TÂM XẢ
Lê Tâm Minh
Trong Phật giáo, từ ngữ “ xả bỏ hay buông bỏ” được thường xuyên nhắc đi nhắc lại trong nhiều bài thuyết pháp. Tâm xả là một trong 4 tâm vô lượng của chư Phật và Bồ tát, gọi là Tứ vô lượng tâm (Từ Bi Hỉ Xả). Trong Thiền, tâm xả là bước cuối cùng để hành giả hội nhập vào thực tại Tánh Không hay Phật Tánh.
Bài viết nầy sẽ bàn về tâm xả qua 2 lối nhìn: lối nhìn vĩ mô ( qua một quá trình dài) và lối nhìn vi mô ( từng thời điểm hay từng sát na của tâm thức) .
1) Tâm xả theo lối nhìn vĩ mô:
Người có nhiều chánh kiến và hành thiện nghiệp, đem lòng từ ái ra giúp đỡ và lòng bi mẫn cảm thông, hoan hỉ hành động vì tha nhân, là được 3 điều tốt Từ, Bi, và Hỉ. Nhưng nếu dừng lại ở đây với tâm không xả, cứ ôm ấp thành quả ấy như một công trạng, một đức hạnh, thì hậu quả là “cái tôi” phồng to ra, tánh kiêu mạn phát triển, xem thường mọi người. Đó là Từ Bi Hỷ Xả diễn ra theo thứ tự chiều thuận. Tại sao có thể diễn ra được như vậy ? – Đó là vì họ có lòng thương người.
Nhưng đối với những người đầy tà kiến và nặng nghiệp ( tà nghiệp, ác nghiệp), sẽ không có việc ấy xảy ra, vì những người nầy không hề thương người, vốn chỉ biết thương bản thân mình và những người thân của mình (ngã sở). Họ thường xem người khác như kẻ thù, nếu không thì là những con bò sữa để vắt kiệt, hoặc những con dê tế thần. Vấn đề được đặt ra là : làm thế nào để họ có thể tự cải thiện được tà nghiệp ? Và bây giờ, chúng ta hãy thử đem tâm xả ra xem xét ở đây.
Có lẽ là phải đi theo tiến trình đảo ngược “ Xả, Hỉ, Bi, Từ “, vì không có tình thương thì làm sao bắt đầu bằng từ bi được ? Trước nhất là phải “xả “ cái đã, nhưng xả là xả cái gì ? - Đó là xả bỏ những tà kiến, chẳng hạn như:
- Tôi phải làm giàu bằng mọi cách, mặc kệ cho ai ra sao cũng được.
- Tôi là tài giỏi số một, không ai bằng. Người nào cãi tôi chỉ đáng chết.
- Tôi chỉ che chở giúp đỡ những người thân và bạn bè của tôi mà thôi, còn những người khác thì nếu không trục lợi được họ thì tôi cũng bỏ mặc kệ họ.
- Đời là một cuộc chạy đua, ai giỏi thì thắng lợi, ai dở thì thua thiệt ráng chịu.
- Những người giàu có hoặc trí thức phải bị giết chết hết hoặc trừ khử hết, thì mình mới sống tốt được.
- Nhà cửa của tôi, tiền bạc tài sản của tôi là thật có. Địa vị của tôi là thật có.
- Con cái của tôi, vợ hay chồng tôi là thuộc về tôi
- Sống là phải biết hưởng thụ. Tu hành là ngu si, dại dột
- Tôi còn sống lâu lắm.v.v….
Thật là muôn vàn khó khăn để những tà kiến tương tự như thế có thể bị xóa bỏ trong tâm thức họ. Có lẽ là phải trải qua vô lượng kiếp, trừ phi may ra họ gặp được duyên lành tiếp cận với Phật pháp, quyết tâm học hỏi trau dồi hiểu biết và tu sửa tâm tánh. Nhưng làm sao họ có thể tiếp cận được với Phật pháp một khi họ không thích, không muốn, hoặc cho đó là ngu si nữa ? Cái giá của họ là phải trải qua nhiều đau khổ cùng cực, may ra mới chịu nhìn lại mà cầu tìm, và sự khả dĩ nầy cũng không có nhiều. Khoảng cách từ họ đến với giáo pháp là quá xa…, xa hơn cả từ chân trời phía đông đến chân trời phía tây ( Xem Đại luận về Giai trình của đạo giác ngộ Quyển 1 của Đại sư Tây Tạng Tông Cáp Ba). Kết quả là một thế giới hỗn loạn đầy giành giựt, dối trá, giết chóc, và rồi dần dần đi đến hủy diệt như ngày nay.
Nước Nhật là một quốc gia lấy Phật giáo làm quốc giáo . Căn bản giáo dục mầm non của họ là dạy tánh không bon chen tranh giành: từ lớp 1 tới lớp 3 không có bất kỳ một kỳ thi nào, và mục đích giáo dục tiểu học là khai tâm nhiều hơn là khai trí: từ lớp 1 tới lớp 6 luôn có môn học “nguyên tắc xử thế “ như một môn đạo đức học thực tiễn. Kết quả tốt cho xã hội ra sao là điều rõ ràng như mọi người đều thấy, khó có quốc gia nào khác sánh kịp: tinh thần kỷ luật, tính nhân bản, cách cư xử tốt giữa con người với nhau. Nước Bhutan cũng là một quốc gia Phật Giáo. Quốc Vương xứ nầy đang chủ trương trồng rừng thật nhiều với mục đích làm sạch bầu khí quyển cho hành tinh của chúng ta. Thật là một việc đáng ngưỡng mộ.
Trở lại vấn đề xả bỏ tà kiến. Trải qua bao đau khổ, hoặc bị trừng phạt, rồi chiêm nghiệm lại cuộc đời và tư duy đúng, một số ít người có thể có được chánh kiến, buông bỏ được tà kiến (Xả), trở nên vui vẻ ( Hỉ), cảm thông ( Bi) và thương người (Từ). Đây là tiến trình đảo ngược Xả, Hỉ, Bi, Từ , khả dĩ của họ khi trở về với thiện đạo. Điều quan trọng là phải tư duy đúng ( chỉ có được ở người có chút lương tri). Từ tư duy đúng( Chánh Tư Duy) phát sinh ra cái nhìn đúng ( Chánh kiến). Có cái nhìn đúng, cái thấy đúng thì mới có thể buông xả được. Thế nhưng, không phải chỉ có những người ác, người mang tà nghiệp, người nặng nghiệp quay về với thiện đạo bằng ngõ “ Xả “, mà hầu hết chúng ta, là những người phàm phu nói chung, và những người nghiệp nhẹ, cũng phải bước đi trên con đường thiện đạo bằng ngõ “xả “ nầy, bởi vì Hỉ, Bi,Từ ( vui vẻ, cảm thông, yêu thương) không thể có được ở một người cố chấp. Lý do là : chúng ta thường có nhiều tà kiến hơn là chánh kiến. Trong lúc chưa huân tập đủ chánh kiến, chúng ta phải đi theo lộ trình Xả Hỉ Bi Từ. Khi có đầy đủ chánh kiến rồi, chúng ta mới có thể đi theo chiều thuận Từ Bi Hỷ Xả của hàng Bồ Tát được.
Chánh kiến nói trên là gì ? Ở đây có nghĩa là chánh kiến tương đối, qui uớc, về một đối tượng nào đó- là cái nhìn nào, cái thấy nào mà xuyên qua nó chúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát . Có bao nhiêu đối tượng để nhìn thấy thì có bấy nhiêu chánh kiến hoặc tà kiến. Huân tập chánh kiến là gặt hái được nhiều chánh kiến hơn và bỏ bớt dần những tà kiến. Cách hay nhất là phải có tâm cầu học và nghe giảng pháp thật nhiều. Khi huân tập đầy đủ chánh kiến thì tình trạng nầy được gọi là viên mãn chánh kiến. Người nầy, tuy chưa giác ngộ nhưng có thể tu tập theo tiến trình chiều thuận Từ Bi Hỉ Xả. Theo tôi, như đã trình bày trong bài viết trước ( số Phật Đản 2016), chánh kiến lớn lao và cơ bản trong cuộc sống là : Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ. ( Tôi gọi người không có chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy là “người đầy tà kiến”, để dễ diễn ý ngắn gọn trong những bài viết, không có ý chỉ trích).
Đó là nói về “xả” theo quan điểm vĩ mô, tức là nhìn nó diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó của kiếp người.
2) Tâm xả theo lối nhìn vi mô:
Tiếp theo đây, chúng ta thử nhìn tâm xả theo cái nhìn vi mô, tức là nhìn tại một thời điểm nào đó, nhìn nó tại từng sát na. Điều nầy liên quan đến Thiền: Thiền định và Thiền quán, tỉ dụ như: tư tưởng thứ nhất diệt, rồi tư tưởng thứ hai sanh khởi , v.v. , và không phải chỉ có trong Thiền, nó cũng có thể hiện diện ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đây là đề tài sở trường của môn Duy Thức Học Phật giáo, thiết nghĩ điều nầy dành riêng cho những ai chuyên nghiên cứu về môn học phân tích chi ly nầy, ở đây chúng ta chỉ bàn sơ qua về cách nhận dạng tâm xả mà thôi. Vấn đề tìm hiểu là : khi nào tâm xả khả dĩ xuất hiện được ? Hoặc: tâm xả nào là xả thật sự ? Hay là: kiểu nầy có phải là xả hay chưa ?
Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Tôi hiểu đời là vô thường, không có gì tồn tại với thời gian. Thế mà tôi vẫn, bằng mọi giá, xây cất nhà cao cửa rộng đồ sộ y như là tôi sống đời cả ngàn năm. Đó là tôi không có chánh kiến về lẽ vô thường, đó là một cái thấy sai ( tà kiến). Hiểu là một chuyện, nhưng thấy là một chuyện khác ( nhìn đời qua một cặp kính màu hồng, chẳng hạn). Giữa hiểu và thấy là 1 khoảng cách rất xa, xa hơn từ chân trời phía đông qua chân trời phía tây. Thí dụ : tôi hiểu người ấy là vợ của bạn tôi, không nên yêu và cũng không thể yêu được, nhưng mỗi khi gặp, tôi thấy như thể muốn ôm người ấy vào lòng ! Hoặc là: tôi hiểu sâu Phật pháp và hiểu rất nhiều kinh điển, nhưng tôi không muốn tu hành chút nào, tôi xem nó như một mớ kiến thức để trang điểm cho bản thân mình mà thôi. Khá hơn một mức là: hiểu và thấy đều có, nhưng không chấp nhận: tôi hiểu là như vậy, và cũng thấy như vậy, nhưng điều nầy nhất định là không thể được, nghĩa là tôi không chấp nhận. Giữa thấy và chấp nhận cũng là 1 khoảng cách rất xa. Tôi hiểu rằng anh ấy rất thông minh giỏi giang qua tiếp xúc với anh ta, và cũng thấy anh ta giỏi thật khi làm việc, vậy mà trong thâm tâm, tôi vẫn muốn nghĩ rằng anh ta do may mắn là con nhà giàu mới trở nên được như vậy, tức là tôi không muốn chấp nhận điều ấy. Hiểu, thấy và chấp nhận, là 3 giai đoạn tiến bộ của tri thức và cũng là lộ trình tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Từ hiểu đến thấy có thể trải qua một vài trăm kiếp, rồi từ thấy đến chấp nhận cũng vài ba trăm kiếp nữa, vì đối tượng để hiểu, để thấy… thì có rất nhiều, chứ không phải có một vài cái .
Thế nhưng, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã viết rằng: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngủ uẩn giai không”…….v.v.. , trong đó vị Bồ Tát nầy soi thấy 5 uẩn đều không: Sắc là không…, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều là không, nghĩa là chứng được thực tại Tánh Không, hòa nhập với Giác Tánh Chân Như ở sát na đó. Cái thấy nầy là chánh kiến tuyệt đối, chánh kiến tối hậu, hay chánh kiến siêu thế gian, là cái thấy siêu việt và nhất nguyên, không còn nằm trong thế nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người thấy) và đối tượng ( vật bị thấy) như cái thấy đề cập ở phần trước. Muốn được như vậy, thấy và chấp nhận phải hiện diện cả hai, đây mới gọi là tâm xả đích thật . Một tâm xả đích thật phải gồm có đủ 3 yếu tố: hiểu, thấy và chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì có nghĩa là không muốn thấy, không muốn hiểu, là quay lưng với thực tại với tâm bám nắm hay ghét bỏ. Nếu chỉ có hiểu và thấy thôi, thì cái trí có xả, chứ tâm không chịu xả. Thế là giác ngộ giải thoát hãy còn rất xa. Tại sao hiểu và thấy rồi mà lại không chấp nhận ? Đây là câu hỏi cần được giải thích. Cái thấy này là chánh kiến tương đối về một đối tượng nào đó. Đối với người chưa viên mãn được chánh kiến ( huân tập chánh kiến chưa đầy đủ), chung quanh chánh kiến nầy có một số tà kiến ở bình diện ý thức hoặc vô thức ( unconscious) bu quanh ngăn cản ám chướng, khiến khởi lên “tâm không chấp nhận”, và như thế , tâm xả cũng không thể xảy ra. Thử nhìn theo một bình diện khác: theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh ( Chương Sáu Pháp- Hội Chúng), 4 giai đoạn chót của lộ trình giải thoát là: 3.Viên mãn chánh kiến, 4.Viên mãn chánh định, 5. Từ bỏ các kiết sử , 6. Chứng ngộ Niết Bàn, ta thấy trong đó, giai đoạn 5 (từ bỏ các kiết sử) là giai đoạn mà tâm xả sẽ sinh khởi. Từ ngữ “kiết sử” có nghĩa là những sai khiến và ràng buộc vi tế, thuộc về nghiệp, gồm có 10 cái: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham cõi dục, tham cõi sắc, tham cõi vô sắc, sân hận, si vi tế, kiêu mạn, trạo cử vi tế. Đó là nhìn theo lối nhìn vĩ mô của những tháng ngày tu tập. Nhưng nhìn theo từng sát na của thời điểm tu tập ( vi mô), một hành giả có thể xả được ở thời điểm nầy mà không xả được một thời điểm khác nào đó, tùy theo đối tượng của thiền ở mỗi lúc.
Trong khi hành thiền về quán tâm, chợt có một ý tưởng nào đó khởi lên. Nếu ta vội xua đuổi nó đi, là ta lọt vào trạng thái ghét bỏ, còn nếu ta chìu theo nó và các liên tưởng tiếp theo xuất hiện làm thành một chuỗi, là ta lọt vào trạng thái bám nắm. Cả hai trường hợp nầy đều không phải là tâm xả. Ngược lại, nếu ta không dung dưỡng nó và cũng không xua đuổi nó, và thấy rằng : “ A ! bộ mặt thật của mày là như vậy đó ! “ Có thể ví như khi một người mẹ cho đứa con mình một viên kẹo ngọt, đứa con liền sáng mắt vui mừng hớn hở, người mẹ thấy rằng “ A ! bộ mặt thật cùa mày là như vậy đó, thằng dởm ! ”.[ Đây là cái thấy trung lập đầy thông cảm với đứa con của mình]. Khi thấy được như vậy thì cái thấy nầy là một hiển bày, hiển lộ của Giác Tánh thuần khiết nguyên sơ, của Phật Tánh, của Chân Như. Chữ “mày” trong câu trên là chính cái ý tưởng khởi lên đó, mà qua nó, Giác Tánh Chân Như được lóe lên . Đây là dạng Báo Thân Phật ( với ý nghĩa là biểu lộ ra cho thấy ). Vì tâm không bám nắm hay ghét bỏ, ý tưởng tự đến rồi tự đi, không một dấu vết nào lưu lại trong tâm. Đây là tâm xả đích thật tại sát na đó. Đại sư Tây Tạng Tsele Natsok Rangdrol trong “ Lời tâm huyết cuối cùng lúc lâm chung” có mô tả trạng thái ấy như sau:
“Những gì xuất hiện và hiện hữu, thảy đều là sự hiển lộ diệu kỳ của cảnh giới bao la của Giác Tánh, thì cái thấy tối thượng chính là nhìn ra được tâm mình trong tình trạng tột cùng trần trụi nguyên sơ”.
Hay:
“ Tất cả những tư tưởng khởi hiện lên như là những biểu lộ của Tánh Biết Tự Nhiên ấy, cho dù là thô lậu hay vi tế, đừng phân tách chúng cũng đừng theo đuổi chúng, đừng lôi kéo chúng trở lại trong [kinh nghiệm] thiền định, cũng đừng ngăn cản chúng”.
Và:
“ Nếu chuỗi tư tưởng tiếp tục hoành hành thì chẳng cần đến pháp đối trị nào khác, bởi vì bất cứ cái gì hiện ra cũng sẽ tự giải phóng chính nó. Bất cứ điều gì hiện đến một cách tự nhiên cũng đều là sự chiếu toả chói ngời của chính tâm con. Hãy nhìn thẳng vào tâm ấy bằng cái nhìn sáng rõ linh động…”
Đối với phần đông chúng ta, mọi tư tưởng khi khởi lên đều không được tâm ta nhận dạng theo kiểu nầy, nên tất cả đều là vọng tưởng, chúng lôi kéo tâm ta như lôi xềnh xệch một xác chết một cách không thương tiếc, vòng hành samsara bắt đầu hoạt động và phát sinh ra thời gian [ tâm lý]. Khoảng cách giữa hai vọng tưởng, lúc mà tư tưởng nầy vừa diệt mất mà tư tưởng mới chưa khởi lên, là một khoảng vắng lặng của Chân Như, được gọi là Pháp Thân Phật, nhưng ít ai nhận thấy được nó vì do vô minh che lấp. Từ trong khoảng vắng lặng nầy của Chân Như, một ý tưởng được khởi lên trong tâm từ để cứu độ tha nhân, thì đó được gọi là Ứng Hóa Thân Phật. Đó là lý thuyết về Tam Thân Phật, gồm: Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Hóa Thân.
Chúng ta có thể thắc mắc rằng: tư tưởng của chúng ta khi nào là vọng tưởng, và khi nào là tư tưởng bất nhị thuộc bồ đề chân như ? - Chúng ta đều biết rằng mọi tư tưởng đều nằm trong thế nhị nguyên đối đãi giữa chủ thể ( người suy nghĩ) và đối tượng (đề tài suy nghĩ). Tùy theo chúng ta nhìn theo góc độ nào, hoặc từ chỗ đứng nào, thì tư tưởng khởi lên cũng sẽ sai khác như thế ấy. (Thí dụ đi vòng quanh một con voi để chụp chừng vài chục tấm hình với khẩu độ ống kính khác nhau, thì những hình chụp được, không có tấm nào giống tấm nào đã đành, nhưng không có tấm nào đại diện cho toàn thể con voi được). Điều nầy nói lên rằng cái thế nhị nguyên luôn luôn là lệch lạc, bất toàn, là dạng thể của vọng tưởng. Có tư tưởng nào vượt hơn cái bất toàn ấy không ? - Đó là tư tưởng bất nhị, thuộc về nhất nguyên. Hàm ý trong ví dụ trên là: chúng ta phải thể nhập vào con voi thì mới có thể mường tượng hay cảm nhận được con voi ra sao. Tư tưởng nào thể nhập vào thực tại thì đó là tư tưởng bất nhị, hòa nhập vào Giác Tánh, vào Chân Như. Người ta có thể nghi ngờ rằng: “Nhị và bất nhị không thể có cùng một lúc, nghĩa là không thể có vừa nhị nguyên vừa bất nhị , và như thế không có tư tưởng nào là bất nhị cả”. Thắc mắc nầy được Đại sư Tenzin Wangyal Rinpoche giải thích như sau trong “ Những Yoga Tây Tạng về giấc mộng và giấc ngủ (The Tibetan Yogas of Dream and Sleep):
“Lúc bắt đầu, rigpa và tư tưởng có vẻ khác nhau, đến nỗi trong kinh nghiệm về rigpa thì không có tư tưởng, và nếu tư tưởng khởi lên chúng ta bị phóng dật và mất rigpa. Nhưng khi sự vững chắc trong rigpa được phát triển, tư tưởng chỉ đơn giản khởi lên và tan biến mà không có chút che ám nào rigpa ; hành giả an trụ trong tỉnh giác bất nhị. Những tình huống này tương tự với học chơi trống và chuông đồng thời trong thực hành nghi lễ : lúc ban đầu chúng ta chỉ có thể làm được một thứ. Nếu chơi chuông, chúng ta mất nhịp điệu của trống, và ngược lại. Sau khi chúng ta đã vững chắc, chúng ta có thể chơi cả hai cùng một lúc…..”
( Rigpa tiếng Tây Tạng, có nghĩa là Tịnh Quang, Ánh sáng Chân Tâ m )
Tóm lại, tâm xả là yếu tố căn bản và tối hậu để đưa chúng ta vào chánh kiến tuyệt đối, hội nhập vào Tánh Không, vào Giác Tánh Chân Như trong từng sát na ( vi mô) của lộ trình tiến đến giác ngộ giải thoát ( vĩ mô). Lộ trình nầy là một công trình tu tập lâu dài để có được thói quen xả bỏ từ giây phút nầy qua giây phút khác. Khi thói quen nầy được thuần thục, nhuần nhuyển thì chân trời giải thoát mới từ từ ló dạng.
Lê Tâm Minh
21-7-2016
Hoặc là : tôi hiểu rành Phật pháp, hiểu biết thật nhiều kinh điển, có thể giảng thuyết nhiều ngày chưa hết, vậy mà tôi không muốn tu hành gì cả, ai tu thì tu đi chớ tôi không tu đâu.
Chánh ki ê
1) Chánh kiến tuyệt đối hay chánh kiến tối hậu hoặc chánh kiến siêu thế gian:
Khi chưa đạt tới trình độ “thấy cái một trong tất cả và tất cả trong cái một”, mỗi người trong chúng ta đều có cả chánh kiến lẫn tà kiến về vô vàn đối tượng trong cuộc sống. Vấn đề then chốt của người hành giả là có chánh kiến nhiều hơn tà kiến hay có tà kiến nhiều hơn chánh kiến, mỗi thứ chiếm chừng bao nhiêu phần trăm; điều nầy quyết định người hành giả nầy có tiếp tục tu được hay không, hoặc là có khả năng chứng đạo được hay không.
Nói một cách tuyệt đối thì chỉ có những bậc giác ngộ giải thoát mới có cái thấy đúng hay cái nhìn đúng về một sự vật hay một hiện tượng nào đó. Những vị nầy thấy được sự vật như là nó là { danh từ mà Krishnamurti gọi là “the what-is” }. Nó là một cái gì đó không có tên gọi, là một hiện thực, một thực tại, khi người nhìn ngắm ( chủ thể) đã thể nhập vào thực tại ấy (khách thể) trong trạng thái nhất nguyên. Thí dụ thấy một con chó như là con chó thuần túy, không sợ hãi, không yêu thích hay ghét bỏ gớm ghiếc, cũng không có tâm phân biệt chó lạ hay chó quen. Hoặc thấy một người đàn bà như là người đàn bà với thuần một nghĩa ấy, không có tâm phân biệt đẹp hay xấu, giàu hay nghèo, hấp dẫn hay không hấp dẫn, lạ hay quen v.v…… Người đời thường sống trong thế giới nhị nguyên đối đãi của tâm thức, luôn có tâm bám chấp hay ghét bỏ, nên không bao giờ có được chánh kiến về bất cứ sự vật gì. Mỗi người trong chúng ta mỗi ngày có thể có tới hơn 20 ngàn ý tưởng mà hầu hết đều là vọng tưởng, khởi sinh do những cái thấy sai lạc nầy. Thấy sai ắt sẽ nghĩ sai rồi làm sai. Nghĩ sai rồi lập thành tà thuyết và lan truyền, ắt đưa con người đến chỗ cực ác tập thể. Hậu quả là một thế giới điên đảo hỗn loạn đầy giết chóc đau thương.
Làm thế nào phân biệt được chánh kiến với tà kiến ? Trong Trường Bộ Kinh, đức Phật có giảng rõ về 62 món Tà kiến, là những ý nghĩ và luận cứ về thế giới và chúng sanh, vốn sai lầm từ căn bản, đưa đến vô minh và trói buộc, bít lấp con đường giải thoát.
2) Chánh kiến tương đối hay chánh kiến qui ước, hay chánh kiến thế gian:
Như vậy, một người đời bình thường có thể có được chánh kiến hay không ? - Chánh kiến có thể có được ở người Phật tử chịu khó học hỏi trau dồi giáo lý của đạo Phật, tuy chưa đắc đạo giải thoát, nhưng đây là một cái nhìn, một cái thấy tương đối đúng trên con đường tu tập để đạt đạo. Nói một cách dễ hiểu là : cái thấy lờ mờ, tuy còn vô minh, nhưng ít ra không sai bao nhiêu so với cái thấy của bậc giác ngộ như đức Phật, có thể ví như thấy một vòng tròn thành một vòng méo kiểu ellipse, hay thấy một hình chữ nhật thành một hình thang hay hình vuông. Tròn mà thành méo, chữ nhật mà thành vuông, đó có thể là do tư kiến cá nhân bị nhào nắn trong quá khứ bởi biệt nghiệp riêng hay cộng nghiệp chung của xã hội từng thời đại như văn hóa, chủng tộc, nơi chốn, v.v… Đây gọi là chánh kiến tương đối hay chánh kiến thế gian hoặc chánh kiến qui ước, là một cái nhìn, một cái thấy trong thế giới nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người quan sát ) và khách thể ( vật được quan sát ).
Chánh kiến thế gian nầy có thể được gọi một cách thực dụng dễ hiểu là : chánh kiến trong cuộc sống, đây chính là đề tài của bài viết nầy. Và ở đây, thế nào là Chánh kiến ?
Chánh kiến là cái nhìn nào, cái thấy nào…. mà xuyên qua nó chúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát, đến chỗ chánh kiến tuyệt đối của bậc giác ngộ. Từ ngữ “đi đến” hàm ý nghĩa là phải có sự tích cực, tinh tấn của chính bản thân mình, chứ nó không lôi kéo hay chở mình đi được nếu mình không chịu đi. Thật vậy, nếu “thấy” và không chịu tu thì cũng vô ích, rồi lại lăn lộn tranh giành chụp giựt ngoài đời, tà kiến lại mọc thêm đầy dẫy đè bẹp chánh kiến, khiến nó bị thui chột đi mất, và mình sẽ không có cơ hội phục hồi lại cái thấy ấy được nữa. Chữ “ đi đến” cũng hàm ý nghĩa rằng phải có những pháp tu kèm theo, là những bước kế tiếp. Từ ngữ “đi đến được” hàm ý nghĩa rằng theo con đường đi nầy chúng ta sẽ thành công, khác với con đường của tà kiến rằng càng đi, càng xa rời mục tiêu giác ngộ giải thoát. Đến đây chúng ta thấy rằng, người có tà kiến nhiều hơn chánh kiến thì khó có thể đi vào pháp tu Bát Chánh Đạo của Phật được, vì cái cổng trước “Chánh kiến” đã khép lại với họ. Có thể ví chánh kiến như một cái ”visa” để được phép nhập vào một quốc gia; quốc gia đó là căn nhà của Như Lai.
Dưới đây chúng ta có thể có ít nhiều thí dụ :
- Thấy một người đàn ông như là kẻ phải đem lại cho mình nhiều tiền của, hoặc thoả mãn tình dục cho mình để sanh con đẻ cái. Đây là một tà kiến vì nó không đưa đến giải thoát, chỉ làm tăng thêm tham sân si.
- Thấy cõi đời nầy là nơi để hưởng phước báu hay để hưởng lạc thú. Đây là một tà kiến, vì làm nghiệp chướng thêm sâu dầy. Ngược lại, nếu thấy cõi đời nầy là cõi đọa lạc dễ dàng, thì đây là một chánh kiến, giúp hăng hái tu tập. Tuy nhiên nếu hăng hái tu tập với mong ý được giàu có hay phước báu, thì đây là một tà kiến.
- Thấy cõi đời hay vật chất trên đời là thuộc về mình. Đây là tà kiến, vì mai mốt chết đi hoặc tài sản khánh tận thì đau khổ vô cùng.
- Thấy vợ hay chồng của mình là thuộc về mình, là một tà kiến. Ngược lại, thấy họ chỉ là một chúng sanh bình thường; đây là một chánh kiến, vì họ có thể làm nhiều điều mà mình không ngờ tới.
- Thấy việc tu hành là phải thực hiện, nhưng việc hưởng thụ lạc thú trần gian cũng không thể bỏ qua. Đây là một tà kiến. Tham cả hai thứ như thế là cùng, cái nào cũng ôm lấy hết, không còn chỗ cho giác ngộ !
- Tu hành cốt để chữa bệnh và có sức khoẻ là một tà kiến ( vì đây không phải là mục tiêu mà đức Phật muốn nhắm tới ), tuy nhiên nếu để giữ mạng sống tiếp tục tu với mục tiêu giải thoát thì là chánh kiến.
Tóm lại, theo tôi, chánh kiến lớn lao và cơ bản nhất trong đời sống của chúng ta là:
Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ.
Tôi gọi đây là “Chánh kiến lớn lao và cơ bản “, vì nếu không có nó, tức là không có cái nhìn nầy, mọi cái thấy về mọi đối tượng đều là tà kiến. Nói tóm gọn, người không có Chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy có thể được gọi là “người đầy tà kiến”. Khốn khổ thay, hầu hết nhân loại ngày nay, trong đó chúng ta là một thành phần, đều đầy tà kiến. Và danh từ “ người đầy tà kiến” sẽ được dùng dưới đây để chỉ những ai không có Chánh kiến lớn lao và cơ bản nói trên.
Bất kể là người tu hay kẻ tục, nếu không nhìn đời bằng Chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy, đều sẽ đọa lạc. Xa hơn nữa, cũng có thể hiểu cõi đời là cõi đang bị đọa lạc trong cái thân xác tứ đại có sanh già bệnh chết nầy, trong khi từ vô thủy trước kia là cái thân ánh sáng thong dong không cần ăn uống.
Thiết nghĩ các vị đệ tử của đức Phật ngày xưa đã có đủ Chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy khi đi theo ngài. Nếu so sánh với các vị ấy, chúng ta sẽ xét mình là ai, căn cơ ra sao, có khát khao đi tìm chân lý như họ không, có nhìn đời được như thế không ? Sau đó, chúng ta có thể xác định pháp tu thích hợp cho mình.
Nếu thấy cõi đời là nơi để hưởng thụ, chúng ta sẽ đi tìm phước báu bằng mọi giá. Phước báu đâu chưa thấy, chưa sờ tới được thì đã phạm nhiều tội ác rồi. Địa ngục chờ sẵn không sai chạy.
Và, đối với bậc Bồ Tát tái thế, Chánh kiến của các ngài là :
Cõi đời là nơi rất tốt để thực hiện tình thương của mình đối với tha nhân hay các chúng sanh hữu tình khác.
3) Chánh kiến và Tam Vô Lậu học:
Trong Tam Vô Lậu học ( Giới Định Tuệ), Giới là yếu tố đầu tiên và căn bản để có Định và Tuệ. Giới có thể được ví như một cái ách tròng vào cổ để nó dẫn dắt mình đi đúng đường. Tuy cốt lõi của việc giữ giới là ở tâm, chứ không phải ở hành động, nhưng hành động xấu nào cứ lập đi lập lại mãi không chừa, ắt trở thành thói quen khó chữa, sẽ ăn sâu vào tận trong tâm phủ ( A Lại Da thức) thành những tập khí sanh tử. Dầu có thông minh mẫn tuệ lúc thức, nhưng trong lúc mê man tàng tịch, chẳng hạn như trong giấc mơ hoặc trong trung ấm thân sau khi chết, thói quen nầy sẽ đóng vai trò chủ động trong mọi tâm ý và hành động của chúng ta. Tôn giả Ưu Ba Ly, một trong 10 vị đại đệ tử của đức Phật, là đệ nhất về giới luật, mà trước tiên là về uy nghi trong cung cách đi đứng nằm ngồi.
Chúng ta không nên coi thường thói quen, vì nó luôn là hành tung của những chủng tử trong A Lại Da thức. Những chủng tử ấy có hoạt tính mạnh mẽ hay thui chột đi mất, là do ở chúng ta nuôi dưỡng kích hoạt nó, hay bỏ bê nó đến chết. Trì giới, ngoài việc giữ cho tâm ý trong sạch, còn tạo ra những thói quen tốt cần thiết để kềm chế những tập khí sanh tử, khiến chúng khó nổi dậy . Chúng ta không nên coi thường cung cách đi đứng nằm ngồi hoặc nói năng. Tuy chỉ là thói quen, là giới luật của thân thể, nhưng nó quyết định tâm ta lúc nào không hay. Thí dụ như người có thói quen nhìn ngó láo liêng như nhìn ngắm đàn bà chẳng hạn, là kích hoạt cho cái tâm bất chánh, lâu ngày biến thành tánh dâm khó bỏ. Hoặc người có tính thích cãi cọ, ban đầu chỉ là cãi lại khi nghe người ta nói sai, nhưng sau thì quen dần, bất kể là ai nói đúng hay sai, cũng cố cãi cho được.
Có sáng rõ trong cái thấy ( chánh kiến) thì mới sáng rõ trong cách hành xử ( behaviour)
Có sáng rõ trong cách hành xử thì mới sáng rõ trong giấc mơ.
Có sáng rõ trong giấc mơ thì mới sáng rõ trong trung ấm thân sau nầy.
Bốn giai đoạn “ Cái thấy, Hành xử, Giấc mơ, Trung ấm” là 4 chặng đường mà hành giả phải trải qua trong quá trình tu tập, nếu muốn được giác ngộ giải thoát. Cái thấy là giai đoạn đầu tiên nên nó hết sức quan trọng. Thí dụ, nếu trong thân trung ấm mà không có chánh kiến, khi thấy các vị thần hung nộ áp đảo dọa giết mà không biết đó là do chính tâm của mình biến hiện ra, hoặc không biết đó là các vị Bồ tát thị hiện để giúp mình thấy tánh của mình, liền sợ hãi co giò bỏ chạy, ắt đọa địa ngục, hoặc là thấy nam nữ giao hợp liền thèm thuồng và ganh tị, đẩy người cha ra để chiếm lấy người mẹ, kết quả là phải nhập thai không trở ra được nữa. Chánh kiến là quan trọng như vậy. Do đó, đức Phật đã đặt Chánh kiến là đề mục thứ nhất trong giáo pháp của ngài về Bát Chánh Đạo ( Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định).
Hiện nay có rất nhiều hành giả về thiền không chịu tìm hiểu giáo lý cho cặn kẽ mà nghĩ rằng cứ ngồi thiền miên mật lâu dài thì chánh kiến sẽ tự bật ra. Điều nầy là hoàn toàn sai lầm, hoặc may ra chỉ có thể đúng đối với những hành giả có chánh kiến nhiều hơn tà kiến. Chánh kiến là bước đầu trong Bát Chánh Đạo chứ không phải là bước cuối cùng.
Dưới đây chúng ta sẽ bàn đến sự quan trọng của chánh kiến trong tiến trình tu tập Tam Vô Lậu học.
Đầu tiên là Giới hạnh, câu hỏi được đặt ra là : Người đầy tà kiến có thể giữ giới được hay không ?
Một người Phật tử , bất kể là cư sĩ tại gia hay tu sĩ trong chùa, nếu không có cái nhìn thấy rằng: “Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ” ( Chánh kiến lớn lao và cơ bản nói ở phần trên), khi tiếp cận với luyến ái hay dâm dục, chẳng những không chừa bỏ mà còn ôm thêm vào : “hôm nay hưởng cho đã đi, ngày mai sẽ tu bù lại”, hoặc nếu không tệ hại như vậy thì cũng giữ giới hạnh một cách gượng ép. Tâm họ luôn bị giằng co bởi điều nên làm ( giới luật) và điều mình cảm thấy, chẳng hạn như thấy da thịt thơm tho chứ không thấy gì là bất tịnh khi ý tưởng dâm dục khởi lên. Điều nầy dẫn tới cho họ thất bại trong pháp “Quán thân bất tịnh”. Và, khi ngồi thiền hay đi hành thiền, họ cũng không có được sự toàn tâm, chẳng hạn như khởi lên ý nghĩ “giờ nầy không biết con của mình ở nhà có đói bụng chưa ?” hay “ giờ nầy mình không kiếm ra được đồng nào, trong khi bạn mình đi bán chắc cũng kiếm được khẩm tiền rồi ! ” . Tâm bị chia chẻ làm hai nơi, không có toàn tâm, tức là mất chánh niệm. Ở thầy Tỳ kheo thì hiếm có những ý tưởng na ná như vậy len lỏi trong lúc hành thiền, nhất là thiền ở nơi thâm sơn cùng cốc . Đây là sự khác biệt lớn lao giữa tại gia và xuất gia, hay giữa Ưu Bà Tắc hoặc Ưu Bà Di và Tỳ kheo. Người đời, thấy được sự khác biệt lớn lao nầy mà vẫn tu độc nhất pháp tu của Tỳ Kheo là tự đánh giá cao bản thân mình vậy.
Về Định, câu hỏi được đặt ra là: Người đầy tà kiến có thể thiền định được không ?
Theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh: [Kinh Tăng Chi Bộ: Chương 6 Pháp (IV) (68) Hội Chúng]
1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy ưa thích hội chúng, vui thích hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng, ưa thích đồ chúng, vui thích đồ chúng, chuyên tâm ưa thích đồ chúng, vui thích đồ chúng sẽ hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, sự kiện này không xảy ra. Không hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, vị ấy sẽ nắm giữ tướng của tâm, sự kiện này không xảy ra, Không nắm giữ tướng của tâm, sẽ làm cho viên mãn chánh kiến, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn chánh kiến, sẽ làm cho viên mãn chánh định, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn chánh định, sẽ từ bỏ các kiết sử, sự kiện này không xảy ra. Không từ bỏ các kiết sử, sẽ chứng ngộ Niết-bàn, sự kiện này không xảy ra.
2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không ưa thích hội chúng, không vui thích hội chúng, không chuyên tâm ưa thích hội chúng, không ưa thích đồ chúng, không vui thích đồ chúng, không chuyên tâm ưa thích đồ dùng, không vui thích đồ dùng, không chuyên tâm ưa thích đồ dùng, sẽ hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, sự kiện này có xảy ra. Hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, vị ấy sẽ nắm giữ tướng của tâm, sự kiện này có xảy ra. Nắm giữ tướng của tâm, sẽ làm cho viên mãn chánh kiến, sự kiện này có xảy ra. Làm cho viên mãn chánh kiến, sẽ làm cho viên mãn chánh định, sự kiện này có xảy ra. Làm cho viên mãn chánh định, sẽ từ bỏ các kiết sử, sự kiện này có xảy ra. Từ bỏ các kiết sử, sẽ chứng ngộ Niết-bàn, sự kiện này có xảy ra.
Đoạn kinh văn trên cho chúng ta thấy các bước tiến triển trên quá trình tu tập của các vị Tỳ Kheo hướng đến giải thoát như sau:
1. Vui vẻ sống viễn ly- 2. Nắm giữ tướng của tâm- 3. Viên mãn chánh kiến- 4. Viên mãn chánh định-
5. Từ bỏ các kiết sử- 6. Chứng ngộ Niết Bàn.
Vui vẻ sống viễn ly tức là hạnh A Lan Nhã, chỉ có thể có được ở những người có Chánh kiến lớn lao và cơ bản đề cập ở phần trên. Từ đó suy ra, người đầy tà kiến không thể nào đắc đạo được vì từ việc không có chánh kiến dẫn tới không có chánh định trong thiền định. Tóm lại điều kiện cần có cho sự giác ngộ giải thoát là “ Tỳ Kheo A Lan Nhã”. Trong số chúng ta đây, có ai sống được như một tỳ kheo đúng nghĩa chưa, nói chi đến A Lan Nhã nữa ? Đa số người đời bây giờ không là Tỳ Kheo, hay nói một cách chính xác hơn là- không sống như một Tỳ Kheo, lăn lộn vào đời bon chen chụp giựt đầy tham sân si và đầy tà kiến, chỉ hiểu được một ít giáo lý hoặc kinh điển, rồi ngồi thiền bằng pháp tu của Tỳ Kheo, với hy vọng sẽ đắc đạo trong kiếp nầy, thật là nằm mơ ! Chúng ta phải biết mình là ai ? Có đủ tư cách để tu theo pháp tu của Tỳ Kheo hay không ? Nếu không, thì phải nghĩ ra một lối thoát nào khác cho vấn đề nầy.
Trong giáo lý đạo Phật, chúng ta đã được nghe qua danh từ “Đại Thừa phương đẳng” với chữ “phương đẳng” có nghĩa là bốn phương đều bình đẳng, là pháp tu dành cho những ai không phải là Tỳ Kheo, ám chỉ những người đời bình thường không xuất gia. Thế mà người đời bây giờ lại đổ xô tu thiền theo phương pháp của Tỳ Kheo, tự cho rằng mình đi đúng đường và chỉ có Phật giáo nguyên thủy mới đúng. Người đời mà tu như vậy, tuy rằng “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc”, nhưng theo tôi, hy vọng chứng ngộ chỉ là một ảo tưởng, vì đức Phật đã nói: “sự kiện nầy không xảy ra” ( sự kiện nầy tức là sự chứng ngộ Niết Bàn) trong kinh Sáu Pháp nói trên. Và hơn nữa, nếu nghi ngờ các kinh điển Đại thừa là sai, ắt sẽ đọa địa ngục : với Đại thừa thì hủy báng, với Thừa Nguyên thủy Theravada thì còn đứng ở ngoài chưa vào được, không có điểm tựa, không rơi vào địa ngục thì đi đâu ? Và còn điều quan trọng nữa là mất đi cơ hội học hỏi và thực hành những pháp hành trì của Đại thừa rất cần thiết cho những người có nghiệp chướng sâu dầy, như là Mantra, hay Tổng trì Đà La Ni .
Gần đây, song song với ý niệm bác bỏ Đại thừa để gọi là “ trở về nguồn cội của đạo pháp”, một tà kiến đang lan tràn và hoành hành. Đó là sự phân biệt “đức Phật lịch sử” và “đức Phật tôn giáo”. Ý niệm phân biệt nầy nhằm phủ nhận những vị Phật như A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ tát, Địa Tạng Bồ tát, v.v….và chỉ chấp nhận đức Phật lịch sử là Thích Ca mà thôi. Sự phân biệt đức Phật lịch sử và đức Phật tôn giáo với mục đích báng bổ nầy không khác gì một người đốt một ngọn đèn dầu cháy suốt đêm mà lại thắc mắc rằng “ ngọn đèn dầu trong canh ba có phải là ngọn đèn dầu trong canh hai hay không ? “ - Dĩ nhiên là 2 ngọn đèn có khác nhau đó, nhưng không là chính nó thì là cái gì ?
Giáo lý về duyên khởi pháp (Pratyasamutpada ) của Phật dạy cho chúng ta thấy rằng trên thế gian không có sự hiện hữu nào độc lập, mà là hiện hữu trong thế tương quan, gồm tương liên (interdependence), tương tác và tương tạo ( conditioning co-production) thì ý niệm tách rời Phật lịch sử và Phật tôn giáo là một tà kiến, nhằm chia rẽ Phật giáo, vốn là một cây đại thọ có nhiều cành nhánh khác nhau. Đối với cây đại thọ nầy, chúng ta chỉ là những con khỉ, nhưng phải là con khỉ thông minh, biết cành nhánh nào vừa tầm thì nắm lấy, không buông bỏ nó để nắm tới cành cao khi chưa đủ sức vói tới. Khi có đủ sức lên cao rồi (có đủ chánh kiến) thì mới nắm lấy cành cao. Nếu không làm như vậy thì không có cành nào để nương tựa, ắt sẽ té nhào xuống đất.
Cái thứ ba trong Tam Vô Lậu Học là Tuệ giác, thiết nghĩ khỏi cần phải đặt câu hỏi, vì câu trả lời đã rõ ràng rồi.
4) Chánh kiến và Mantra:
Trước khi tìm hiểu mối liên quan giữa Chánh kiến và Mantra, chúng ta thử đặt câu hỏi căn bản nầy: Ý tưởng hay tư tưởng có thể tạo ra được chánh kiến hay không ? Hoặc là tư tưởng có sức mạnh như thế nào?
Tây Tạng có câu: “Trong thân của con lừa phải biết thưởng thức hương vị của cỏ “ ( theo Những Yoga Tây Tạng về giấc mộng và giấc ngủ của đại sư Tenzin Wangyal Rinpoche), hàm ý rằng : trong thân con người, phải biết tận dụng sức mạnh của tư tưởng. Vì sao như vậy ? Vì chỉ có con người mới có thể truyền đạt tư tưởng và hiểu biết lẫn nhau qua phương tiện của ngôn ngữ. Chúng ta không thể dạy cho con gà hay con chó về cách thức niệm Phật chẳng hạn.
Ngày xưa bên Tàu có câu chuyện ảo “ Tăng Sâm giết người” để nói lên sức mạnh của sự lập đi lập lại trong ý nghĩ. Tăng Sâm bỏ nhà ra đi rất lâu. Mẹ của Tăng Sâm ở nhà, thỉnh thoảng được người xa tới báo tin rằng : “Tăng Sâm giết người”. Ban đầu bà không tin, vì biết con mình là người hiền lương. Nhưng sau một thời gian dài có nhiều người cũng tới báo tin như thế, bà trở nên nghi ngờ rồi sau cùng biến đổi thành niềm tin chắc thực rằng con bà đã giết người, trong khi điều đó không hề có xảy ra.
Sức mạnh của ý nghĩ có thể có được là do nó hằn sâu trong tâm trí lâu ngày bằng cách thức lập đi lập lại. Thí dụ, một người có tánh hay nói dối, nếu biết chịu khó kiên trì niệm đọc câu: “ Tôi không thích nói dối “ từ vài trăm lần, rồi tiếp tục vài ngàn lần, rồi vài chục ngàn lần, cho đến vài trăm ngàn lần trở lên, sau đó, sẽ thấy tánh nói dối đã biến đi đâu mất từ lúc nào rồi. Đó là cách sử dụng Mantra trong việc tu sửa tâm tánh. Nếu câu Mantra ấy là một chánh kiến lấy trong kinh điển của Phật, người hành giả sẽ có được chánh kiến ấy sau một thời gian hành trì nào đó.
Chánh kiến có thể được phân biệt làm 2 loại cạn và sâu. Chánh kiến cạn chỉ là một tư tưởng thoáng qua, chỉ ở trong bình diện ý thức ( consciousness), không có hoạt tính. Chánh kiến sâu là chánh kiến thường trực có hoạt tính mạnh mẽ, thấm nhuần từ bình diện ý thức ăn sâu vào vô thức (unconsciousness), tức là lúc thức hay lúc ngủ mơ cũng đều có cái thấy giống nhau.
“ Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ “. Với cái nhìn đúng, cái thấy đúng nầy của câu Mantra đó, Phật tử nào rèn luyện được vài trăm ngàn biến trở lên, khiến nó ăn sâu vào tim óc, sẽ khó mà phạm trọng giới, và dĩ nhiên sẽ dễ dàng đạt được tiến bộ nhanh chóng trên đường đạo. Tóm lại, chánh kiến không phải tự dưng mà có, mà phải do xây dựng, rèn luyện mới có. Nếu chỉ hiểu biết được một chánh kiến nào đó, dù lấy được từ giáo lý, hay trích được trong kinh điển, thì đó chỉ là một tư tưởng thoáng qua trong số khoảng 20 ngàn tư tưởng mỗi ngày, không đủ mạnh để trở thành một chánh kiến trường trực. Đọc Mantra hay niệm chú cho đủ túc số là một cách để củng cố cái nhìn, cái thấy đúng, tức chánh kiến. Trên đường tu, người không có chánh kiến cũng giống như người không có xương sống, chỉ có thể bò lết, không thể ngồi dậy được, nói chi đến đứng dậy hoặc đi hay chạy, hoặc cũng giống như người đang trôi dạt trên biển mà không vớ được một cái cột trụ hoặc một chiếc bè, ắt phải bị sóng gió vùi dập trong biển khổ sanh tử luân hồi. Chớ để một chánh kiến chỉ là một tư tưởng thoáng qua, mà phải làm cho nó được ghi nhớ một cách mạnh mẽ. Hãy củng cố nó, để nó mọc gốc mọc rễ, vững vàng trong tiềm thức ( A Lại Da thức).
Mantra có 2 loại : loại ngôn ngữ hiểu được, và loại tiếng Phạn thường được gọi là thần chú. Riêng về thần chú, ý nghĩa của bài chú cần được tìm hiểu để cho ý nghĩa ấy ăn sâu vào tìềm thức khi niệm đọc. Nên nghiên cứu bản kinh gốc mà đức Phật thuyết về bài chú đó, nếu không dịch nghĩa từng chữ được thì ít nhất phải biết ý chỉ của bài chú hoặc cách thức niệm đọc sao cho khế hợp với tâm ý diễn tả trong bản kinh, thí dụ niệm chú Đại bi thì phải có tâm thương người, nếu không có cái tâm nầy thì chỉ là vô ích mà thôi. Lại nữa, nếu có tâm nghi cũng không được ( xem Kinh Đại bi Quán Âm hay kinh Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm Đà La Ni ). Bước đầu niệm đọc Mantra hay Đà La Ni nên đọc lớn tiếng chỗ vắng vẻ, cho nhĩ căn thâu nhận, sẽ khiến mau thuộc. Khi đã thuộc rồi, có thể nhẩm đọc nhỏ trong miệng và không cần nhìn vào tờ giấy nữa. Lúc mình đọc, những vị khuất mặt khuất mày như vong linh hoặc chư thiên, chư thần, chư thánh không cần nghe âm thanh đọc của mình, mà chỉ thấy biết tâm của mình mà thôi. Vì vậy, niệm đọc cần phải thành tâm, đó là điều quan trọng nhất.
Đại sư Tây Tạng Tsongkhapa, vị tổ của tông phái Gelugpa ( là tông phái của đức Dalai Lama 14 hiện nay), cũng đã hành trì niệm tụng vô số thần chú Kim Cang Tát Đỏa, và nhiều pháp khác ( thuộc loại lập đi lập lại) của Kim Cang Thừa.
Đức Dalai Lama đã thuyết giảng rằng: “ vì ta không thể thay đổi được thế giới, nên ta phải thay đổi chính tâm ta” Điều nầy có thể được hiểu rộng ra rằng: nếu ta có tâm thương yêu, từ ái, ta sẽ sống trong thế giới của tình thương, trong đó kẻ nào không thích hợp như có tánh ghét ganh chẳng hạn, sẽ dọn gánh đi chỗ khác, vì ta không phải là đối tượng ghét ganh của họ, hoặc là họ không đi chỗ khác và thay đổi, hết ghét ganh. Như vậy có phải là chúng ta thay đổi được thế giới hay không ?
Ta có thể dùng Mantra để thay đổi chính tâm ta, là một cách rèn luyện tâm tính tốt, và tạo những chánh kiến cốt lõi cho giác ngộ. Dưới đây là một vài Mantras có thể áp dụng.
- Mantra trừ dâm dục ( M3):
“ Dâm dục là hôi tanh nhơ nhớp. Thân người là một cái túi da chứa đầy máu mủ, đờm dải, mồ hôi, phẩn, nước tiểu, thật là gớm ghiếc. Nhập vào bào thai cũng là hôi tanh nhơ nhớp. Tôi quyết không nhập thai và cũng không tái sanh vào bất kỳ nơi nào trong 6 cõi luân hồi . Tôi chỉ nguyện về cõi Phật A Di Đà. Tôi chỉ nguyện về cõi Phật A Di Đà…
-Mantra tan rã bản ngã ( M9):
Trên thế gian nầy, tôi không là gì cả, vì tôi đã tan rã. Và như thế, không có gì là tôi và cũng không có gì thuộc về tôi.
-Mantra trừ tánh tham ( M10):
Đời là cõi tạm, một ngày gần đây tôi sẽ lìa xa nó, tôi có thể chết bất cứ lúc nào. Mỗi thích thú là một cám dỗ. Ham thích bất cứ thứ gì, hoặc là ham muốn được hiện hữu, đều dẫn tới tái sanh và luân hồi trong 6 nẻo.
Mỗi ngày đọc một trong những Mantras nầy 108 biến. Sau 3 tháng hãy tự để ý, sẽ thấy tâm mình biến đổi ra sao. Riêng về Mantra trừ dâm dục, nếu ta thật sự nhận thức được rằng dâm dục chính là đầu mối của sinh tử luân hồi, sự bỏ công phu niệm đọc như vậy cho đến hết cuộc đời cũng là điều đáng làm. Niệm đọc một năm trở lên sẽ thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc. Nếu đọc được 1 triệu biến trở lên và thêm bài chú Lăng Nghiêm nữa thì kết quả không gì sánh bằng .
Người hành trì Mantra hay Đà La Ni đủ túc số rồi, không cần phải e sợ lắm về cận tử nghiệp sau nầy. Dầu cận tử nghiệp có xấu ( do tai nạn xe cộ chết bất đắc kỳ tử như Sư cô Thích Nữ Trí Hải chẳng hạn) khiến đọa vào đường ác, hành giả nầy cũng chỉ bị đọa lạc ở chốn ấy ( chẳng hạn như địa ngục) một thời gian rất ngắn hạn, rồi thoát lên cõi cao liền sau đó. Điều nầy cũng tương tự như một cái cây bị đốn thình lình, ắt sẽ ngã xuống theo chiều nghiêng sẵn có của nó. Hoặc cũng có thể ví như một học sinh có trình độ tú tài mà bị xếp lầm vào lớp 8 chẳng hạn, sau vài tháng vào lớp học, thầy giáo phát hiện ắt phải đưa lên lớp cao hơn, ít ra là lớp 12.
Đó là nói về giá trị lợi ích của Mantra. Còn có một điều nữa cũng có giá trị tương đương, đó là Bồ đề tâm. Người nuôi dưỡng được Bồ đề tâm, bất kể là theo kiểu người chăn cừu ( giúp mọi người giải thoát trước, tôi giải thoát sau cũng được- Đến chỗ có nước, cừu uống nước trước), hoặc theo kiểu người chèo thuyền ( chúng ta cùng giải thoát một lượt hoặc chết chìm cùng một lúc) hay theo kiểu bậc quân vương ( ta đi trước đã đắc quả rồi, bây giờ dẫn dắt người đi sau) , cũng không bao giờ bị đọa lạc lâu ở cõi thấp, sẽ ở đó rất ngắn hạn ( xem Đại luận về Giai trình của đạo giác ngộ, Quyển 2 của Đại sư Tsongkhapa, Chương Nuôi dưỡng Bồ Đề tâm).
Vì vậy, thật may thay, ở cõi Ta Bà thời mạt pháp nầy, chúng ta đã có 2 vị cứu tinh :
1) Mantra hay Đà La Ni : Nam Mô Kim Cang Trì Vương Bồ Tát
2) Bồ Đề Tâm : Nam Mô Bồ Đề Tâm nguyện Bồ Tát
Với thực hành niệm đọc Mantra hay Đà La Ni, hành giả sẽ được các vị Kim Cang Trì ủng hộ gìn giữ , khiến luôn tinh tấn và có oai lực. Với Bồ Đề tâm luôn nuôi dưỡng, hành giả sẽ được chư thiên chư thần gần gũi ủng hộ, khiến mọi vướng mắc trong đời đều được hạnh thông.
Mong rằng tất cả chúng ta đều sớm có được đầy đủ chánh kiến, sắp hàng ngoài cổng trước, để bước vào căn nhà của Như Lai.
Lê Tâm Minh
10-4-2016
- Từ khóa :
- Tâm xả