Lá Chúc Thư Dưới Nền Cổ Tháp

05/12/20164:12 CH(Xem: 8149)
Lá Chúc Thư Dưới Nền Cổ Tháp

LÁ CHÚC THƯ DƯỚI NỀN CỔ THÁP
Toại Khanh

 

chuaChùa Túc Châu ở Tế Nam là ngôi pháp vũ nổi tiếng một thời với nhiều đời phương trượng chuyên tâm un đúc các thế hệ long tượng cho Phật giáo Trung Hoa từ thời Thanh mạt. Nghe đâu ngoài một tờ thánh chỉ sắc tứ, chùa còn lưu giữ không ít bút tích đề tặng của nhiều thân vương Thanh triều cùng vô số danh sĩ thiên hạ đương thời. Trong thời buổi mà đời sau miệt thịphong kiến ấy, chốn già-lam thường là chỗ gặp gỡ của các bậc nhân tài cao sĩ khắp triều dã. Một buổi xướng họa, vài tuần trà hay chỉ một cuộc cờ ở đó rất có thể sẽ là khởi điểm cho một sự cố hay biến chuyển nào đó về văn hóa hay thời cuộc trong thiên hạ. Chùa Túc Châu từng là một điểm hẹn kiểu đó. Hoà thượng Vạn Khánh là phương trượng đời mười bốn ở đây.

Một tấm lưng khòm trên hình hài gầy guộc, y phục nâu sòng và chỉ dùng mỗi cây gậy trúc khẳng khiu để tới lui đây đó, không ít người thoạt nhìn cứ ngỡ hòa thượng là một lão nông nào đó đến vãng cảnh chùa. Hiếm ai trong lần sơ ngộ có thể ngờ được cái sở học kinh người và một đạo hạnh thâm hậu phía sau vẻ ngoài thô lậu thanh bần ấy. Mấy mươi năm trước, ngài đã từ quan để đi tu với phương trượng chùa Túc Châu lúc đó là đại lão tăng Vạn Tường, tương truyền là một kỳ nhân có thể chỉ uống nước lạnh suốt nhiều tháng trong mỗi lần trì tụng một bộ kinh nào đó. Danh sư xuất cao đồ, học chúng Túc Châu không hiếm người mãn phúc kinh luân để thừa tài an bang tế thế.

Đầu thập niên 1940, tình hình chính trị Trung Quốc ngày một phức tạp, xã hội cũng theo đó biến đổi tệ hại hơn. Tình trạng sinh hoạt của chùa Túc Châu dĩ nhiên cũng ít nhiều bị ảnh hưởng theo dòng thác thời cuộc. Tăng chúng tòng học tại đây ngày một thưa thớt. Từ con số trăm vị lúc cực thịnh xuống còn không được một nửa, vậy mà cũng phải bữa cháo bữa rau. Rồi một ngày sau năm 1949, có ai đó ác tâm tố cáo chùa chứa phản động, chính quyền ra tay truy xét thô bạo rồi giải tán toàn bộ học chúng chùa Túc Châu. Bao nhiêu đồ đệ tinh anh thực học của hoà thượng Vạn Khánh giờ chẳng còn ai. Ngài trở thành một ông từ già với hai chú tiểu tóc đào giữa ngôi đại tự mênh mông. Chùa vắng như không người, nhưng tai mắt công an vẫn ngày đêm lảng vảng. Thời gian trôi nhanh không ngờ được. Khách vãng lai thưa dần, rồi không còn ai về thăm Túc Châu nữa. Tin tức ở đó ngày càng hiếm hoi. Một ngày mùa đông năm 1981 có vị lão tăng ghé lại Túc Châu xin ngủ nhờ qua đêm. Chùa chỉ còn hai sư bà hom hem. Khu hậu viên ngổn ngang chuồng trại. Sau ngày giải phóng, chùa Túc Châu có lúc được trưng dụng làm trại chăn nuôi gia súc. Sau một thời gian chăn nuôi thất bại, chùa Túc Châu lại bị bỏ hoang rồi dần dà địa phương cho mời hai sư bà từ một chùa khác sang trông nom nhang khói ở đây. Từ sau lúc hoà thượng Vạn Khánh viên tịch, chẳng biết hai chú tiểu hầu ngài đã trôi dạt về đâu.

Tiếp đãi vị lão tăng như một khách quý, có lẽ phần nào cũng do thấy ông cao tuổi, hai sư bà cung kính hướng dẫn ông đi thăm quanh chùa và khi đi ngang ngôi tháp sau hậu viên, họ thản nhiên cho biết trong đó là chỗ thờ di cốt vị phương trượng cuối cùng của chùa Túc Châu. Vị lão tăng ngỏ ý muốn được vào làm lễ, hai sư bà dĩ nhiên đồng ý. Lòng tháp chật hẹp, lại nặng mùi ẩm mốc. Ông ngậm ngùi nhìn lên một cái bọc lụa màu đỏ đặt trên bệ thờ. Trong đó là chiếc tiểu sành đựng di cốt của hòa thượng Vạn Khánh. Một nhúm nhang đang cháy dở dang bên cạnh. Vị lão tăng đưa mắt nhìn quanh rồi khẽ giật mình. Ông vừa đọc thấy hai hàng chữ ngoằn ngoèo trên vách tháp. Cố giữ vẻ tự nhiên, ông chỉ tay lên vách rồi từ tốn hỏi hai sư bà :

Xin lỗi, chữ gì trên đó lem nhem quá, hai sư bà có thể đọc cho nghe được không ạ ? Mắt tôi kém quá …

Hai người gật đầu :

Chúng tôi có thấy, thưa thầy, nhưng không đọc được là những chữ gì. Có lẽ chỉ là hình hí họa của ai đó tiện tay thôi ạ!

Nằm trằn trọc trong gian phòng rộng thênh của sư phụ ngày nào, Đại Chuyết cứ nghĩ mãi đến hai dòng chữ đọc được khi nãy. Có lẽ cho đến bây giờ thiên hạ vẫn chưa ai chú ý đến chúng. Hai sư bà không đọc được chỉ do họ không thể ngờ đó là hai dòng thảo tự được viết ngược. Thảo tự của mỗi người hầu như đều có chỗ tùy tiện riêng tư, đã vậy nếu bị viết ngược thì càng mù mịt hơn. Ông đọc được chỉ vì từ lúc còn là học tăng, một vài huynh đệ đồng khóa của ông đã cùng nghĩ ra lối viết ấy để xướng họa trong lúc giải trí. Những người đọc được kiểu lộng thư này dĩ nhiên không nhiều. Hai dòng chữ kia tiếp tục nhảy nhót trong óc ông như một thách đố:

Đài thượng vô tục diệm
Tháp hạ hữu di thư

Câu một đúng là hoàn cảnh của học viện Túc Châu bây giờ. Thế còn câu hai? Phải chăng sư phụ còn có điều muốn nhắn gửi? Ngài muốn dặn dò điều gì, cho ai?

Sáng sớm hôm sau, ngay từ lúc sương mù còn chưa tan hết, Đại Chuyết đã lặng lẽ cầm chiếc đèn pin lần ra ngôi tháp với một thanh gỗ nhỏ trong tay. Sau một lúc chau mày quan sát, ông cúi người gõ nhẹ xuống từng viên gạch dưới nền tháp. Đây rồi. Trong góc cùng của tháp có một viên gạch không được trát vữa. Đại Chuyết giở nhẹ tấm gạch lên và bất giác rùng mình. Một cuộn giấy tròn được phong kín bằng sáp nến nằm khuất dưới lớp cát mỏng.

Xếp lại viên gạch vào chỗ cũ, Đại Chuyết quay về phòng rồi vặn lớn ngọn đèn. Gió sớm mùa đông vẫn lạnh như cắt da và thổi tràn từng đợt qua khóm trúc lớn bên cửa sổ, thế mà ngồi trong phòng, Đại Chuyết cứ phải lấy tay áo thấm mồ hôi trán.

Bên trong lớp sáp kia đúng là lá thư của ngài Vạn Khánh. Một lá thư dài, khá dài, và cũng là những dòng thảo tự viết ngược, đầy cả hai mặt giấy. “Chư đệ tử! Không muốn người ngoài đọc được lá thư này, ta đành một lần khiến mình chẳng giống mình là sử dụng ám tự, dù đó chỉ là kiểu lộng thư của huynh đệ các con. Ta không thể biết trước ai sẽ là người tìm thấy lá thư, nhưng vẫn hi vọng đó sẽ là một người trong số các con.

“Sự biến xảy đến với Túc Châu quá bất ngờ, khiến ta không kịp có được một buổi uống trà cùng các con như vẫn mong mỏi, để bây giờ phải ngồi một mình mà nói với các con bằng mấy dòng này. Muộn chăng? Có còn kịp lúc nữa hay không, các túc đồ của ta? Ta cũng như các con, đều là những người tay trắng. Cái duy nhất ta có thể để lại cho các con chỉ là những thứ ta nhận được từ sư phụ mình và đã lấy đó làm hành trang trên đường đạo nghiệp. Ngày nào đọc được lá thư này của ta, có lẽ các con sẽ hiểu rõ thêm vì sao ngày xưa ta đã như quá vô tâm khi chọn cho các con những pháp hiệu nghe qua có phần nghịch nhĩ: Bất Tài, Vô Đức, Vô Năng, Vô Học, Vô Trí, Tiểu Mạn, Đại Chuyết… Chỉ một người duy nhất trong số các con có được chữ Vạn của dòng truyền pháp Túc Châu, đó là Vạn Nhậm. Điều đó do đâu, ta sẽ nói ở sau. Chỉ nên biết, ai ta cũng thương đồng đều hết. Và ngay trong việc đặt cho pháp hiệu cho từng người cũng không hề có chút thiên vị. Chỉ có khổ tâm dụng ý mà thôi. Bây giờ các con chẳng còn bên cạnh ta nữa, mấy dòng tâm huyết này thay ánh mắt ta dõi nhìn theo từng bước luân lạc của các con…

“Với Bất Tài, ngọn bút kinh nhân của học viện Túc Châu, hãy luôn nhớ lời ta: Người thế gian còn biết nói lập thân tối hạ thị văn chương, trong cửa đạo chữ nghĩa cũng chẳng qua là một trong nhiều phương tiện hành hoạt. Đời kẻ cầm bút lắm khi bạc tựa kiếp tằm: Rút hết tinh anh ghi chép chuyện đời để sau cùng người thương tâm tổn trí lại cũng chính là mình. Chỉ nên cầm bút khi không thể có chọn lựa nào khác, và luôn biết được chỗ dừng để không mắc lỗi. Chép chuyện đời sao bằng ghi chuyện mình và ghi chuyện mình sao hơn được việc lặng lẽ sửa mình!

“Với Vô Đức, người nổi bật trong đám học trò của ta về khả năng giám chúng, nên nhớ lời ta: Quản chúng ở trình độ rốt ráo phải được bắt đầu từ khả năng tự hoá, tự quản. Con sẽ là một phương trượng mẫu mực khi biết tự khiêm để trở thành biển lớn dung chứa muôn sông. Tăng tục bên con là người từ muôn phương sao tránh được những dị biệt. Hãy quên mình đi, để không một cá tính nào của người thiên hạ có thể làm phiền lòng con. Đào dưỡng và cưu mang các thế hệ tăng-già là trọng nhiệm thiêng liêng nhất của nhà thiền. Lúc cần, hãy biết lãng quên tất cả những ý niệm Lớn Nhỏ Bỉ Thử. Trong Phật môn không hề có việc người cai trị và kẻ bị trị. Thử hỏi ai có quyền nghĩ những trưởng tử nào đó của Như lai đang nằm dưới tay mình? Những tục niệm như ghét thương, sở hữu cũng cần được cảnh giác. Người xuất gia phải sống bằng ý niệm không nhà, nếu không cẩn cẩn sẽ là trò cười thiên hạ khi bỏ nhà nhỏ rồi lại vào nhà lớn. Bao dung, và xả kỷ là những điều căn cội cho sự nghiệp truyền đăng của một phương trượng.

“Với Vô Năng, người chói ngời với phong phạm một giảng sư quán chúng, hãy nhớ lời ta: Hiền thánh xưa nay có được khả năng lập ngôn vì đã qua được bước đầu lập hạnh. Bản hạnh vững vàng thì ngữ ngôn tự khắc có hấp lực. Tài hoa trên chót lưỡi đầu môi chỉ là trò chơi của một sớm một chiều. Ngay đến người tập võ trong dân gian cũng phải thành tựu nội công mới mong có được chưỡng lực. Những bậc pháp khí đến cầu pháp sẽ nhìn con ra sao hơn là nghe con nói gì. Đức Thích Tôn và các cao đồ của ngài thuở trước đều dùng đủ cả thân giáo và ngôn giáo để độ sinh. Không trang nghiêm được lòng mình, người nói pháp dễ mắc lỗi lầm, mà trong đó, Tự Tán Hủy Tha là một điều đại kỵ của người sứ giả Như Lai, khiến tổn giảm âm đức, đánh mất lý tưởng nối truyền huệ mạng.

“Với Vô Trí, một học tăng thừa tài kinh quốc, thân đắp Phật y nhưng vẫn nặng lòng với thế cuộc, hãy nhớ lời ta: Xót thương quần sinh chính là bản hạnh của Bồ Tát, nhưng nên thương thế nào cho hợp cách với một Sa Môn. Đừng bao giờ chọn cho mình con đường dẫn đến tuyệt địa. Vì lắm khi mãi lo dấn thân bạt mạng mà tự mất lối về. Việc chưa xong mà trước sau đều nghìn trùng không bờ bến, chơi vơi giữa dòng. Lại nữa, khả năng kinh quyền cũng là một vốn liếng quan trọng cho con. Đến như việc ôm bát khất thực để tìm một bữa ăn còn phải nói đến hai chữ Tùy Duyên thì kể chi đến chuyện an bang tế thế càng khó lắm thay. Kẻ làm tướng cầm quân ra trận còn phải nhớ những điều cấm kỵ trong binh gia để tránh vong mạng oan uổng thì kẻ nuôi hạnh Bồ Đề càng phải thận trọng mươi lần. Chúng ta thân gửi Không Môn mà lòng chẳng quên thương đời, nhưng lòng dẩu có thương đời cũng nên nhớ thân đang tại Không Môn. Đến được rồi cũng đi được, đó chính là bản lãnh tự tại của một Bồ Tát giữa biễn lửa tử sinh. Và tinh thần tự tại đó còn có một ý nghĩa quan trọng khác là Bồ Tát chỉ luôn hành động bằng sự tự quyết thông qua lòng đại biđại trí của chính mình, tuyệt khôngtác động nào khác hay của bất cứ ai.

“Với Vô Học, người luôn xứng danh với ngoại hiệu Tòng Lâm Thủ Sách bằng sở kiến thâm viễn và lòng cầu học vô bờ, hãy nhớ lời ta: Mỗi cá nhân chỉ là một hạt cát nhỏ nhoi giữa vũ trụ bao la với kiếp sống trăm năm vốn ngắn ngủi như một chớp mắt trên dòng thời gian vô thủy vô chung. Những điều có thể học được thì nhiều như cát biển. Kiến thức của người uyên thâm nhất thiên hạ nhiều lắm chỉ là một vốc cát biển, một nắm lá rừng. Do đó cái chí yếu của việc học cốt nằm ở chỗ sở dụng mà thôi. Mỗi cuộc bình sinh chỉ có một lý tưởng sống, người hiếu học đến mấy cũng chỉ nên chọn lấy điều có thể ứng dụng cho lý tưởng sống đời ấy. Càng ham vung vít nhăng cuội thì sau cùng mọi sở tri có được chỉ là những thứ nửa vời vô dụng. Hãy tùy sứchọc lấy những gì thực sự bao hàm được cả hai ý nghĩa tự lợilợi tha. Ngoài ra tuyệt chẳng nên phí sức. Nên phân biệt rõ điều mình thích và cái mình cần. Kiếp nhân sinh tựa phù vân nên vốn không có đủ thời gian cho những đam mê vô bổ. Kẻ học đạo giải thoát càng phải lưu tâm cảnh giác những sở tri chướng vốn ngăn ngại tuệ nghiệp. Đôi khi chỉ vì chút hư danh mà cam tâm vùi đầu làm mọt sách quên tu há chẳng hoang phí thân người lắm ru!

“ Ta đặc biệt cho Vạn Nhậm cái pháp hiệu nghe ra đàng hoàng nhất ấy cũng là có chỗ dụng ý. Hắn không sở đắc một biệt tài nào xuất chúng, tất cả ở hắn chỉ ở mức Cần và Đủ. Sở trường duy nhất của hắn là một tâm địa có thể dung hòa mọi thứ, và có thể khởi hành ở mọi lĩnh vực. Đó chẳng là bản lãnh mà Khổng Phu Tử xưa đã tự nhận xét về mình khi so sánh với các đệ tử hay sao ? Dĩ nhiên trong một đại sự quan trọng Vạn Nhậm tuyệt không thể không cậy nhờ đến từng người trong các con, và ngược lại, các con có lẽ cũng rất cần đến một người giống hắn. Tương duyên chính là mạch sống trong quan hệ sinh tồn của vạn pháp hữu vi. Muôn duyên hòa hợp nhau mà vận hành đồng bộ. Trong đó không có chính thứ, trước sau, trên dưới, mạnh yếu theo chiều dọc vì tất cả đều có cùng cái giá trị của một mắt xích trong xâu chuỗi tương quan. Ta chỉ lo là khi thiên hạ ai cũng muốn trở thành sao sáng thì một người như Vạn Nhậm quả là không dễ gặp. Ta may mắn có được một học trò như hắn, chỉ tiếc hắn quá yểu mệnh. Còn nhớ buổi chiều an táng hắn, ta đã đau xé lòng như ngày xưa đức Khổng đã khóc thương Nhan Hồi. Các con nên hãnh diện vì một huynh đệ như hắn. Dù hôm nay hắn đã không còn nữa…

“Còn nhiều, nhiều lắm. Có thể nói một trăm hai mươi học tăng ở Túc Châu đều có sở trường. Trong mấy trang giấy này làm sao ta có thể kể ra hết từng người. Nhưng chung quy lại, mỗi người trong số các con có thể phần nào dựa theo ý nghĩa tên mình mà đoán được dụng ý giáo huấn của ta. Nên nhớ, hãy lấp đầy sở đoản và phát huy sở trường bằng một khẩu quyết duy nhất: Vạn Pháp Do Duyên, Tùy Thời Tiến Thoái! “Ta viết lá thư này khi các con đã ra đi ba năm mười một tháng. Viết khi tự biết mình không còn lại bao nhiêu thời gian. Viết mà không biết gửi cho ai, và làm sao gửi. Ta đặt lá thư dưới nền cổ tháp với một lời ám chỉ mơ hồ trên vách. Ta chỉ xem đây như một trò chơi định mệnh với kết quả thật mong manh. Hi vọng mai này khi trở lại Túc Châu, ai đó trong số các con sẽ tìm thấy lá thư này. Nếu được vậy, đúng là duyên phận sư đồ của chúng ta vẫn còn đó…”

Thầy Đại Chuyết bàng hoàng gấp lại lá thư. Ông lặng người tưởng lại gương mặt từ bi của sư phụ rồi nghĩ đến số phận của từng người trong huynh đệ ông từ sau ngày chia tay nhau năm đó ở Túc Châu. Quá nửa số đó đã bằng mọi cách rời Hoa Lục để tìm ra hải ngoại. Kẻ sang Nhật, người sang Đài Loan, Hương Cảng, rồi cả Âu, Phi, Mỹ, Úc. Thành công cũng có, thất bại cũng nhiều. Chỉ tiếc không ai đọc được lá thư này của thầy để rồi không ít người đã vong thân ngay trên chính sở đắc của mình. Lá thư của sư phụ như ngầm chứa những lời cảnh báo nghiêm trọng và buồn thay, nó đã chính xác một cách tàn nhẫn.

Chiều hôm đó, Đại Chuyết ra tháp lạy thầy lần cuối rồi lặng lẽ ra đi với lá di thư cất kỹ trong túi áo như một kỷ vật mà cũng là món hành trang sắp sửa muộn màng. Ông về lại Ireland với ngôi thiền thất bé nhỏ của mình bên một bờ nước quạnh hiu sống bằng số lương ít oi của một giáo sư trợ giảng. Không đạo tràng, không tiếng tăm, không môn đồ, làm ít lỗi ít. Ông nhớ mãi câu nói đó của sư phụ ngày xưa khi đặt cho ông cái tên Đại Chuyết.
Toại Khanh

Tạo bài viết
21/01/2018(Xem: 21458)
12/10/2016(Xem: 19347)
26/01/2020(Xem: 12058)
12/04/2018(Xem: 20290)
06/01/2020(Xem: 11119)
24/08/2018(Xem: 9590)
12/01/2023(Xem: 4022)
28/09/2016(Xem: 25239)
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…