đuối và sợ sệt thay vì là
an ổn và
vững chãi. Mặt khác, nó cũng thường tạo ra những
định kiến không tốt về người khác, khiến ta không thể
nhận biết những phẩm chất
tốt đẹp thật có nơi họ.
Những khuynh hướng
tâm lý như vừa nói trên là
hoàn toàn có thể
vượt qua bằng sự phân tích của
lý trí cũng như sự
tu dưỡng của
tâm hồn. Với những trải nghiệm
thực tiễn trong cuộc sống,
chúng ta sẽ
dần dần nhận ra rằng sự
hoài nghi và khép kín
hoàn toàn không phải là phương thức để giúp ta được
an ổn. Ngược lại, chính sự
cảm thông và hòa nhập với mọi thành viên khác trong
cộng đồng mới chính là cách tốt nhất để ta được
an toàn và
hạnh phúc.
Khi thay đổi khuynh hướng
nhận thức về người khác và bắt đầu
nuôi dưỡng lòng
thương yêu, ta sẽ thấy cuộc sống nói chung và những quan hệ với người khác nói riêng đều
dần dần rộng mở. Và
hiệu quả tương tác nảy sinh sẽ giúp ta nhận được ngày càng nhiều hơn sự
cảm thông, chia sẻ và
thương yêu từ người khác. Một khởi đầu như thế bao giờ cũng làm cho cuộc sống của
chúng ta bắt đầu có những thay đổi,
chuyển biến tích cực hơn.
Chúng ta chỉ có thể chia sẻ
yêu thương cùng người khác khi tự thân ta đã
nuôi dưỡng được lòng
thương yêu rộng lớn và vô
điều kiện. Đây chính là
lý do vì sao khi
thực hành bố thí đức Phật đã dạy rằng phải khởi đầu với
tâm từ bi.
Chúng ta luôn có được những
lợi lạc vô biên khi
nuôi dưỡng lòng từ bi, biết
thương yêu mọi người. Khi ta mang sự
yêu thương đó chia sẻ cùng
mọi người, đó chính là
thực hành bố thí, vì ta đang
mang đến cho họ những
lợi lạc vô biên như chính ta được hưởng, và điều đó thì không một
giá trị vật chất nào có thể thay thế được.
Chia sẻ
yêu thương là
phát khởi lòng
thương yêu bình đẳng hướng đến tất cả, nhưng điều đó không có nghĩa là ta sẽ ứng xử
giống hệt như nhau đối với tất cả
mọi người. Bởi vì sự
bình đẳng không có nghĩa là
xóa bỏ đi mọi khác biệt thật có giữa những
cá nhân. Ngược lại, với lòng
thương yêu bình đẳng, ta sẽ luôn
sáng suốt nhận ra được sự khác biệt của mỗi người mà ta có cơ hội
tiếp xúc, và có những ứng xử
thích hợp với từng người
xuất phát từ một nền tảng
duy nhất là lòng
thương yêu mà ta hướng đến họ.
Lòng
thương yêu vô
điều kiện hướng đến tất cả
mọi người như đề cập ở đây
hoàn toàn khác với sự
luyến ái có
điều kiện mà
chúng ta thường hướng về một số đối tượng
giới hạn.
Điều kiện của
luyến ái là đối tượng phải
thỏa mãn những gì ta mong muốn. Đó có thể là người có
ngoại hình như ta yêu thích, hoặc có cung cách ứng xử, nói năng làm ta
ưa chuộng,
thích thú... hoặc cũng có thể là người mà ta đặt kỳ vọng sẽ làm điều gì đó theo ý ta... Nói chung, khi ta hướng tâm
luyến ái đến một đối tượng thì
yếu tố quyết định không phải
do nơi tự thân đối tượng đó, mà là thông qua một quá trình
so sánh và
đối chiếu với những
điều kiện nhất định đã hình thành trong ta. Sự
thỏa mãn các
điều kiện chủ quan do ta đưa ra chính là
yếu tố quyết định để ta
khởi tâm luyến ái với một đối tượng. Ngược lại, khi bạn
phát khởi tâm từ bi và hướng sự
thương yêu đến
mọi người thì đó là một sự
thương yêu khởi sinh từ trong
tâm thức của bạn, không có sự
phụ thuộc vào những
điều kiện hay kỳ vọng nơi đối tượng. Chính vì thế, sự
luyến ái luôn thay đổi
tùy theo các
điều kiện được đặt ra, trong khi lòng
thương yêu chân thật thì không hề thay đổi.
Do sự khác biệt về cơ
bản như trên, nên sự
ái luyến luôn đi kèm theo với ý đồ
chiếm hữu và tâm
ích kỷ. Với tâm
ái luyến, bạn
thương yêu một người và mong muốn người đó là của bạn, phải làm
mọi việc theo ý bạn... Nếu điều đó không được
thỏa mãn, bạn
đau khổ và thậm chí còn có thể sinh tâm
oán hận, căm ghét chính người mà bạn đã từng
thương yêu. Ngược lại, với lòng
thương yêu chân thật thì bạn luôn mong muốn cho người mình
thương yêu luôn được nhiều
lợi lạc, được
an ổn và
hạnh phúc. Những mong muốn ấy không hề có bất kỳ
điều kiện nào khác đi kèm theo. Vì thế, bạn không bao giờ phải rơi vào tâm trạng
thất vọng, cho dù đối tượng mà bạn
thương yêu đó có ứng xử theo bất cứ cung cách nào.
Do đó, khi
nuôi dưỡng lòng
thương yêu chân thật thì
cảm xúc thương yêu càng mạnh mẽ sẽ giúp bạn càng trở nên
sáng suốt,
an lạc và
hạnh phúc. Ngược lại, khi rơi vào
luyến ái thì
cảm xúc càng mạnh mẽ bạn càng trở nên
mù quáng, khổ đau và
sợ hãi. Những điều này đã được
đức Phật chỉ rõ trong
Kinh Pháp cú:
Ái luyến sinh
sầu bi,
Ái luyến sinh
sợ hãi.
Ai
giải thoát ái luyến,
Không sầu, đâu
sợ hãi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 213 - HT Thích
Minh Châu dịch)
Chính vì thế mà khi rơi vào
luyến ái thì
con người luôn
trở thành yếu đuối và
bất an. Ngược lại, khi
phát khởi được
tâm từ bi và
nuôi dưỡng lòng
thương yêu hướng đến
mọi người thì
tâm hồn ta ngày càng mạnh mẽ,
an ổn và
hạnh phúc.
Lòng
yêu thương là một
giá trị vô giá và vô hạn trong cuộc sống mà ta có thể chia sẻ
mãi mãi cùng tất cả
mọi người. Và hơn thế nữa, việc
thực hành chia sẻ
yêu thương hướng đến người khác cũng chính là vun bồi và
nuôi dưỡng hạt giống thương yêu trong chính
bản thân ta. Và điều đó mang lại
lợi lạc cho chính ta trước khi lan tỏa và làm
lợi lạc cho tất cả
mọi người khác.
Chia sẻ
niềm tinNiềm tin mang lại cho
chúng ta sức mạnh tinh thần trong cuộc sống. Trong rất nhiều
trường hợp, nhờ có
niềm tin ta mới có thể
vượt qua mọi
hoàn cảnh khó khăn mà không rơi vào sự buông xuôi,
tuyệt vọng.
Mỗi người
chúng ta có thể tìm được
niềm tin trong cuộc sống theo một cách khác nhau. Có người đặt
niềm tin vào một
lý tưởng,
học thuyết hay triết lý; nhiều người khác thường đặt
niềm tin vào
tôn giáo,
tín ngưỡng. Dù là chọn đặt
niềm tin vào đối tượng nào đi nữa, việc xác lập
niềm tin luôn mang lại cho
chúng ta một
sức mạnh tinh thần đáng kể.
Việc xác lập
niềm tin thường là một quá trình
lâu dài và
liên tục trải qua nhiều
thử thách chứ không phải kiểu
quyết định đưa ra
một lần và
bất biến. Trong
thực tế, khi những
thử thách mà một
cá nhân đặt ra cho đối tượng
niềm tin của mình không được
thỏa mãn,
cá nhân đó sẽ không thực sự đặt
niềm tin vào đối tượng ấy. Mỗi một
cá nhân cũng có những
yêu cầu khác nhau trong việc xác lập
niềm tin của mình,
tùy thuộc vào nền tảng
giáo dục cũng như môi trường,
hoàn cảnh sống khác biệt và nhất là cá tính của mỗi người. Có những người rất dễ đặt
niềm tin, chẳng hạn như
chấp nhận dựa theo
truyền thống gia đình hoặc
tin theo người khác, nhưng có người phải tự mình
trải qua những quá trình thao thức, trăn trở rất lâu trước khi có thể thực sự xác lập được
niềm tin cho
cuộc đời mình. Nói chung, với một nền tảng
tri thức càng sâu vững thì việc xác lập
niềm tin thường sẽ được
thực hiện với sự
cẩn trọng và với nội hàm sâu sắc hơn.
Thật ra, nếu
chúng ta chọn một
nếp sống không ngừng vươn lên
hoàn thiện bản thân thì việc xác lập
niềm tin sẽ là một công việc kéo dài
liên tục. Có những tiêu chí để xác lập
niềm tin chỉ đúng và
phù hợp trong một giai đoạn
nhất định, nhưng sau những trải nghiệm và
học hỏi của
chúng ta từ cuộc sống thì chúng cần được thay đổi. Chính vì thế mà không ít người đã thay đổi
niềm tin của họ vào một giai đoạn nào đó trong
cuộc đời, cho dù đó có thể là
niềm tin vào một
lý tưởng, một
triết thuyết hay một
tôn giáo... Khi
niềm tin được xác lập với một
định kiến là sẽ không bao giờ thay đổi, đó là
cuồng tín. Khi
niềm tin được xác lập không cần đến sự phân tích,
suy luận và khảo xét, đó là
mê tín. Một
niềm tin chân chánh, hay
chánh tín, luôn được xác lập với sự phân tích
sâu xa,
suy luận sáng suốt và khảo xét kỹ lưỡng,
đảm bảo rằng
niềm tin ấy phải
đáp ứng mọi tiêu chí
cần thiết để
trở thành một định hướng
đúng đắn cho cuộc sống.
Dù là
cuồng tín,
mê tín hay
chánh tín, tất cả những
niềm tin này đều mang lại cho
chúng ta sức mạnh tinh thần. Điều
bất hạnh cho những người
cuồng tín và
mê tín là
niềm tin của họ sẽ dẫn dắt họ
đi theo những
con đường sai trái, với những
hành vi gây khổ đau cho chính
bản thân và người khác, thay vì là
kiến tạo một đời sống an vui và
hạnh phúc. Ngược lại, khi có được
chánh tín,
chúng ta sẽ luôn hướng đến
một đời sống ngày càng
tốt đẹp hơn, một tương lai luôn giảm nhẹ khổ đau và tăng thêm
hạnh phúc.
Đức Phật dạy rằng, nếu muốn có một
cuộc sống hạnh phúc thì
chúng ta phải xác lập
niềm tin theo
chánh tín. Ngài
không chấp nhận việc
tin theo, ngay cả là
tin theo những lời dạy của ngài, mà không có sự phân tích,
suy luận và khảo xét kỹ lưỡng cũng
như tự mình thể nghiệm những
giá trị chân thật. Vì thế, ngay cả đối với những người
Phật tử thuần thành thì việc
tin theo lời Phật dạy cũng không bao giờ là một sự bắt buộc. Thay
vì vậy, việc
tin theo lời Phật dạy phải là một quá trình
liên tục nhận hiểu, thể nghiệm và xác tín.
Trong suốt quá trình này, các
yếu tố luôn
hỗ tương cho nhau, và nếu mọi thứ được
vận hành đúng hướng,
niềm tin của bạn sẽ ngày càng sâu vững hơn. Chẳng hạn, nhờ có sự nhận hiểu mà ta có thể
tự mình thể nghiệm, nhờ thể nghiệm mà ta xác tín vào những lời dạy, nhưng cũng
đồng thời nhận hiểu được đầy đủ hơn
ý nghĩa của
vấn đề. Rồi nhờ nhận hiểu đầy đủ hơn mà
sự thể nghiệm sẽ được sâu sắc hơn. Quá trình tương tác này sẽ
liên tục làm cho
niềm tin của ta khi đã đặt vào một điều thực sự
đúng đắn thì sẽ ngày càng sâu vững hơn, nhưng
đồng thời cũng
đảm bảo nếu đó là một
niềm tin lệch lạc thì ta sẽ sớm
nhận biết và
từ bỏ.
Việc xác lập
niềm tin chân chính mang lại cho
chúng ta những
lợi lạc lớn lao trong cuộc sống, mà trước hết là một
nghị lực vững vàng giúp ta có thể
vượt qua mọi khó khăn
thử thách.
Ngoài ra,
niềm tin chân chánh cũng dẫn dắt
chúng ta trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, giúp ta không rơi vào
sai lầm, lệch lạc, không
chạy theo những
thôi thúc không
chính đáng, và nhờ đó mà không gây ra khổ đau cho chính mình và người khác. Hơn thế nữa,
niềm tin cũng giúp ta luôn
duy trì được sự
lạc quan hy vọng trong cuộc sống, cho dù có phải đối mặt với những
hoàn cảnh bi thương mất mát. Và quan trọng hơn hết,
niềm tin chân chánh luôn là
động lực thúc đẩy chúng ta không ngừng vươn lên
hoàn thiện chính mình, luôn hướng đến những
mục đích cao quý hơn,
ý nghĩa hơn trong cuộc sống.
Do những
công năng lớn lao đó nên việc xác lập
niềm tin chân chánh có thể xem là một
thành tựu vô cùng lớn lao mà không phải bất kỳ ai cũng dễ dàng có được. Đây không phải điều tất nhiên phải đến, mà là kết quả của một quá trình
kiên trì tìm kiếm,
nỗ lực hết mình với cả
trí tuệ và
thể lực để
vượt qua mọi
thử thách,
loại bỏ mọi
sai lầm. Có người phải
trải qua gần hết
cuộc đời với sự trăn trở, quay quắt trong những
nhận thức trái chiều nhau cũng như phải trải nghiệm vô vàn những khổ đau,
bất hạnh trong cuộc sống, rồi
cuối cùng mới có thể
tìm ra được một
niềm tin đích thực cho
cuộc đời mình. Lại có những người kém
may mắn hơn, cho dù đã
kiên trì nỗ lực rất nhiều, nhưng do những
hoàn cảnh khách quan không
thuận lợi nên vẫn
chưa bao giờ có thể thực sự xác lập được một
niềm tin chân chánh cho
bản thân. Với những người ấy, cho dù đã trải nghiệm rất nhiều trong cuộc sống, nhưng
cuộc đời họ rốt cùng vẫn như một con tàu
chưa bao giờ tìm được bến đậu. Họ không thể tìm được sự
an ổn và
hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. Kém
may mắn hơn nữa là những người đã đặt
niềm tin sai lầm nhưng chưa
đủ sức để tự mình
nhận ra, và vì thế họ thường
mải miết đi theo một
con đường luôn dẫn đến những khổ đau,
bất hạnh cho
bản thân và người khác.
Vì thế, khi
bản thân ta
may mắn có được một
niềm tin chân chánh thì việc chia sẻ
niềm tin đó với người khác sẽ có thể mang lại cho họ rất nhiều
lợi lạc. Chia sẻ
niềm tin cũng
đồng nghĩa với việc dẫn dắt người khác
đi theo đường ngay nẻo chánh, hướng đến sự an vui
hạnh phúc, tránh cho họ những
con đường lầy lội
chông gai mà đích đến chỉ là những buồn
đau khổ não. Nếu bạn thực sự làm được điều đó,
chắc chắn bạn đang giúp đỡ người khác theo cách
tốt đẹp nhất, bởi vì tất cả mọi
giá trị trong đời sống của họ đều sẽ nhờ đó mà trở nên thực sự có
ý nghĩa.
Nhưng cho dù có những
lợi lạc lớn lao như thế, việc chia sẻ
niềm tin không thể là sự áp đặt những
nhận thức đã có của bạn lên người khác. Những
chỉ dẫn và chia sẻ
kinh nghiệm trong
tinh thần vị tha là
vô cùng đáng quý, nhưng mỗi người đều có
nhận thức riêng của mình.
Trừ phi bạn có thể làm cho người khác thay đổi
nhận thức, bằng không thì mọi sự áp đặt đối với họ đều sẽ tạo ra những
tác dụng ngược lại với
ý muốn của bạn. Không ai có thể
chấp nhận việc
suy nghĩ bằng cái đầu của người khác,
hay nói khác đi là
chấp nhận tin theo những điều mà mình chưa thực sự thấy là
đúng đắn.
Vì thế, trong việc chia sẻ
niềm tin thì khả
năng thuyết phục bằng cuộc sống của
bản thân chúng ta là rất lớn.
Đạo Phật gọi đó là thân giáo, nghĩa là lấy chính
bản thân mình làm bài học
giáo hóa người khác. Điều này có thể hiểu theo một cách khác hơn là, bạn chỉ có thể chia sẻ với người khác những gì mà bạn đang thực sự có được trong tầm tay. Nếu bạn thuyết giáo về
đạo đức,
bản thân bạn phải thực sự có được những
giá trị đạo đức đích thực. Nếu bạn muốn chia sẻ với người khác một
nếp sống để có
hạnh phúc, bạn phải
chắc chắn bản thân mình đang có
hạnh phúc. Khi tự thân bạn đã có được những gì bạn muốn chia sẻ, thì sự chia sẻ đó mới thực sự có
giá trị thuyết phục người khác.
Do sự nhiệt thành với
niềm tin mình đang
theo đuổi, rất nhiều người muốn chia sẻ
niềm tin nhưng lại
sai lầm chọn những
phương cách áp đặt lên người khác. Điều đó không bao giờ mang lại kết quả
tốt đẹp cả. Bạn muốn người khác thay đổi
niềm tin ư? Cách
duy nhất để làm điều đó là hãy
chứng tỏ cho họ thấy bằng cuộc sống của chính
bản thân bạn, rằng
niềm tin mà bạn đang
theo đuổi đã mang lại cho bạn những
lợi lạc lớn lao như thế nào. Nếu bạn không làm được điều đó, mọi sự áp đặt đều sẽ không được
chấp nhận. Nhiều
bi kịch đã từng xảy ra ngay trong bối cảnh
gia đình, khi người ta cố
ép buộc những người thân như
vợ con, anh em... phải
đi theo một
niềm tin, một
tôn giáo mà
bản thân họ cho là
tốt đẹp, nhưng lại
hoàn toàn thất bại trong việc
chứng tỏ sự
tốt đẹp đó bằng cuộc sống của
bản thân họ. Trên bình diện rộng hơn của
cộng đồng xã hội, những cuộc chiến tranh nhằm
mở rộng tôn giáo mà nhiều người cố gọi là “thánh chiến” thật ra chẳng bao giờ có thể làm cho
con người trở nên
thánh thiện hơn mà chỉ là ngược lại. Thay vì
mang đến an vui
hạnh phúc cho người khác, người ta chỉ
điên cuồng tạo ra thêm vô vàn những khổ đau và
bất hạnh.
Bởi vậy, việc chia sẻ
niềm tin là điều nên làm, nhưng phải được
thực hiện một cách
thích hợp và
xuất phát từ
lòng vị tha,
chân thành muốn
mang đến lợi lạc cho người khác. Nếu được như thế,
bản thân chúng ta sẽ được
lợi lạc nhờ
nuôi dưỡng tâm từ bi mà cũng
đồng thời làm
lợi lạc cho người khác qua việc giúp họ sớm xác lập được một
niềm tin chân chánh.