1. Đối với những người cho rằng “Đi tu hiện nay là một nghề và phải nói là một nghề hái ra tiền” thì nội dung của họ
xoay quanh một số
vấn đề sau đây:
Thứ nhất, họ cho rằng đi tu
sở dĩ là một nghề và là “một nghề sướng nhất” vì không đòi hỏi vốn
kiến thức, không cần đầu tư tài chính mà chỉ cần thuộc vài ba
bài kinh là có thể “hành nghề” một cách dễ dàng.
Khi
hành đạo, không cần làm việc nhưng
tài sản, đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do
phật tử cung hiến cũng
quá dư thừa
cho phép những vị này có thể tiêu xài
thoải mái,
ăn uống no say,
vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn có ngay.
Nhà cửa được miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền và có người hầu hạ, kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở
cho đến nơi
thờ phượng thành cơ sở kinh doanh với giá cắt cổ từ cuốn sách
cho đến gói
thực phẩm (tất cả các hoạt đọng kinh tế đều theo
hình thức thu tiền mặt).
Thứ hai, với
dẫn chứng là các lễ lộc
tôn giáo không bao giờ có
tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho người nghèo mà phải
tuân theo từng bậc giá cả khác nhau.
Khi
phật tử đến xin lễ được các thầy cho giá đàng hoàng và thường tỏ vẻ không
hài lòng nếu như
phật tử đề cập đến giá cả của nhà chùa!
Tình trạng các thầy “hành nghề tôn giáo” với giá cắt
cổ phật tử một cách vô tội vạ, các lễ lạt được các thầy
ấn định giá... diễn ra ở nhiều nơi. Như việc tang chế, giá cả được
ấn định bao nhiêu tiền cho thầy đến tư gia, đến nhà xác để
tụng niệm; bao nhiêu tiền để tổ chức theo
hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ
tiễn đưa người
quá cố; bao nhiêu tiền để đưa tro cốt về chùa và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp
giàu sang hay
bình dân để thuê một cái hộc đựng hũ tro cốt người chết. Tiền nhiều thì nhà chùa tổ chức lớn, với nhiều thầy làm lễ và tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào thời điểm
thích hợp; còn ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những thời điểm không
thuận lợi cho người thân.
Chính việc một số thầy đòi hỏi giá cả để tổ chức những
buổi lễ đình đám cho
hôn nhân, cầu siêu,
an táng, đưa tro cốt về chùa... đã tạo cho
tín đồ phật tử những
tính xấu,
xem thường việc
linh thiêng tôn giáo,
đồng thời, tạo cho những
gia đình nghèo, thiếu
phương tiện bị
mặc cảm và
đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.
Thứ ba, họ đưa ra những
dẫn chứng,
hình ảnh đua nhau
xây dựng những ngôi chùa to lớn, đi xe sang, xài điện thoại sang... có tài xế riêng,
ăn uống có người hầu hạ “cơm bưng nước rót”, đi đâu cũng được
đón rước rầm rộ; rồi việc các thầy chùa đua nhau lên mạng
xã hội khoe những
hình ảnh phản cảm...trong khi đó, nhiều người bỏ công sức đi học bao nhiêu năm trong ghế nhà trường nhưng vẫn phải vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm
việc làm sau khi tốt nghiệp... để minh chứng cho việc “nghề đi tu” là một nghề ngồi mát ăn bát vàng.
Từ những
dẫn chứng đó, họ cho rằng, nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ
tu hành mà còn giúp họ nhanh chóng
trở thành triệu phú, lại không phải mất một giọt mồ hôi. Chỉ cần một sớm một chiều là có thể
trở thành kẻ ăn trên ngồi trước và được
trọng vọng nhất trong
thiên hạ.
Chính
vì vậy, có người muốn đi tu để
trở thành triệu phú một cách nhanh chóng, được
thiên hạ đội lên đầu,
chắp tay vái lạy, được
cung phụng đủ thứ, từ tiền bạc tới
danh vọng, thậm chí cả tình cảm!
Thứ tư, về
nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này chính là do việc
kính trọng người
tu sĩ một cách
quá đáng, có thể nói là
lố bịch của một số
phật tử đã làm hư các thầy,
đồng thời, biến các vị
tu hành trở thành Phật, là
thần thánh oai nghiêm và
quyền uy vô lượng, có quyền ban phát
ân huệ chứ không còn là nhữnk kẻ
tu hành hèn mọn mà những vị này đã
tâm nguyện hiến dâng để
trọn đời phục vụ chúng sinh.
Những
hình ảnh chắp tay cúi đầu “con lạy thầy” làm cho các
nhà tu hành quên hẳn
vai trò một người
tu hành để rồi những vị này tự
ban cho mình cái quyền
linh thiêng,
đại diện cho cõi trên ban phát
ân huệ cho
chúng sinh và bắt người
phàm tục phục dịch cho mình.
Hình ảnh của thầy tu ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc
trịch thượng bởi hai
lý do: Trước hết là số người sùng đạo có
thái độ tôn trọng thầy tu một cách
quá đáng: việc gì của thầy làm đều tốt, đều đẹp; lời thầy nói gì nghe cũng hay cũng phải. Thứ đến là một số
tín đồ cò mồi,
dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám lấy thầy, nhà chùa, theo sát thầy đánh trống thổi kèn,
chắp tay lạy sống và khúm núm trình thưa như đang đứng
trước mặt quan quyền, vua chúa
ngày xưa. Hành động này không những đưa “cái tôi” của các thầy lên tận mây xanh, những cái tầm thường,
xấu xa trong lòng các vị
tu hành đã không diệt được mà còn được
thường xuyên bơm lên thì “Tham, Sân, Si” trong lòng các vị
tu hành ngày càng lớn hơn người
phàm tục nữa!
2. Trái với những người nói trên, đa phần người
phật tử đều không coi “đi tu” là một nghề, cho rằng, việc “coi đi tu là một nghề” là
quan niệm tỏ
thái độ thiếu
thiện chí vì người
tu hành chân chính không ai coi đi tu là một nghề vì việc
tu luyện thân tâm rất
nghiêm khắc, không
đơn thuần,
dễ dãi mới
đạt được kết quả
chân thiện mỹ và
giải thoát,
giác ngộ. Việc coi đi tu là một nghề là
quan niệm ám chỉ một số ít người
lợi dụng tôn giáo để trục lợi, mưu
cầu lợi ích riêng...
Tuy nhiên, đối với những người không
quan niệm “đi tu là một nghề” cũng nêu lên một số
nguyên nhân dẫn đến việc có một bộ phận coi việc “đi tu là một nghề”. Đó là:
Thứ nhất, họ cho rằng, do trước đây trong một số văn bản pháp quy của Nhà nước, cán bộ Nhà nước thường coi
tu sĩ Phật giáo và các
tôn giáo nói chung là “những người
hành nghề tôn giáo”.
Cách dùng này không chỉ gây
ngộ nhận về
lý tưởng đi tu và
phụng sự nhân sinh của tăng sĩ
Phật giáo mà còn vô tình
xúc phạm đến
lý tưởng xuất gia của tăng sĩ vì khi cho rằng tăng sĩ
Phật giáo “hành nghề tôn giáo” thì người ta sẽ đánh đồng việc
tu hành cũng là “nghề để sinh sống”, từ đó không thấy được
giá trị đạo đức,
văn hóa,
xã hội và
tinh thần mà các tăng sĩ
Phật giáo đóng góp trong việc
cải thiện đời sống xã hội được
tốt đẹp hơn.
Thực tế, nhiều người
từ bỏ sự nghiệp thành công,
vai trò lớn trong
xã hội, vì
giác ngộ lý tưởng cao cả của
Phật giáo,
trở thành nhà đạo đức tâm linh,
trọn đời phụng sự,
xóa bỏ nỗi khổi niềm đau, mang lại an vui,
hạnh phúc. Khác với một số
tôn giáo khác, tăng sĩ
Phật giáo không
ăn lương, nặng về
hành trì và
đời sống đạo đức chứ không phải là bộc lộc,
quyền uy và chức tước. Đúng nghĩa các
tu sĩ Phật giáo là những người “vô sản” đúng nghĩa.
Thứ hai, họ cho rằng,
vẫn có hiện tượng những người
tu đạo có hành động,
lời nói phản cảm làm
ảnh hưởng tới
đạo đức Phật giáo mà đã được các đài, báo phản ánh khá rõ
gần đây nhưng
cần phải xem xét một cách khách quan ở từng
trường hợp, không nên “vơ đũa cả nắm”.
Số này cũng
thừa nhận, những người
tu đạo đang trên
con đường tu để chỉnh và sửa mình, họ chưa phải là
con người hoàn chỉnh, chưa “đắc đạo”, chưa đạt tới độ
trang nghiêm cần thiết theo
quy định giới luật của
tôn giáo nên nếu những
tu sĩ này có
vi phạm giới luật,
đạo đức cũng là việc
bình thường, họ cần có
thời gian và quá trình
tu tập,
rèn luyện mới có thể
chuyển hóa để
đạt được chuẩn mực của người
tu sĩ. Việc một số người không
tu đạo,
lợi dụng tôn giáo (như việc giả sư đi
khất thực, đi bán hương, đi
quyên tiền...) không những làm
ảnh hưởng xấu tới
Phật giáo mà còn
vi phạm pháp luật bởi
hành vi giả danh, trục lợi. Bên cạnh đó, có một số người
tu đạo nhưng sống cuộc sống thiếu
phạm hạnh, làm
ảnh hưởng xấu tới
hình ảnh tôn giáo, “con sâu làm rầu nồi canh”.
3. Sau khi đọc các bài viết và các
ý kiến tranh luận như trên, cùng với việc
tìm hiểu của
bản thân, tôi xin đưa ra một số
ý kiến như sau:
Một là,
Phật giáo đã có hơn hai nghìn năm hình thành và phát triển tại
Việt Nam và là
tôn giáo phổ biến nhất ở
Việt Nam hiện nay; nhà chùa, tăng, ni là những
hình ảnh mà người dân Việt nhiều đời
tôn trọng,
thành kính.
Văn hóa truyền thống đã dạy cho người Việt
chúng ta kính trọng các bậc
tu hành vì họ là những người đã
dứt khoát khỏi
trần tục,
từ bỏ giàu sang,
danh vọng, phú quý để tìm
con đường tu thân, từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống
thánh thiện,
chân thiện mỹ. Các vị tu sỹ
Phật giáo là những
con người đã
từ bỏ được ba cái tầm thường “Tham, Sân, Si” của giới
phàm tục,
quyết định xa
gia đình, dứt bỏ phú quý,
danh vọng để tự nguyện
trở thành kẻ
phục vụ chúng sinh, lấy
tinh thần từ bi hỷ xả làm
lý tưởng để lo cho
đời sống tâm linh con người,
đồng thời chấp nhận làm kẻ
thấp hèn trong
xã hội cũng như
quên mình để hiến dâng cho lý tưởng! Chính
vì vậy,
hình ảnh các tăng sỹ
Phật giáo luôn được người dân Việt
kính trọng.
Hai là, do sự
hiểu biết của một bộ phận
phật tử còn rất
hạn chế, lại không được hướng dẫn một cách chu đáo nên dẫn đến
tình trạng kính trọng thầy tu một cách
quá đáng và có thể nói là rất
lố bịch, coi thầy tu như là Phật, là
thần thánh, có quyền
ban phước,
giáng họa nên
cung phụng các vị
tu sĩ một cách thái quá! Chính những điều này làm cho một bộ phận không nhỏ
tu sĩ không
chuyên tâm tu tập, tự coi mình là bề trên và việc
phật tử cung phụng, hầu hạ là điều đương nhiên! Từ đó, dẫn đến buông lỏng việc
tu tập và
đi vào con đường hưởng thụ, sống cuộc sống
phóng túng. Bên cạnh đó, có một bộ phận
Phật tử lợi dụng hình ảnh của người thầy tu để trục lợi cho
bản thân, tạo thành “liên minh, liên kết” giữa
phật tử, doanh nhân và thầy tu để trục lợi! Đây chính là
nguyên nhân khiến cho nhiều người nghĩ rằng “đi tu là một nghề” mà là nghề dễ dàng nhất, không cần đổ mồ hôi mà vẫn được hưởng lợi!
Ba là,
hiện tượng các thầy tu đặt giá cho các khóa lễ không còn là
hiện tượng hiếm mà đã trở nên
phổ biến, đi đến đâu cũng có thể nghe, có thể thấy, nhất là đối với các ngôi chùa ở phía Bắc. Việc này còn được một bộ phận “cò mồi”
kết hợp để “kinh doanh” và
lợi dụng sự
cuồng tín của một số đông
phật tử nên ngày càng trở nên trầm trọng! Mới nghe qua chắc nhiều người sẽ giật mình nhưng thực sự là có những khóa lễ có giá tới cả bạc tỷ! Các thầy tu càng
nổi tiếng thì lại càng được
trọng vọng và giá để mời các thầy này làm lễ sẽ càng cao! Hơn nữa, số tiền thu được từ những việc này lại không bao giờ phải nộp thuế và không bao giờ bị kiểm toán! Do đó, cứ mặc sức đặt giá và mặc sức thu tiền.
Vì vậy, nhiều người nhìn thấy
tu hành là một nghề rất dễ dàng kiếm tiền, không cần đầu tư tiền bạc, công sức.
Bốn là,
hiện tượng một số
tu sĩ Phật giáo,
giả danh tu sĩ Phật giáo nên đã sống cuộc sống thiếu
phạm hạnh,
lợi dụng tôn giáo (như việc giả sư đi
khất thực, đi bán hương, đi
quyên tiền hoặc thậm chí
lợi dụng uy tín,
hình ảnh của thầy tu để
lừa đảo, chiếm đoạt
tài sản...) diễn ra ở nhiều địa phương khác nhau và ở nhiều cấp khác nhau; việc
báo chí phản ánh về các
hiện tượng vi phạm giới luật, có hành động,
lời nói phản cảm làm
ảnh hưởng tới
đạo đức Phật giáo đã và đang làm cho
hình ảnh người
tu sĩ Phật giáo trở nên méo mó. Hơn nữa, số này khi bị phát hiện thường bao biện rằng, họ đang trên
con đường tu để chỉnh và sửa mình, họ chưa phải là
con người hoàn chỉnh, chưa “đắc đạo”, chưa đạt tới độ
trang nghiêm cần thiết theo
quy định giới luật của
tôn giáo nên nếu những
tu sĩ này có
vi phạm giới luật,
đạo đức cũng là việc
bình thường, họ cần có
thời gian và quá trình
tu tập,
rèn luyện mới có thể
chuyển hóa để
đạt được chuẩn mực của người
tu sĩ.
Do vậy, họ “cứ sai đi vì
cuộc đời cho phép”, sai rồi sửa chứ có gì đâu mà phải ồn ào! Hơn nữa, một số người cho rằng,
vẫn có tình trạng các vị
tu sĩ có chức trách còn có những
việc làm chưa đúng thì người nhỏ, mới tu như mình thì sai một chút cũng có sao!
4. Tôi là người kính ngưỡng
đạo Phật cũng như
hình ảnh người
tu sĩ Phật giáo. Tôi cũng tin vào
luật nhân quả, gieo nhân nào thì sẽ gặt quả ấy, các vị
tu sĩ vi phạm sẽ phải chịu những
hậu quả do
hành vi của mình gây ra!
Tuy nhiên, việc các
tu sĩ sống cuộc sống thiếu
phạm hạnh,
vi phạm giới luật, thậm chí là
vi phạm pháp luật đã gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới
uy tín của người
tu sĩ nói riêng và
uy tín của GHPGVN nói chung;
hình ảnh chư tăng, ni trong con mắt
phật tử và
nhân dân thực sự đang đặt ra những
vấn đề cấp bách.
Thời gian qua đã có
hiện tượng biến thái trong
Phật giáo:
tu sĩ tự tử vì
sử dụng ma túy,
tu sĩ đưa gái vào chùa ngủ qua đêm,
tu sĩ lừa đảo tình và tiền, tự tử vì
thất tình...).
Nguyên nhân sâu xa của
vấn đề này không chỉ do sự kính ngưỡng
tu sĩ một cách
quá đáng của một bộ phận
phật tử mà còn do
bản thân của những
tu sĩ này thiếu sự
kiên trì tu hành, việc đi tu của họ có thể phát xuất từ một động cơ không
thanh tịnh, thiếu
lý tưởng phụng sự và
bản thân họ không thể
phụng sự nhân sinh đúng với
tinh thần “từ bi,
vô ngã, vị tha” theo lời
đức Phật dạy.
Quan trọng hơn công tác
quản lý của
Giáo hội đối với tăng, ni ngày càng
thể hiện sự
yếu kém; qua các vụ việc trên chưa thấy
vai trò của
Giáo hội trong việc
giải quyết các vụ việc
phức tạp xảy ra ngay từ cơ sở; thường các vụ việc
vi phạm giới luật xảy ra, khi chính quyền và
nhân dân phát hiện thì
Giáo hội mới biết và biết cũng để đó chẵng có
biện pháp xử lý
minh bạch nào.
Chính việc này đang bị các
thế lực xấu
lợi dụng để
phỉ báng Phật giáo, thậm chí người của các
tôn giáo khác đã mở các trang mạng
xã hội để
thóa mạ Phật giáo làm xấu
hình ảnh của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các
hiện tượng trên
nếu không sớm được xử lý,
giải quyết thì sẽ gây
hậu quả khôn lường!
Việc
giải quyết vấn đề này không thể
dựa vào ai khác mà phải chính
Phật giáo đứng ra
giải quyết, cần
kiên quyết loại bỏ những
tu sĩ vi phạm nghiêm trọng giới luật để lập lại
kỷ cương,
trang nghiêm Giáo hội.
Chỉ có như vậy mới thực sự phát huy
vai trò đạo đức của
Phật giáo trong đời sống
đạo đức xã hội, xứng đáng là tổ chức
kế thừa truyền thống huy hoàng của
Phật giáo Việt Nam.
Thành ToànGhi chú: Bài viết
thể hiện quan điểm, cách hành văn và góc nhìn riêng của
tác giả, một người kính ngưỡng
đạo Phật hiện đang sinh sống tại Hà Nội.
Nguồn: http://phatgiao.org.vn/y-kien/201609/di-tu-khong-phai-la-mot-nghe-24176/
Đọc thêm:
Đi tu có phải một nghề? (Hồng Minh)