PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Thiền sư Ajhan Thate
Sư Tâm Pháp dịch
NHỮNG BƯỚC ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG
Họa, phúc nghiệp riêng mỗi bản thân
Chẳng ai tạo nghiệp của tha nhân
Một người không thể gây tai họa
Hạnh phúc cho ai ở cõi trần.
Tiểu Bộ Kinh
THIỀN VIỆN VIÊN KHÔNG
Khu 2, Ấp 4, xã Tóc Tiên,
huyện Tân Thành, Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tài sản giàu sang chẳng vững vàng
Đời người trên thế giới vô thường,
Từ vô thường, biết vô thường ấy
Người trí đi tìm chỗ trú an
Tiểu Bộ Kinh
“Thấy tốt đừng vội mừng, gặp xấu chớ vội chán. Đừng đánh giá, phán xét, mà hãy nhìn cả hai như chúng thực sự đang là.
Cả tốt lẫn xấu đều cắn người, ta chớ nên nắm giữ chúng”.
Thiền sư Ajhan Cha
Thiền sư Ajahn Thate
Thiền sư Ajahn Thate là một trong những Đại Trưởng lão được kính trọng nhất trong Phật Giáo Nguyên Thủy Thái Lan và nổi tiếng trên thế giới như một thiền sư khả kính. Sinh năm 1902 và trải qua hơn 70 năm sống trong cuộc sống của một nhà sư hạnh đầu đà, Thiền sư Ajahn Thate là một trong những đệ tử cao niên nhất thuộc thế hệ những người “cha đẻ” của truyền thống đầu đà, những nhà sư chuyên hành thiền trong rừng sâu ở miền Đông Bắc Thái Lan: đó là Cố Đại trưởng lão Thiền Sư Ajhan Mun (1870-1949) và Cố Đại trưởng lão Thiền sư Ajahn Sao (1860-1942). Ngoài số lượng đệ tử đông đảo ở Thái Lan, Thiền sư Ajhan Thate cũng tiếp nhận và dạy thiền cho rất nhiều đệ tử người Tây Phương. Nhiều bài pháp của Ngài đã được chuyển dịch sang tiếng Anh, và cuốn sách này là một trong số đó.
Tiểu sử cuộc đời Ngài bắt đầu từ thời niên thiếu sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở một vùng quê nghèo đói nhất Thái Lan, cho đến khi trở thành Trụ trì của Tu viện Hin Mark Peng. Vào năm 14 tuổi, Ngài xuất gia và gia nhập một nhóm các nhà sư hạnh đầu đà, sống một cuộc đời lang thang nơi rừng sâu núi thẳm, không gia đình, không nhà cửa. Cuộc sống của các vị Tỳ kheo hạnh đầu đà thực hành giống như những vị Tỳ kheo nguyên thủy từ thời Đức Phật còn tại thế. Mục tiêu trung tâm của pháp hành này là thực hành thiền với mục đích chứng ngộ Niết-Bàn. Cuộc đời một nhà sư đầu đà nay đây mai đó của Thiền sư Ajahn Thate đã đưa Ngài đi khắp mọi nơi, từ Thái Lan, qua Miến Điện, sang Lào. Ngài thường kể cho các đệ tử của mình nghe không những chỉ những kinh nghiệm của Ngài trong các chuyến du hành trong cuộc đời tu hạnh đầu đà qua những nơi rừng rậm đầy thú dữ, những đỉnh núi hoang sơ không một dấu chân người, mà còn cả về những khó khăn, trở ngại cũng như những nấc thang tiến bộ trên con đường phát triển tâm linh của chính mình.
Đại Trưởng lão Thiền sư Ajhan Thate là một trong những người lãnh đạo của Phật Giáo Thái Lan, bên cạnh đó, Ngài cũng thực hiện nhiều việc phước thí và ủng hộ cho các chương trình xã hội như phát triển nông thôn, xây dựng trường học và bệnh viện cho dân chúng. Trân trọng và tri ân công đức của Ngài, nhà Vua Thái Lan đã thành kính phong tặng Ngài nhiều phẩm vị Hoàng gia trong Giáo hội Phật giáo Thái Lan.
Giáo Pháp và những lời dạy chân tình được trình bày trong cuốn sách này là thành quả của cả một cuộc đời cống hiến cho lẽ thật và trí tuệ của Ngài.
Lời giới thiệu
Lời nói đầu
Nhân duyên cuốn sách này ra đời là do đức tin của một người Phương Tây gốc Do Thái, Tiến sỹ Philip, ông đến Thái Lan năm 1963 để học Phật Pháp, khi đó tôi đang ở tại đảo Phuket…Ông đã đề nghị tôi viết lại cho ông một số điểm hướng dẫn hành thiền giản lược và ngắn gọn để ông tiếp tục thực hành: những điểm đó phải thể hiện được giá trị đích thực của thiền, cách thức thực hành, thực hành thế nào là đúng, thế nào là sai và cụ thể cần phải sửa chữa những sai lầm đó như thế nào trong quá trình thực hành. Tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ đem lại lợi ích cho những người có hứng thú hành thiền.
Nếu có điều gì trong cuốn sách này không đúng với sự thật, thì tôi xin được nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm, bởi vì tôi biết mình vẫn còn thiếu kinh nghiệm về mặt tri thức, trong lĩnh vực thực hành, về kỹ năng viết lách và về kiến thức nhiều mặt khác nữa. Nếu những bậc thiện trí có đọc qua cuốn sách này, và có những sửa chữa, góp ý gì thêm để chỉ bảo cho tôi thì tôi xin vô cùng biết ơn và cảm tạ.
Tác giả
Thiền sư Ajahn Thate
1. Một điểm giáo lý cơ bản của Phật Pháp là thân và tâm của chúng ta luôn luôn làm việc cùng với nhau, nhưng thân luôn luôn chịu sự điều khiển của tâm. Chính tâm là cái ra lệnh cho thân làm điều này điều nọ, nhưng khi thân rã rời mệt mỏi, thì tâm lại cần phải sách tấn, khuyến khích nó lên. Tâm không nằm dưới sự kiểm soát của hệ thống thần kinh, mặc dù não bộ có thể được xem là một cơ quan trung tâm, đầu não. Khi thân này chết đi, tan hoại đúng theo bản chất tự nhiên của tất cả mọi pháp, thì tâm – nếu các nhân duyên cần thiết của phóng dật thất niệm, tham ái, dính mắc và nghiệp vẫn còn hiện hữu – sẽ phải tái xuất hiện trở lại ở trong cảnh giới này hoặc cảnh giới khác và phải tiếp tục phải gánh chịu khổ đau.
2. Để đoạn trừ hoàn toàn sự phóng dật, thất niệm quên mình, sự tham ái, dính mắc và nghiệp – là những thủ phạm chính – thì trước hết chúng ta phải đoạn giảm những hành động và lời nói bất thiện thô tháo bằng cách giữ giới trong sạch, tương ứng và phù hợp với điều kiện của cuộc sống của chúng ta. Nói cách khác, người cư sỹ cần giữ 5 giới và thỉnh thoảng nên giữ bát quan trai giới (8 giới); Sadi cần giữ 10 hay 20 giới, một vị Tỳ kheo cần giữ đầy đủ 227 điều giới xuất gia cơ bản, cùng với việc giữ gìn cách sinh sống nuôi mạng chân chánh trong sạch, thu thúc căn môn và chân chánh thọ dụng tứ vật dụng đúng như Đức Phật đã cấm chế.
Khi giới luật còn chưa thanh tịnh, thì tâm bạn vẫn chưa đủ sẵn sàng để được huấn luyện. Thậm chí nếu bận vẫn cứ cố thực hành luyện tâm ngay, thì công phu đó cũng không thể dẫn đến tiến bộ và tăng thượng trong Giáo Pháp được, bởi vì nền móng của nó vẫn còn chưa đủ vững vàng để tiến bước trên đạo lộ cao thượng –chúng ta có thể nói rằng như thế vẫn chưa là quy y Tam Bảo.
Một người Phật tử chân chánh trước hết phải có
đức tin vững vàng nơi Tam Bảo và giữ gìn ngũ giới cho trong sạch.
Bát Chánh Đạo và Tam học (Giới-Định-Tuệ) là trái tim của Phật giáo – không làm các việc ác, làm tất cả hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch – phải được bắt đầu từ việc giữ giới, tuân giữ những nguyên tắc đạo đức cơ bản. Đó là lý do tại sao trong Phật giáo, giới hạnh là sự khởi đầu của một cuộc đời tu tập.
Bước tiếp theo là huấn luyện tâm để phát triển định tâm (sāmadhi) và các tầng thiền an chỉ định (jhāna) bằng pháp hành thiền chỉ. Khi tâm đã thuần thục trong việc duy trì một mức độ chú tâm vững chắc, liên tục, khi đó chúng ta sẽ phát triển tuệ quán (vipassanā) dựa trên sự hiểu biết về ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã. Nó sẽ dẫn chúng ta đến tri kiến thanh tịnh về mọi sự vật, hiện tượng như chúng thực sự là, và do đó sẽ giải thoát chúng ta khỏi tất cả những phiền não, ô nhiễm trong tâm.
3. Trong đạo Phật, mục đích thực sự của việc phát triển tâm định và các tầng thiền an chỉ là để tập trung năng lực tinh thần và làm cho chúng trở nên vững mạnh, bền chắc, tập trung vào một đề mục duy nhất. Rồi sau đó, định tâm này sẽ tạo nền tảng cho việc quán chiếu để thu được tuệ giác đích thực về tất cả các điều kiện, quan hệ nhân quả của tự nhiên và đoạn trừ mọi phiền não, lậu hoặc trong tâm. Do đó, tu tập thiền chỉ, sự an tĩnh vắng lặng trong tâm, là không phải là để vì bất cứ mục đích nào khác, không phải để dành cho các mục tiêu bên ngoài như ứng dụng vào các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Mà thay vào đó, nó đặc biệt được dùng để thanh lọc nội tâm khỏi các loại phiền não, như là năm triền cái (nīvarana- 5 pháp chướng ngại của tâm). Song khi đã thực hành đến mức độ thuần thục, thì bạn cũng có thể sử dụng nó theo bất cứ cách nào mình muốn, miễn là không làm hại cho chính mình và người khác.
4. Trong công việc huấn luyện tâm, bản thân nó vốn là một công việc thuộc tâm linh, thì các phương tiện vật chất như gông cùm, dây trói chẳng có tác dụng gì. Tâm phải được huấn luyện bằng cách rèn dũa, dạy bảo, trước tiên là nghe những lời chỉ dẫn của một người thầy có kinh nghiệm, rồi sau đó hạ quyết tâm thực hành theo những lời chỉ dạy đó. Những cố gắng ban đầu cần phải dựa trên nền tảng của đức tin, nếu như những cố gắng khám phá, tìm hiểu của bản thân mình về các quan hệ nhân duyên chưa đủ để thành công.
Nói chung, những người bắt đầu từ việc tự mình khám phá, phân biện nhân duyên thường không đạt được mục tiêu mong muốn, bởi vì họ vẫn còn thiếu sự thực hành đúng đắn. Họ đã đi lệch ra ngoài chánh đạo và thường có xu hướng thiên lệch, sai lầm bởi chính những tư dục, tư kiến của chính mình. Trước hết bạn phải đặt lòng tin vào người thầy hướng dẫn cho mình và vào pháp hành mình đang theo đuổi cho đến khi tâm bạn đã vững vàng, không dao động, rồi sau đó khám phá và nhận thức tất cả mọi sự việc đúng như chúng đang là. Đây chính là cái sẽ mang lại cho chúng ta những thành quả đáng mong ước.
Đó là bởi vì bất cứ một sự quán xét, phân biện và khám phá ban đầu nào về quan hệ nhân duyên cũng thường chỉ là sự tìm hiểu, nhìn ngắm từ bên ngoài sự việc mà thôi, và thường bị tác động bởi các điều kiện bên ngoài – ví dụ như “người này đã nói thế này, người kia đã bảo thế nọ…”. Nhưng khi quán chiếu và phân biện nhân duyên chỉ nội trong phạm vi cơ thể chúng ta mà thôi – chẳng hạn như: “Thân này do đâu hợp thành? Làm thế nào những bộ phận trong thân được hình thành và thực hiện chức năng của mình một cách tốt đẹp? Nó được sử dụng vào mục đích gì? Cái gì giữ cho nó hoạt động được như vậy? Có phải xu hướng nhất định của nó là sẽ ngày càng lớn mạnh hay sẽ tan hoại đi? Nó thực sự có phải là của tôi không?”. Rồi sau đó đi sâu khám phá các hiện tượng của tâm – “Tham, sân, si, yêu, ghét…sanh khởi ở trong thân hay trong tâm? Chúng đến từ đâu? Khi chúng sanh khởi, thì chúng là lạc hay khổ?” – để lý giải, khám phá và quán chiếu mọi sự việc hoàn toàn bên trong chúng ta theo cách này, quán chiếu trong nó và quán chiếu về chính nó, đó chính là quá trình huấn luyện tâm.
Song nếu định tâm của bạn chưa đủ vững mạnh thì đừng nên lý giải theo những gì bạn đã đọc trong sách vở hoặc nghe người khác nói, bởi vì ngay cả khi bạn suy nghĩ, lý giải mọi việc ra như vậy thì nó cũng không thể dẫn bạn tới chân lý được đâu. Nói cách khác, nó sẽ không dẫn bạn tới sự yếm ly và buông bỏ. Vì vậy, thay vào đó, hãy khám phá và quán chiếu tất cả mọi sự việc theo nhân duyên mà chúng thực sự sanh khởi trong tâm chúng ta, ngay chính trong hiện tại.
5. Tâm quán chiếu và phân biện mọi sự việc phù hợp với những quy luật riêng của nó như vậy sẽ có xu hướng tập trung hoàn toàn vào việc khảo sát một điểm riêng biệt nào đó của một đối tượng duy nhất. Điều này được gọi là nhất tâm. Đây là sự tập trung năng lực của tâm để có được một sức mạnh vĩ đại, có khả năng nhổ bật được tham ái, tà kiến chấp thủ, và thanh lọc nội tâm trở nên sáng suốt và minh triết. Ở mức độ ít nhất, bạn cũng sẽ chứng nghiệm được một sự bình an, một cảm giác cực kỳ khoan khái dễ chịu của thân và tâm, và có thể một loại tri kiến bất ngờ nào đó sẽ sanh khởi. Đó không phải là sự tưởng tượng, mà xuất phát từ nhân duyên của thực tại đang hiện hữu, theo một cách chưa từng có trước đây. Ngay cả khi đó là những điều bạn đã từng mơ hồ cảm nhận từ lâu, nhưng chỉ đến bây giờ chúng mới thực sự là của bạn, nó làm cho tâm bạn trở nên sáng suốt, xua tan mọi hoài nghi và băn khoăn về những điều vướng mắc bấy lâu. Bạn sẽ tự nói với chính mình, với một sự mãn nguyện và nhẹ nhõm sâu xa, rằng: “Đúng thế, chính nó là như thế!”.
Đối với những người căn cơ chậm lụt, thì mặc dù đã được như vậy, họ vẫn không dám tin tưởng và mừng vui với tri kiến đó cho đến khi có người xác nhận, ấn chứng cho họ hay khi tìm ra được những lời dạy của Đức Phật trong kinh điển xác chứng cho những gì họ mới khám phá. Điều này cũng phù hợp với thực tế là, những người theo đạo Phật có rất nhiều loại người căn cơ khác nhau.
Loại tri kiến này, dù nhiều và rộng đến đâu, cũng không làm cho tâm trí của bạn trở nên nặng nề, quá tải. Mà ngược lại, nó làm tĩnh lặng tâm trí, làm cho bạn thực sự khoan khái, dễ chịu, mang lại một sự sáng suốt vô cùng và làm tươi mới hệ thống thần kinh của bạn. Đồng thời nó cũng làm nội tâm và phong thái của bạn trở nên tinh tế hơn. Hình ảnh đó có tác dụng khuyến khích và sách tấn người khác rất nhiều. Bất cứ điều gì bạn nói hay làm, bạn sẽ làm một cách chánh niệm, không hề cẩu thả, vội vàng. Một khi điều này đã đến với bạn, bạn sẽ cố gắng duy trì nó và không để sự tự mãn và phóng dật tăng trưởng trong mình.
Đây chỉ là những kinh nghiệm cá nhân và không phải là sẽ xảy ra trong tất cả mọi trường hợp. Nhưng dù sao, khi huấn luyện tâm mình theo cách trên, nếu không đạt được những kết quả đầy đủ như vậy thì bạn cũng kinh nghiệm được một sự an lạc, dễ chịu vô cùng to lớn, tương ứng với mức độ thực hành của bạn. Bạn nên gìn giữ trạng thái tâm này. Đừng để tâm tham, sự ham muốn, thất vọng hay chán nản sanh lên. Giữ cho tâm quân bình và tiếp tục thực hành như cách tôi đã trình bày ở trên, thực hành với một lòng tin vững chắc. Hãy chánh niệm, cẩn trọng và luôn quan sát ở tất cả mọi giai đoạn thực hành của bạn, rồi khi đó bạn sẽ đạt được những thành quả mình mong muốn.
6. Nếu thực hành theo bước 4 và 5 như trên mà không đạt kết quả, thì hãy tập trung chánh niệm và sự chú tâm liên tục trên một đối tượng duy nhất hay một hình ảnh nào đó trong tâm và sử dụng nó như là một đề mục cho mình. Chẳng hạn, bạn có thể chú tâm vào một phần thân thể – xương hay một cơ quan nội tạng nào đó – để thấy ra được bản chất đáng nhờm gớm của chúng. Hoặc bạn có thể chỉ cần đơn giản chú tâm vào chính sự chánh niệm đơn thuần – bởi vì tâm là một thứ không thể thấy được bằng mắt thịt. Nếu không tập trung chú tâm vào một điểm duy nhất như thế, bạn sẽ không thể hay biết được rằng đề mục hiện đang có mặt hay không. Tâm chúng ta giống như ngọn gió: nếu nó không xúc chạm với một vật gì, bạn sẽ không thể biết được nó có đang hiện hữu ở đó hay không.
Như vậy, cũng như nắm bắt một ngọn gió, nếu một hành giả sơ cơ không có một đề mục cho tâm mình, vị ấy sẽ không thể nắm bắt được tâm. Nhưng xin các bạn đừng chọn một cái gì bên ngoài thân thể mình làm đề mục. Hãy lấy một phần thân mình làm đề mục cho tâm, như tôi đã giải thích ở trên. Khi đã có một mục tiêu như vậy rồi thì bạn hãy tập trung vào đề mục phù hợp với mình đó. Đừng tham lam, trước hết hãy làm ít một đã rồi sau sẽ làm thêm chút nữa.
Trong khi chú tâm, hãy quán chiếu đề mục phù hợp với những nguyên tắc quán chiếu của thiền Tứ Niệm Xứ (satipatthāna). Nói cách khác, bạn hãy dùng cách quán chiếu loại trừ dần trong thân cho đến khi có thể thấy ra rằng: “Cái này không phải là tôi, không phải là của tôi”.
Có hai cách quán chiếu tập trung để đạt được tri kiến này:
a) Khi chú tâm hoàn toàn vào đề mục, đừng nghĩ rằng đề mục đó là cái gì hay ai đang tập trung chú tâm vào đó. Hãy chỉ đơn giản là đang có chánh niệm và hành động chú tâm hiện hữu mà thôi. Đừng thực hành bất cứ một hình thức niệm thầm hay định danh nào cả. Chỉ đơn giản thấy có một cảm giác duy nhất, nó khiến bạn cảm thấy mình đang gắn chặt vào đề mục, nhưng chớ suy nghĩ xem đề mục đó là gì.
b) Khi chú tâm hoàn toàn vào đề mục, thì đồng thời cũng tự hay biết rằng: “Đây là đề mục của tâm. Đây là tâm đang quán chiếu. Đây là chánh niệm, hành động ghi nhớ, gìn giữ đề mục trong tâm. Đây là sự phân biện, thấy rõ thực tướng của đề mục đang quán chiếu”.
Cả hai cách đều sử dụng được, mặc dù cách thứ nhất phù hợp hơn đối với những người mới hành thiền và những người chưa phát triển lắm về độ nhạy cảm của tâm. Phương pháp thứ hai phù hợp với những người nhạy cảm và có kinh nghiệm. Tuy nhiên, cả hai phương pháp này, nếu bạn thực hành chuyên cần, sẽ mang đến cùng một kết quả, đó là định và tuệ.
7. Trong khi huấn luyện tâm như trên, cho dù bạn chọn thực hành theo phương pháp nào, cũng đừng băn khoăn, nghĩ ngợi xem mình có đạt được định và tuệ hay không. Và cũng bỏ qua một bên tất cả những lời đồn đại, những kinh nghiệm chứng được theo lời kể của những người khác. Chỉ cần thực hành đúng theo phương pháp đã được trình bày ở mục 6, rồi bạn sẽ thành công.
Đồng thời, quán sát lại cách thực hành bạn đã làm để thấy rõ cách mình đem tâm về lại với đề mục như thế nào, cách mình giữ chánh niệm ra sao, và đã đem lại những kết quả gì cho tâm mình. Nếu thực hành theo cách đó làm cho tâm bạn thêm sáng suốt và ngày càng mở ra, thì hãy tiếp tục thực hành như vậy cho đến khi bạn trở nên thuần thục và có thể thực hành quán chiếu được trong mọi lúc. Nhưng nếu không được kết quả như vậy, hay có khi kết quả ngược lại, thì ngay lập tức hãy sử dụng năng lực quán sát của mình theo cách đã nêu ở trên để điều chỉnh và sửa đổi lại cách thức thực hành cho đúng.
Trong lúc quán sát cách thức vận hành của tâm khi đang được huấn luyện như vậy, một số người còn có thể quán sát được chính trạng thái tâm đó trong khi họ vẫn đang ở trong nó. Một số người thì chỉ quán sát được khi tâm đã ra khỏi trạng thái đó và dừng lại tĩnh lặng trong một vài khoảnh khắc. Cả hai cách đều được. Nó chỉ phụ thuộc vào cá tính và căn cơ của từng người mà thôi. Nhưng nếu không sử dụng đến năng lực quán chiếu thì bạn sẽ rất khó đạt được tiến bộ trong việc huấn luyện tâm, ngay cả khi có đạt được một cách hú họa thì cũng rất khó để duy trì được nó.
8. Trong khi huấn luyện tâm như vậy, có thể có một hiện tượng lạ lùng bất ngờ xảy ra ngoài ý muốn của mình. Đó là tâm đột ngột rút lui khỏi đối tượng bên ngoài và tập trung vào một thực tại duy nhất, loại bỏ tất cả mọi thứ tên gọi, danh xưng hay ý niệm về quá khứ hoặc tương lai. Chỉ còn lại mỗi chánh niệm đơn thuần đi cùng với đối tượng đang hiện hữu trong hiện tại mà thôi. Nó không hề còn dính dáng gì đến “bên trong” hay “bên ngoài” nữa – một hiện tượng lạ lùng đối với chính tâm trí mình, như thể tất cả mọi thứ vừa trải qua một cuộc cách mạng.
Đó là lúc tâm đã trở lui lại tầng mức của riêng nó, dòng tâm hữu phần (bhavanga-hộ kiếp tâm). Trong khoảnh khắc đó, tất cả chỉ còn lại mỗi tâm. Dù rằng cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, nhưng khi tâm trở lại tầng mức này, nó buông bỏ tất cả mọi dính mắc với thân mình, và đi vào bên trong để kinh nghiệm mỗi đề mục của chính nó, tất cả đều tự diễn ra. Nó được gọi là Bhava-citta, tâm trở lui lại tầng mức của chính nó. Lúc này vẫn còn toàn bộ ngũ uẩn đang tồn tại, và do đó vẫn kinh nghiệm được sanh và hữu, và vẫn tạo nên một đời sống mới trong tương lai.
Khi tâm đạt đến tầm mức này, nó giống như là ngủ thiếp đi hay đang nằm mơ vậy. Sự khác biệt chỉ tùy thuộc vào mức độ chánh niệm có được bao nhiêu mà thôi. Những người chánh niệm và có độ cảm nhận cao sẽ ý thức được những gì đang diễn ra khi nó mới xảy đến, ý thức được những gì mình đang kinh nghiệm và do đó sẽ không buồn chán hay hứng thú với nó. Những người căn cơ chậm lụt và không có nhiều chánh niệm sẽ giống như người vừa ngủ thiếp đi và mơ màng. Khi đó, họ thường bị giật mình hay bị lạc hướng vì những hình ảnh tình cờ thấy được. Nhưng khi đã tự huấn luyện đến mức độ thuần thục và có thể khiến cho trạng thái này thường xuyên diễn ra, chánh niệm của họ sẽ tăng trưởng và những hình ảnh đa dạng đó sẽ biến mất. Dần dần họ sẽ có được tuệ giác cho đến khi thấy rõ được các pháp tự nhiên như thực sự chúng đang là.
9. Hiện tượng vừa nói đến ở trên, mặc dù không đem lại sự phân biện cần thiết để khám phá mối quan hệ nhân duyên trong phạm vi rộng, song vẫn là một giai đoạn sơ khởi trong tiến trình luyện tâm. Nó có thể trấn áp được 5 triền cái, đồng thời mang lại một cảm giác an lạc và dễ chịu trong hiện tại. Nếu được trưởng dưỡng một cách thích hợp đến mức không bị thối hóa, nó sẽ dẫn đến một cảnh giới tái sinh tốt đẹp trong tương lai, phù hợp với quy luật của nghiệp báo.
Hầu hết các hình ảnh hay những ấn chứng đủ loại của thiền thường xuất hiện trong giai đoạn này. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng khi tâm đạt đến mức độ này thì các hình ảnh đó sẽ xuất hiện trong tất cả mọi trường hợp. Chúng xuất hiện chỉ vào một lúc nào đó và chỉ với một số người mà thôi. Đối với những người khác hoặc vào thời điểm khác, chúng sẽ không xuất hiện. Đây cũng là một vấn đề thuộc về căn cơ và cá tính cá nhân của hành giả và nó cũng tùy thuộc vào cả các điều kiện khác nữa.
Nói hết sức chân thực thì những hình ảnh và ấn chứng xuất hiện trong quá trình thiền tập này chỉ tốt đối với những hành giả có căn cơ cao và đủ bén nhạy đến mức có thể vượt qua được chúng. Đối với những người này, khi nhìn thấy những hình ảnh như vậy, họ không bị dính mắc vào chúng và không coi chúng như là tự ngã của mình hay một cái gì đó thuộc về mình. Họ chỉ thấy hình ảnh đơn giản chỉ là hình ảnh mà thôi, vừa đủ để sử dụng chúng chỉ như là một công cụ hay là một nơi an trú, tĩnh dưỡng tạm thời cho tâm, rồi sau đó thì buông bỏ nó.
Đối với những người không đặc biệt chánh niệm và tỉnh giác, những người căn tánh chậm lụt, khi có các hình ảnh và ấn chứng khởi sanh họ sẽ hết sức phấn khởi và thậm chí còn bị mê muội đi đến mức mất liên hệ với thực tại, bởi vì họ tin rằng những hình ảnh đó là có thật. (Tôi sẽ nói thêm về cách đối phó với các hình ảnh và ấn chứng trong mục 11 dưới đây).
Thêm nữa, một số người khi đã luyện tâm đạt đến mức độ này thường rất cứng đầu và bảo thủ, hay chấp giữ ý kiến của mình, đó là vì năng lực tâm của họ rất mạnh. Khi họ nghĩ về một vấn đề gì đó, họ có xu hướng chỉ nhìn nó từ một phía mà thôi. Họ không dễ để tâm đến ý kiến của người khác, bởi vì họ tin chắc rằng ý kiến của họ mới thực sự là hợp lý và đáng tin - mặc dù những tư kiến đó chỉ là để phục vụ cho mục đích vị kỷ và rất phi lôgic, thiếu hợp lý. Chúng có thể dễ dàng bẻ cong cách nhìn của họ đối với sự việc.
Nhưng dù sao, cho dù các hình ảnh đó có xuất hiện hay không thì đó cũng không phải là cái chúng ta thực sự muốn thủ đắc ở đây, bởi vì bên cạnh việc đó là phiền não, che ám trí tuệ, nó còn là một trở ngại trên đường phát triển tuệ giác sáng suốt của bạn. Mục đích huấn luyện tâm (thực hành thiền chỉ tịnh) là để vượt qua được 5 triền cái, để rồi sau đó quán chiếu ngũ uẩn, khiến chúng trở nên rõ ràng, để thấy rõ thấy đúng thực tướng của chúng cho đến khi bạn cảm thấy nhàm chán, xuất ly, không còn hứng thú với chúng nữa rồi buông bỏ, không bao giờ còn mong muốn lao vào và chấp giữ chúng nữa.
10. Khi đã huấn luyện tâm đủ vững vàng, an trú tâm vững chắc trong các tầng thiền an chỉ định hay với một mức độ tập trung đủ mạnh để trấn áp 5 triền cái, khi đó bạn mới phát triển tuệ quán. Thực ra, tuệ giác có thể sanh khởi đồng thời ngay trong khi bạn đang thực hành thiền chỉ. Nói cách khác, tuệ giác sẽ bừng nở khiến bạn có thể thấy biết chân lý một cách rõ ràng, sáng suốt rằng: tất cả các hành (sankhāra) có sanh thì đều phải có diệt. Chúng không bền vững lâu dài. Chúng không phải là “tôi” hay “của tôi”, mà chỉ đơn giản là những nhân duyên tự nhiên vận hành theo quy luật riêng của chúng.
Khi tri kiến này sanh khởi trong bạn, nó sẽ làm cho tâm bạn trở nên nhàm chán và yếm ly khỏi tất cả các pháp hữu vi. Tâm sẽ hoàn toàn an trú một cách vững vàng trong trạng thái yếm ly, dù nó nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ cái gì, dù ở bất cứ nơi đâu. Điều này được gọi là tuệ giác sáng suốt sanh khởi đồng thời với chỉ tịnh.
Tuy nhiên, nếu tuệ giác không xuất hiện theo cách này, thì sau khi đã thực hành thiền chỉ cho đến khi tâm an trụ vững chắc, bạn có thể lựa chọn một bộ phận thân thể của mình – chẳng hạn như xương hay ruột – hoặc bất cứ một phần nào khác để làm đề mục cho tâm an trú, quán chiếu để thấy ra rằng tất cả mọi thứ mà tâm bám víu vào, cho chúng là bền vững và có thực đó, cho rằng chúng có thể đem lại hạnh phúc đích thực cho mình đó, thực ra chỉ nằm trong vòng quay của Tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã mà thôi. Cách chúng ta nghĩ về mọi thứ : “Cái này là như thế, cái kia là như thế, như thế” thực ra chỉ là những điều chúng ta tưởng tượng mà thôi, chúng không hề có thực. Tất cả mọi pháp hữu vi chỉ đơn giản sanh khởi từ những nhân duyên của chúng: đó là thất niệm-phóng dật, tham ái, dính mắc và nghiệp. Khi những nhân duyên này cạn kiệt thì chúng sẽ tự tan hoại. Không cần ai phải buộc chúng giải tán cả. Ngay cả cái thân của chúng ta đây cũng chỉ có thể sống và tồn tại dựa vào các nhân duyên mà thôi, chẳng hạn như hơi thở và thức ăn. Khi tất cả những thứ này không có nữa thì cái thân này cũng chẳng còn ý nghĩa gì cả.
Khi bạn quán chiếu mọi việc theo cách này, sử dụng năng lực của một nội tâm hoàn toàn tập trung, bạn sẽ đạt đến được mục tiêu của quá trình luyện tâm. Ánh sáng trí tuệ sẽ khởi sanh và hoàn thiện đầy đủ với tuệ giác thấu hiểu quan hệ nhân duyên mà bạn đã tự mình khám phá ra. Đây là những điều không thể có được từ lý thuyết hay từ trí nhớ do nghe đọc từ những người khác, mà từ việc chứng ngộ lý nhân duyên hoàn toàn nằm trong nội tâm của chính bạn. Tâm sẽ không bao giờ còn bị dính mắc, mê mờ, khởi yêu khởi ghét đối với bất cứ một pháp hữu vi nào nữa.
Chúng ta có thể nói rằng nếu tâm chưa thực sự soi chiếu được vào trong đề mục thiền, khi đó nó vẫn chưa thể quy tụ và bình ổn. Song lý do tại sao ở trước thời điểm này việc huấn luyện tâm không được gọi là thiền tuệ quán là bởi vì sự phân biện nhân duyên của hành giả vẫn còn yếu và còn thiếu sự quán chiếu, trạch pháp.
Tóm lược lại: Thanh tịnh hoá thân hành và khẩu hành phải được bắt đầu với việc thực hành giới. Tâm tịnh phải được bắt đầu bằng thực hành thiền chỉ tịnh - phát triển định tâm và an chỉ định – cho đến khi tâm hội đủ sức mạnh để trấn áp 5 triền cái. Khi tâm đã thuần thục trong thiền chỉ tịnh, có thể xuất nhập và an trú trong an chỉ định một cách tùy ý, khi đó trí tuệ - ánh sáng tuệ giác xuyên thấu tới chân lý của tất cả các pháp hữu vi (sabhava dhamma), cùng với những nhân duyên khiến các pháp hữu vi ấy sanh và diệt, sẽ sanh khởi lên một cách kỳ diệu.
Loại tri kiến này chỉ có thể sanh lên đối với một số hành giả nhất định và chỉ trong một số trường hợp nhất định. Nhưng bất luận dù thế nào, người đã luyện tâm đạt đến trình độ này cần phải ý thức rằng: khi tâm đạt tới tầng mức này là đã thích hợp để thực hành thiền tuệ quán. Họ cần phải lấy bất cứ một phần thân thể nào đó hay bất cứ một đối tượng nào của tâm đang xuất hiện trong suy nghĩ của mình và quán chiếu nó dưới ánh sáng của tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã. Sau đó họ sẽ phát triển ánh sáng tuệ giác này, soi chiếu vào trong tất cả các pháp hữu vi và nhỗ rễ tất cả những dính mắc, chấp thủ đủ loại vào những đối tượng trong thân tâm này.
Mặc dù tâm của chúng ta vô hình, nhưng nó có thể thao túng, ảnh hưởng đến thân và tất cả mọi thứ trên thế gian này. Nó có thể đặt tất cả mọi thứ trên đời dưới quyền lực của nó. Mặc dù vậy, nó cũng không đến nỗi quá khủng khiếp hay phá hoại quá mức, bởi vì nó thiếu nhận thức về tốt xấu, thiện ác. Khi bậc thiện trí huấn luyện tâm mình đúng theo đạo lộ của giáo pháp của Đức Phật, nó sẽ trở nên dễ sử dụng và học hỏi nhanh chóng, trưởng dưỡng trí tuệ để đưa mình đi đúng chánh đạo, chứ không còn là một kẻ tự do vô tổ chức, hành xử không theo một chuẩn mực nhất định nào nữa. Thêm nữa, nó có thể tự thanh lọc mình để trở nên sáng suốt và trong sạch, thoát ly khỏi mọi phiền não, có thể tự mình nhận chân được chân lý vi diệu và thâm sâu, mang đến ánh sáng cho thế gian vốn ngập tràn bóng tối đối với những con người mù quáng, si mê.
Điều đó là bởi do bản chất đích thực của tâm, vốn từ nguyên khởi đã luôn thanh tịnh và sáng suốt. Nhưng bởi vì ô nhiễm, lậu hoặc che mờ nên ánh sáng nội tâm đã tạm thời chìm trong bóng tối, khiến cho cả thế giới này cũng trở thành tối đen. Nếu bản chất nguyên thủy tâm của chúng ta vốn đã tối thì ắt sẽ chẳng ai có thể thanh tịnh được nó để mang lại ánh sáng trí tuệ cho mình.
Do đó, thế giới này có tối tăm hay sáng sủa, có hạnh phúc hay khổ đau, điều đó tùy thuộc vào nội tâm của cá nhân mỗi con người. Cá nhân mỗi con người chúng ta trước hết cần phải huấn luyện tâm mình, rồi sau đó mới huấn luyện tâm người khác. Chỉ khi đó thế giới này mới hết hỗn loạn và khổ đau.
11. Những hình ảnh và ấn chứng sanh khởi trong quá trình hành thiền thường rất lạ lùng và không chắc chắn. Chúng có thể đánh lừa được những người căn tánh trì độn, kém khả năng phân biện, khiến cho họ tin rằng đó chính là chân lý và để rồi đánh mất liên hệ với thực tại. Vì lý do này, những người hành thiền phải nên hết sức thận trọng, quán sát và tư duy về chúng một cách cẩn thận, như tôi sẽ trình bày ở dưới đây.
Các ấn chứng sanh khởi trong thiền thường có hai loại: hình ảnh và dấu hiệu.
a) Các hình ảnh: Đôi khi tâm tự rút về trong tầm mức riêng của nó, trong khi chúng ta đang quán sát thân mình để thấy ra bản chất đáng nhờm gớm của nó, khi đó chúng ta sẽ thấy thân thể mình hoàn toàn chỉ là những thể trược và thối rữa, hoặc chẳng là gì khác ngoài một bộ xương hay một đống tro bụi mà thôi…Trong một số trường hợp, sự việc này khiến cho hành giả quá ghê tởm thân mình đến mức tìm cách tự tử.
Trong một số trường hợp, các hình ảnh về cõi trời hay địa ngục, hay ngạ quỷ đôi khi cũng xuất hiện.
b) Các dấu hiệu: Khi tâm an trú trong trạng thái như trên, có khi một giọng nói thì thầm chợt xuất hiện. Đó có thể là giọng nói của một người chúng ta hằng tôn kính, hướng dẫn chúng ta quán chiếu một khía cạnh thực tế cụ thể nào đó, hoặc báo trước một sự kiện sắp xảy ra, hoặc đó cũng có thể là giọng nói của một kẻ thù đang hăm dọa chúng ta, xuất hiện ngay trước khi kẻ đó đến hãm hại mình. Những điều này cho thấy dòng tâm thức của con người chúng ta sai biệt nhau rất đa dạng. Mặt khác, cũng có thể xuất hiện những điều cho thấy có một người nào đó muốn làm tốt cho mình. Đôi khi có một giọng nói không xác định được đến nói với cho chúng ta biết một sự thật đáng suy nghĩ, đáng suy tư xem xét, mà một số hành giả gọi đó là những lời dạy và cảnh báo của Pháp, hay năng lực thắng trí (abhiññā).
Các hình ảnh và ấn chứng này không phải xảy ra đối với tất cả các thiền sinh. Đối với một số người, cho dù họ đã đạt được một mức tâm vi tế đến đâu, song những hình ảnh và ấn chứng vẫn không xuất hiện. Đối với một số người khác, tâm có thể tập trung lại chí trong vòng một vài khoảnh khắc ngắn ngủi, và tất cả các loại hình ảnh và ấn chứng đều xuất hiện. (Tuy nhiên, chớ nên tưởng tượng ra cho thật nhiều). Điều này tùy thuộc vào cá tính của mỗi hành giả. Với những người căn tánh chậm lụt và không lưu ý nhiều đến những gì hợp lý, các hình ảnh và ấn chứng thường xuất hiện rất nhanh và phát triển rất mạnh, đến mức khiến họ mất phương hướng. Vì vậy phải cẩn thận đối với những hình ảnh và ấn chứng này.
Hỏi: Các hình ảnh và ấn chứng này có đúng với thực tế hay không?
Đáp: Có lúc đúng, có lúc không, bởi vì chúng chỉ xuất hiện trong an chỉ định, mà an chỉ định thì cũng chỉ là một hiện tượng bình thường, vì vậy nó cũng không chắc chắn, không đáng tin cậy. Nghĩa là, nó có thể xảy ra đối với những thiền sinh mà tâm họ rơi vào dòng tâm hữu phần (bhavanga) mà không ý thức được mình đã rơi vào mức tâm nào, không hay biết được cách tâm mình chú ý, quán sát hay buông bỏ đề mục như thế nào. Các hình ảnh và ấn chứng, dù sanh khởi một cách có chủ tâm hay không, cũng bao gồm một số lượng lớn sự dính mắc, tưởng tượng và phóng chiếu của tâm thức và do đó không đáng tin cậy – bởi vì các hình ảnh và ấn chứng này xuất hiện khi tâm ở trong dòng hữu phần, rất giống như những giấc mơ khi người ta ngủ say hay chợt thiếp đi. Nói chung, khi chúng xuất hiện lần đầu, có thể đúng một vài phần, nhưng cũng không nhiều lắm.
Hỏi: Các tầng thiền an chỉ định là thuộc thế gian hay xuất thế gian?
Đáp: An chỉ định chỉ có 12 hay 13 tâm sở, và chúng hoàn toàn thuộc thế gian. Nhưng nếu hành giả nhập an chỉ định là một bậc thánh và sử dụng nó như là một phương tiện hay một nơi nghỉ ngơi cho tâm (hiện tại lạc trú), thì vị ấy có thể tùy ý sử dụng tầng thiền an chỉ định hiệp thế này và có thể yên tâm về điều đó, cũng giống như một nhà thiện xạ đối diện với một kẻ mới học cầm súng, hay giống như một bậc đế vương mà thanh bảo kiếm là một biểu tượng của vương quyền, mà so sánh với một kẻ thường dân có kiếm nhưng chỉ là kiếm mà thôi.
Hỏi: Các hình ảnh và ấn chứng đó có phải là điều tốt hay không?
Đáp: Chỉ tốt đối với những người biết cách sử dụng nó một cách thích hợp, mà không bị nó thao túng, sai khiến trở lại hay bị dính mắc vào nó mà thôi. Nó không tốt đối với những người không biết sử dụng nó một cách thích hợp, cho rằng nó là thực và bị nó giật giây thao túng. Một khi có sự dính mắc tham gia vào, tâm sẽ phóng chiếu và có thể làm nhân rộng những hình ảnh và ấn chứng này lên tới mức khiến cho hành giả mất kiểm soát đối với cảm giác thực của mình. Do đó, cần phải hết sức thận trọng với chúng.
Các hình ảnh và ấn chứng trong thiền sanh khởi từ năng lực của thiền an chỉ định hiệp thế và được duy trì bởi tham ái, dính mắc và bởi tưởng. Chúng cũng không ra ngoài ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã, chúng không bền vững, và cũng không thuộc về bạn hay bất cứ một người nào. Chúng chỉ là những nhân duyên mà chẳng làm một việc gì khác ngoài sanh và diệt liên tục trong mọi lúc, theo cách riêng của chúng. Quán chiếu để thấy được bản chất thực sự của chúng theo cách này rồi buông bỏ. Chớ mê mờ, ảo tưởng đến mức dính mắc vào chúng, bởi vì chúng chỉ là quả mà thôi. Thay vào đó, chúng ta hãy làm việc với cái nhân sanh ra chúng, là các tầng thiền an chỉ định, để trở nên ngày càng thành thục đến mức bạn có thể thể nhập, an trú được vào trong đó bất cứ lúc nào tùy thích. Các hình ảnh và ấn chứng sẽ tự chúng lo liệu cho chúng.
Bạn cũng cần phải nhận thức được về những điểm bất lợi của các hình ảnh và ấn chứng. Một khi chúng sanh khởi và chúng ta bị mê mờ, tham đắm vào chúng, chúng sẽ làm cho an chỉ định của chúng ta suy thoái, cũng như tiếng động thường là một trở ngại cho những người tu thiền chỉ để làm vắng lặng tâm và khám phá các hiện tượng vi tế, thâm sâu, hay giống như sóng trên mặt nước ngăn không cho chúng ta nhìn thấy bóng của mình trong đó.
Những hình ảnh và ấn chứng xuất hiện trong thiền khi mới nhập an chỉ định thường rất đặc biệt và lạ lùng, đáng kinh ngạc. Sự nắm giữ, chấp thủ và phóng chiếu của tâm trí có xu hướng buộc chặt thêm vào với chúng, và chúng trở nên cực kỳ ấn tượng trong con mắt của hành giả. Nếu các phương pháp chữa trị và loại bỏ các hình ảnh và ấn chứng trên không đem lại kết quả thì cố gắng đừng nhập thiền nữa. Nói cách khác đừng để tâm mình đắm chìm vào trong đó, đừng để cho tâm tĩnh lặng, đừng ưa thích các hình ảnh và ấn chứng đó. Ăn và ngủ thỏa mái tùy thích, làm các công việc lao động nặng nhọc khác cho đến khi thân thể mệt mỏi, rã rời, hoặc suy nghĩ đến các đối tượng làm tâm phấn khích, hứng thú – và một khi tâm đã rút lui ra khỏi an chỉ định, các hình ảnh và ấn chứng đó sẽ tự biến mất.
Nếu các thiền sinh không thể giải quyết được vấn đề bằng các phương pháp này, thì người thầy cần phải giúp đỡ học trò mình với cũng cách thức tiếp cận như trên. Cách hiệu quả nhất và nhanh chóng nhất là tìm ra một vấn đề gì đó chọc tức, khiến cho người đó phải phát giận lên. Ngay lập tức những hình ảnh và ấn chứng đó sẽ biến mất liền.
Mức định cơ bản để khiến phát sanh trí tuệ thể nhập Pháp là cận định (upacara samādhi). Cận định có hai loại:
a) Khi hành giả thực hành thiền chỉ với một đề mục nhất định nào đó, tâm sẽ rút lui dần khỏi các vấn đề bên ngoài và chỉ tập trung vào một đề mục duy nhất, ngay ở trong tâm mình, song vẫn không hoàn toàn tách biệt hẳn ra khỏi tất cả các đề mục khác. Tâm vẫn cảm nhận, vẫn suy nghĩ và xem xét, cố gắng rút lui dần ra khỏi các đề mục rất vi tế của nó, song vẫn chưa đủ để có thể buông bỏ hoàn toàn. Đây chính là cận định, đạt được trước hành giả nhập vào an chỉ định (appanā samādhi).
b) Tâm sẽ càng ngày càng trở nên vi tế hơn đến khi có thể buông bỏ và rút lui khỏi đề mục đang xem xét, và như vậy đề mục biến mất. Đây được gọi là an chỉ định hay toàn định. Khi đó sẽ có một sự chánh niệm tỉnh giác hoàn toàn về một cảm giác trống rỗng, không bám víu, chấp thủ vào bất cứ một thứ gì, chỉ đơn giản hoàn toàn gắn chặt vào đề mục duy nhất của mình. Khi tâm ra khỏi trạng thái này và tiếp tục quán chiếu các pháp – quán sát đối tượng và quan hệ nhân quả - đây chính là cận định sau khi xuất ra khỏi an chỉ định.
Cả hai loại cận định này đều có thể tạo thành nền tảng tốt cho thiền tuệ quán trên nhiều đối tượng đa dạng hoặc trên những đặc tướng cụ thể nào đó. Loại tuệ quán này khác so với những gì sanh khởi từ các hình ảnh và ấn chứng đã nói ở trên, bởi vì hình ảnh và ký hiệu sanh khởi từ an chỉ định hiệp thế, trong khi loại tri kiến chúng ta đang nói ở đây, mặc dù nó sanh khởi từ định hiệp thế, song nó mang lại những kết quả đáng tin cậy hơn. (Các nhà khoa học thường sử dụng mức trí tuệ này để nghiên cứu). Và nếu định của bạn trở thành định siêu thế, nó sẽ từng bước đoạn trừ dần dần tất cả mọi lậu hoặc (āsava) trong tâm.
Nói tóm lại, tri kiến sanh khởi từ các hình ảnh và ấn chứng và những gì sanh khởi từ cận định khác biệt nhau cả về nguồn gốc xuất xứ cũng như tính chất của chúng.
Một điểm cần nói rõ thêm ở đây là thuật ngữ an chỉ định (hay toàn định: appanā samādhi). An chỉ định là một sự thành đạt siêu tuyệt của con người. Nói chung những người đã đạt tới an chỉ định thường có xu hướng tập trung vào hơi thở vào, hơi thở ra (anapanā) và coi đó như đề mục thiền cho mình. Khi chú tâm vào hơi thở và chú ý đến sự phồng và xẹp, hay chỉ chú ý vào hơi thở ra, tâm sẽ dần dần trở nên ngày càng vi tế hơn cho đến khi nó dần dần buông bỏ tất cả mọi đối tượng khác và quy tụ lại để trở thành nhất tâm, như đã nêu ở trên. Sự lắng dịu, an tịnh của hơi thở vào, ra là ấn chứng cho thấy đó là an chỉ định. Trong một số trường hợp, nó được gọi là an chỉ định cố định bởi vì nó khởi nguồn từ việc an định tâm trên hơi thở. Nó được gọi là an chỉ định bởi vì ngay cả khi không còn hơi thở ra, vào nữa, khi tâm đã đạt đến điểm đó, chánh niệm vẫn có mặt hoàn toàn đầy đủ.
Khi ở trong trạng thái này, bạn không thể quán chiếu bất cứ thứ gì được nữa, bởi vì lúc đó tâm bạn đã hoàn toàn tách ra khỏi tất cả mọi thứ. Chỉ khi xuất thiền và nhập vào cận định thì bạn mới có thể quán chiếu được. Bạn sẽ thấy chúng thật rõ ràng như chân lý Đức Phật đã chỉ dạy, và thấy được cả các vấn đề khác nữa. Sẽ không còn hình ảnh hay ấn chứng gì nữa, song tri kiến ở đây được dựa trên nhân và quả mà cuối cùng sẽ loại bỏ hoàn toàn mọi hồ nghi.
Trong một số trường hợp, hành giả sẽ quán sát các đề mục thiền khác ngoài hơi thở ra vào, song vẫn có thể đạt tới được an chỉ định như những người thực hành niệm hơi thở. Khi tâm đã tập trung lại một điểm không còn hơi thở ra, vào nữa, đó chính là an chỉ định.
Đây dù sao cũng chỉ là ý kiến của riêng cá nhân tôi mà thôi. Hành giả không nên bám chặt vào ý kiến của tôi mà không để ý đến những gì người khác nói, ngay cả khi chúng ta thấy được cùng những sự việc như vật trong cùng một điều kiện và ở cùng một nơi chốn như nhau, song vẫn có thể đặt những cái tên khác nhau cho chúng, hay có những cách hiểu khác nhau về cùng một sự việc đó và như vậy sẽ dẫn đến những cuộc tranh cãi bất tận. Hãy đơn giản tự thực hành với đề mục riêng của mình và đạt tới an chỉ định như đã nói ở trên, rồi sau đó, với một cái tâm hoàn toàn vô tư, khách quan, không thành kiến, so sánh những gì chúng ta đã kinh nghiệm với những bản viết khác. Khi đó tri kiến của chúng ta sẽ trở thành paccatta- tự mình chứng nghiệm, sanh khởi hoàn toàn từ chính trong tự thân chúng ta. Đó là điều tôi muốn thấy.
Tất cả các pháp siêu thế đều có gốc rễ từ các pháp hiệp thế. 37 phẩm trợ đạo (bodhi-pakkhiya-dhamma), được phân loại ra như vậy hoàn toàn là các pháp siêu thế, phải bắt đầu trước tiên từ các hiện tượng trong thân và tâm của chúng ta, chính trong cái thân và cái tâm phàm này.
Các hình ảnh và ấn chứng trong thiền là các trở ngại lớn đối với những người có cái nhìn phiến diện, những người chỉ lo phát triển an chỉ định mà thôi, nhưng sẽ có thể mang lại tuệ giác cho những người có cái nhìn toàn diện, không thiên kiến, không nhìn một chiều, những người tu tập tuệ song hành với định.
Mỗi thanh kiếm, mỗi cái rìu đều có một lưỡi sắc và một lưỡi cùn, mỗi lưỡi có tác dụng khác nhau, nhưng những người không biết sử dụng, thì không những chẳng làm nên trò trống gì mà còn có thể tự hại thân mình, tự làm hỏng cả việc nữa. Tuệ giác và các loại phiền não của tuệ giác đến từ một và cùng chính một nền tảng căn bản mà thôi. Những người thiếu trí tuệ phân biện thường xem xét sự việc một cách sai lầm, họ sẽ làm cho các loại phiền não, nhiễm ô của trí tuệ được dịp sanh khởi. Nhưng khi họ nhìn sự việc một cách đúng đắn, sử dụng một cách tiếp cận thích hợp, những thứ đó sẽ trở thành tuệ giác đích thực.
Các pháp hiệp thế, khi chúng ta nhìn rõ chúng và biết rõ chúng cũng như những nguyên nhân sanh khởi của chúng, và khi chúng ta thấy rõ những khiếm khuyết của chúng, chúng ta sẽ tăng trưởng sự nhàm chán đối với chúng, không còn bị mê mờ đắm chìm trong chúng nữa – khi đó chúng sẽ trở thành Pháp (dhamma). Nhưng khi chúng ta bị chúng cuốn trôi, chúng ta sẽ không bao giờ sẵn sàng chịu từ bỏ chúng…Thế gian này không phải mãi mãi chỉ là như thế. Từ cảnh giới Phạm thiên có thể thoái hóa xuống cảnh giới chư thiên; từ thế giới chư thiên về lại kiếp người, rồi từ đó đi đến các cảnh khổ đau, thấp kém. Cũng như nước luôn luôn chảy về chỗ trũng, tâm chúng sanh dễ dàng tìm kiếm đến những điều thấp kém, hạ liệt – đó là các ác pháp.
Mặc dầu hành thiền là một quá trình tự tiến hóa của bản thân mỗi con người chúng ta, song chúng ta phải sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời mình cho nó. Ít nhất, nếu không thành công, chúng ta cũng phải sẵn sàng lấy sự trừng phạt, đày ải để tự hăm dọa bản thân mình. Những con người không tự thề với lòng mình như thế sẽ chỉ có thể mong đợi sống một cuộc đời nô lệ – nô lệ cho phiền não miên viễn mà thôi.
Rừng thiền Viên Không
tháng 10/2006
Cuốn sách này là một hướng dẫn
thiền đơn giản và thiết thực theo
trường phái thiền chỉ quán do Thiền sư Ajahn Thate
giảng dạy, sử dụng đề mục niệm Buddho làm cho
tâm trở nên định tĩnh, vắng lặng đến mức cần thiết
khiến cho tuệ giác sanh khởi.
Buddho
“ Buddho là một cái gì đó thật tĩnh lặng và mát lành.
Nó chính là con đường đưa đến an lạc và bình an – con đường duy nhất sẽ giải phóng chúng ta ra khỏi mọi đau khổ trên thế gian này.”
Buddho
Khi bạn đến học thiền với một nhóm thiền sinh hay một người thầy chuyên sâu về một pháp thiền nào đó, trước tiên bạn phải xem xét kỹ để tin tưởng rằng người thầy đó hoàn toàn có đủ kinh nghiệm trong pháp hành và pháp hành vị ấy hướng dẫn chắc chắn là một pháp hành đúng đắn. Đồng thời, bạn hãy thể hiện lòng tịnh tín của mình đối với nơi chốn mình đến hành thiền. Chỉ khi đã làm xong những việc đó rồi, bạn mới nên bắt đầu thực hành.
Thời trước, các vị thầy thường yêu cầu các thiền sinh mới đến phải có một buổi lễ nhập môn và coi đó như một cách để làm tăng trưởng đức tin của người học trò, trước khi bắt đầu học thiền với thầy. Thông thường thiền sinh phải chuẩn bị một cái lễ gồm năm cặp nến sáp ong và năm bó hoa trắng – được gọi là năm khandha– hoặc tám cặp nến với tám bó hoa trắng – được gọi là tám khandha, mỗi cặp nến nặng chừng 15 gam, với một số lượng hoa trắng tương đương như thế. Rồi sau đó người thầy mới bắt đầu dạy cho học trò pháp thiền của mình. Tục lệ cổ xưa này cũng có rất nhiều cái hay. Ngoài ra cũng còn một số lễ nghi khác nữa, nhưng tôi sẽ không đi sâu vào chúng. Tôi chỉ nói một chút về buổi lễ nhập môn rất đơn giản và dễ thực hành như vậy thôi.
Chỉ sau khi đã khởi lòng tịnh tín trong tâm như trên, bạn mới nên tìm đến một người thầy có kinh nghiệm trong pháp hành. Nếu vị ấy là người chuyên hành thiền niệm sammā araham, thì vị ấy sẽ dạy bạn thực hành niệm sammā araham, sammā araham, sammā araham. Rồi sau đó vị ấy sẽ hướng dẫn bạn tưởng tượng đến một viên ngọc sáng trong, rực rỡ nắm trên rốn khoảng 2 inch, và yêu cầu bạn chú tâm vào điểm đó trong khi tiếp tục niệm thầm như vậy, không để cho tâm lang thang đi nơi khác. Nói cách khác, bạn lấy hình viên ngọc đó làm điểm chú tâm.
Nếu bạn tìm đến một người thầy chuyên thực hành phương pháp niệm phồng, xẹp của thành bụng, vị ấy sẽ hướng dẫn bạn thực hành thiền trên đề mục phồng xẹp đó và chú tâm vào tất cả mọi cử động, mọi động tác của thân mình. Chẳng hạn, khi nhấc chân bạn niệm nhấc, nhấc…Khi đặt chân xuống, niệm đặt, đặt ..v.v… Hoặc vị ấy sẽ yêu cầu bạn chú tâm liên tục vào chuyển động phồng xẹp của bụng trong mỗi hành động, cử chỉ hay mỗi tư thế của thân mình.
Nếu bạn tìm đến một vị thầy có kinh nghiệm thần thông, vị ấy sẽ hướng dẫn bạn niệm na ma ba dha, na ma ba dha và tập trung tâm chỉ vào một đề mục duy nhất cho đến khi bạn thấy được các cảnh giới địa ngục, chư thiên, phạm thiên…tất cả các loại, thấy nhiều đến mức bạn bị những hình ảnh đó cuốn trôi đi.
Nếu bạn tìm đến một vị thầy chuyên thực hành niệm hơi thở, vị ấy sẽ hướng dẫn bạn chú tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra và an trụ tâm vững chắc chỉ trong đề mục hơi thở đó.
Nếu bạn tìm đến một vị thầy chuyên thực hành niệm Buddho (Bút-thô), vị ấy sẽ hướng dẫn bạn niệm Buddho, Buddho, Buddho và bạn phải an trụ tâm vững chắc trong pháp hành đó cho đến khi hoàn toàn thành thục. Rồi sau đó vị ấy sẽ yêu cầu bạn quán chiếu chính đề mục Buddho cùng với cái (tâm) đang niệm Buddho đó. Một khi bạn đã thấy được chúng là hai cái khác nhau, thì lúc đó hãy tập trung chú ý vào cái (tâm) đang niệm Buddho. Khi đó từ Buddho sẽ biến mất, chỉ còn lại mỗi cái tâm đang niệm Buddho mà thôi. Bạn hãy chú ý vào cái tâm đang niệm Buddho đó và lấy nó làm đối tượng quán chiếu cho mình.
Con người trong thời đại chúng ta – hay trong bất cứ thời đại nào, dù có học thức hay có khả năng đến đâu (tôi không muốn chỉ trích mọi người là dễ tin vào những điều chưa được kiểm chứng, bởi vì, cuối cùng tất cả chúng ta đều muốn biết, muốn thấy chân lý), và nhất là đối với những người Phật tử chúng ta: Đạo Phật dạy chúng ta về nhân quả, chân lý đó hoàn toàn đúng đắn, thế nhưng tại sao chúng ta vẫn cứ bị rơi vào những cái bẫy của tuyên truyền, quảng cáo mà chúng ta nghe nhan nhản ở khắp mọi nơi như thế? Điều đó chắc chắn là do con người trong thời đại hiện nay quá thiếu kiên nhẫn và chỉ muốn có kết quả ngay, trước khi họ làm nhân cho đầy đủ. Điều đó kể cũng đúng thôi, bởi vì chúng ta đang ở trong thời đại nguyên tử mà.
Đạo Phật dạy chúng ta hãy nhìn sâu vào trong chính thân tâm mình. Tâm là các hiện tượng thuộc tâm lý, thân là các hiện tượng thể lý của chúng ta. Các hiện tượng thể lý đó phải nằm dưới sự điều khiển của tâm. Khi bắt tay vào hành thiền và huấn luyện tâm mình trở nên yên tĩnh và vắng lặng, chúng ta sẽ thấy rằng trong khoảnh khắc đó, chúng ta không tạo ra bất cứ vấn đề rắc rối nào cho bất cứ một ai. Nếu cứ tiếp tục thực hành cho đến khi thành thục, chúng ta sẽ ngày càng trở nên tĩnh lặng và bình an. Nếu ngày càng có nhiều người thực hành như thế, thì thế gian này sẽ tràn đầy hạnh phúc và bình an. Đối với thân, chúng ta có thể huấn luyện cho nó trở thành an lạc, chỉ khi tâm đã được huấn luyện và điều khiển hoàn toàn. Chỉ một phút giây chánh niệm tuột đi, thân ta lại “ngựa quen đường cũ” trở về với thói thường của nó ngay lập tức. Vì vậy, chúng ta hãy cố gắng thực hành luyện tâm mình bằng cách niệm Buddho.
NHỮNG BƯỚC CƠ BẢN
ĐẦU TIÊN ĐỂ THỰC HÀNH THIỀN
Khi thực hành thiền niệm Buddho, trước hết bạn cần bắt đầu với những bước cơ bản ban đầu như sau. Hãy làm tăng trưởng đức tin trong sạch trong tâm mình, rồi sau đó đảnh lễ trước Tam Bảo ba lần, và đọc:
Araham sammā-sambuddho bhagavā
- Con xin đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Alahán cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy.
Buddham bhagavantam abhivādemi
- Con xin đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ Đức Thế Tôn, bậc Giác ngộ.
(Đảnh lễ một lạy)
Svākhato bhagavatā dhammo
- Con xin đem hết lòng thành kính đảnh lễ Pháp Bảo Đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng.
Dhammam namassāmi
- Con xin đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ Pháp Bảo.
(Đảnh lễ một lạy)
Supatipanno Bhagavato sāvaka-sangho
- Con xin đem hết lòng thành kính đảnh lễ Tăng Bảo, chư Đại đức Tăng chúng đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc thiện hạnh.
Sangham namāmi
- Con xin đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ Đức Tăng.
(Đảnh lễ một lạy)
Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa.
- Con xin đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Ứng cúng cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy.
Hãy niệm tưởng đến các ân đức của Đức Phật, bậc thầy cao thượng của chư thiên và nhân loại, bậc đã hoàn toàn dứt tuyệt khỏi mọi phiền não, nhiễm ô và đau khổ, bậc luôn luôn an tịnh và là nơi nương tựa xứng đáng cho chúng ta. Rồi sau đó đảnh lễ ba lần.
Chú ý: những bước căn bản ban đầu này chỉ đơn giản là ví dụ mà thôi. Nếu bạn muốn tụng kinh nhiều hơn thế thì cũng tốt, nhưng đầu tiên bạn nên đảnh lễ Đức Phật mỗi khi vào ngồi thiền, chỉ trừ khi nơi bạn ngồi thiền không thuận tiện để làm việc đó mà thôi.
Và bây giờ thì hãy vào ngồi thiền, chân phải đặt lên trên chân trái, tay trong lòng, tay phải đặt lên trên lòng bàn tay trái. Ngồi thẳng lưng. Niệm thầm từ Buddho trong tâm, đặt tâm ở ngực, ngay nơi trái tim. Đừng để sự chú tâm đi lang thang ra phía trước hay phía sau. Hãy chánh niệm giữ tâm mình ở một nơi, an trú vững chắc ở một điểm đó thôi và bạn sẽ đi sâu vào định.
Khi đã thể nhập vào định, tâm bạn có thể trở nên trống rỗng đến mức bạn không hề biết là mình đã ngồi được bao lâu nữa. Lúc xuất ra khỏi định thì nhiều giờ đã trôi qua. Vì lý do đó, bạn không nên ấn định trước thời gian cho mình trong khi ngồi thiền. Hãy để mọi việc trôi chảy thuận theo tự nhiên.
Tâm an trú thực sự ở trong định là cái tâm ở trong trạng thái nhất tâm. Nếu tâm vẫn chưa đạt đến nhất tâm thì nó vẫn chưa phải là định (toàn định), bởi vì cái tâm đích thực chỉ có một. Nếu có nhiều trạng thái tâm vẫn cứ tiếp tục hoạt động, tạo tác, khi đó bạn vẫn chưa thể thể nhập sâu vào chân tâm được. Bạn mới chỉ chạm được đến nó mà thôi.
Trước khi bắt tay vào hành thiền, đầu tiên bạn nên biết về sự khác biệt giữa tâm trí và chân tâm, bởi vì chúng không phải là một. Tâm trí là cái tư duy, suy nghĩ và tạo lập các loại tưởng, các loại khái niệm, tư tưởng đủ loại. Chân tâm chỉ đơn giản tĩnh lặng và hay biết rằng nó tĩnh lặng mà không hề tạo tác, gia công thêm bất cứ loại suy nghĩ, tư tưởng nào khác. Sự khác nhau giữa chúng cũng như sự khác nhau giữa con sông và sóng nước trên mặt sông vậy.
Tất cả mọi thứ kiến thức và tất cả mọi phiền não chỉ có thể sanh khởi lên bởi vì tâm trí chúng ta suy nghĩ tới chúng và tạo tác các loại ý nghĩ, tư tưởng và rồi lạc đường đi tìm kiếm chúng. Bạn chỉ có thể thấy rõ được những điều này bằng chính chân tâm của mình, khi tâm trí đã trở nên tĩnh lặng và bạn tiếp cận được với chân tâm.
Bản chất của nước vốn luôn luôn trong và sạch. Nếu ai đó pha thuốc màu vào nước, khi đó nước cũng đổi màu theo. Nhưng một khi nước đã được lọc và để lắng trong, nó sẽ trở thành nước sạch và trong suốt như trước khi pha màu. Tâm trí và chân tâm của chúng ta cũng giống như vậy.
Thực ra, Đức Phật dạy rằng tâm trí của chúng ta cũng chính là chân tâm. Nếu không có tâm trí đó thì cũng chẳng thể có tâm. Tâm trí chỉ là một nhân duyên, một điều kiện. Còn bản thân chân tâm thì không có điều kiện, không cần nhân duyên. Trong pháp hành thiền, dù cho bất cứ phương pháp nào mà người thầy hướng dẫn, nếu phương pháp đó đúng đắn thì nhất định nó phải giúp bạn xuyên thấu tới chân tâm của chính mình.
Khi đã tiếp cận đến chân tâm, bạn sẽ thấy được tất cả các loại phiền não của mình, bởi vì tâm trí chúng ta tích tụ tất cả các loại phiền não ở chính trong nó. Vì vậy, giờ đây cách thức xử lý chúng như thế nào là hoàn toàn tùy thuộc vào chính bạn.
Khi bác sỹ muốn điều trị cho bệnh nhân, thì trước hết họ phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh cho người đó. Chỉ khi đó rồi họ mới có thể điều trị bằng các phương thuốc thích hợp cho người bệnh.
Khi chúng ta bắt đầu thực hành thiền ngày một nhiều hơn, niệm thầm Buddho, Buddho, Buddho… (Bút-thô, Bút-thô, Bút-thô) lặp đi lặp lại hoài như thế, tâm chúng ta sẽ dần dần buông bỏ bớt những sự xáo động, bất an và quy tụ trở lại, an trụ với Buddho. Tâm sẽ an trụ với Buddho làm đề mục duy nhất, cho đến khi bạn thấy được trạng thái tâm đang niệm Buddho đó hoàn toàn là một với chính chân tâm mình, trong mọi lúc, bất kể dù bạn đang đi, đứng, nằm, ngồi gì đi nữa. Dù đang làm bất cứ công việc gì, tâm bạn vẫn luôn luôn sáng suốt, rõ ràng với Buddho. Khi đã đạt tới giai đoạn này, bạn hãy giữ tâm mình như thế càng lâu càng tốt. Đừng vội vàng muốn thấy được cái này, cái kia – bởi vì tham muốn, mong cầu là một trở ngại lớn nhất để đạt tới tâm định. Một khi đã có tham muốn, mong cầu móng khởi là định tâm của bạn sẽ suy thoái ngay lập tức, bởi vì nền tảng định tâm của bạn – Buddho – không vững chắc. Khi điều này xảy đến, bạn sẽ không thể bám víu vào bất cứ bến neo nào được nữa, và bạn sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng. Tất cả những gì bạn nghĩ đến lúc đó là trạng thái tâm an lạc và tĩnh lặng mình đã từng đạt được trước kia, và chính điều này sẽ lại làm bạn càng thêm trạo cử, bất an hơn nữa.
Cách chúng ta thực hành thiền cũng giống như cách người nông dân trồng lúa. Họ không hề vội vàng. Họ cày bừa, làm đất, gieo mạ, làm cỏ, cấy lúa…từng bước một, không bỏ sót một bước nào. Rồi sau đó chờ cho lúa lớn. Mặc dù không thấy được ngay hạt lúa đang đơm bông, ra hạt, nhưng họ tin tưởng chắc chắn rằng nhất định một ngày nào đó hạt lúa sẽ xuất hiện trên cây. Khi lúa đã đơm hạt, họ chắc chắn rằng nhất định mình sẽ gặt hái được vụ mùa ấy. Họ không cầm cổ cây lúa mà kéo lên cho mau lớn, cho nó đẻ ra hạt như mình mong muốn. Người nào làm như thế nhất định sẽ chẳng thể thu được chút xíu kết quả nào.
Trong thiền cũng vậy. Bạn không thể nào nóng vội được. Bạn không thể bỏ qua bất cứ một giai đoạn nào. Bạn phải tin tưởng chắc chắn rằng: “Đây chính là đề mục niệm chắc chắn sẽ làm cho tâm mình trở nên định tĩnh”. Chớ nên lo lắng, hồ nghi rằng liệu đề mục niệm này có phù hợp với căn cơ của mình hay không, và cũng chớ nên nghĩ rằng: “Người ấy, người nọ đã sử dụng đề mục niệm này và đạt được kết quả thế này, thế ia, nhưng khi tôi niệm từ Buddho này thì tâm lại chẳng hề định tĩnh. Nó không thích hợp cho tôi tý nào”. Thực ra, nếu tâm bạn an trụ vững chắc vào đề mục niệm bạn đang thực hành đó, thì bất kể đề mục niệm đó là từ gì, chắc chắn nó sẽ có kết quả - bởi vì bạn niệm đi niệm lại từ đó chỉ đơn giản với mục đích làm cho tâm vững chắc và an trụ mà thôi, chỉ thế thôi. Còn có đạt được các kết quả khác ngoài mục đích ấy hay không, điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào tiềm năng và khả năng của cá nhân mỗi người.
Một lần nọ, trong thời Đức Phật, có một vị Tỳ Khưu đang ngồi thiền ở gần một cái ao. Vị ấy nhìn thấy một con chim bói cá đang nhào xuống ao để bắt cá, và vị ấy lấy luôn hình ảnh đó làm đề mục thiền cho mình cho đến khi đắc quả Alahán, ngay tại bên bờ ao ấy. Tôi chưa từng đọc trong bất cứ một cuốn sách thiền nào nói rằng người ta có thể lấy hình ảnh con chim bói cá bắt mồi làm đề mục thiền cả, thế nhưng vị Tỳ Khưu ấy đã làm được việc đó, đã có thể lấy sự việc đó làm đề mục thiền cho mình và đắc quả Alahán. Ví dụ này minh họa rất rõ cho những gì tôi đã nói ở trên.
Khi tâm đã an trú trong đề mục niệm Buddho, với chánh niệm luôn luôn hiện hữu, thì chắc chắn nó sẽ vượt qua được những sự phá phách, nổi loạn của tâm trí. Chúng ta phải huấn luyện và chế ngự nó, bởi vì chúng ta đang đi tìm kiếm sự an lạc và bình an cho tâm mình. Thông thường, cái tâm con người ta luôn luôn bận rộn đi tìm kiếm những thứ làm tâm phân tán, xao lãng, tháo động và hầu như mọi lúc, nó hay bị lạc đường như thế này: bạn niệm Buddho, Buddho, Buddho được một lúc, ngay khi tâm vừa mới tập trung vào từ Buddho đó, thì nó đã lại không còn an trụ ở đó nữa. Nó bắt đầu chạy đi, lo lắng nghĩ ngợi đến những việc mình dự định làm hay những việc mình còn chưa làm xong. Nó nghĩ đến phải làm việc này, phải hoàn thành xong việc kia, cho đến khi nghĩ ngợi đủ hết mọi việc, nó lo lắng, băn khoăn rằng không biết công việc có hoàn thành tốt đẹp không, có như mình mong muốn không … Nó lo lắng rằng nếu mình không làm công việc người ta yêu cầu, hay không hoàn thành được việc mình muốn làm thì sẽ lãng phí thời gian vô ích hay sẽ làm mình mất mặt…vân vân và vân vân.
Đây chính là một loại xao lãng thường cản trở những thiền sinh mới hành thiền, không cho họ đạt được định tâm. Bạn phải kéo tâm mình quay lại ngay với đề mục niệm Buddho và tự nhắc mình: “Những suy nghĩ như thế này không phải là con đường đúng đắn để đạt tới sự an lạc; con đường đích thực tới an lạc là giữ tâm mình an trú với Buddho và không quan tâm tới một điều gì khác” – và rồi tiếp tục kiên trì niệm Buddho, Buddho, Buddho thật nhiều …
Chỉ một khoảnh khắc sau, tâm lại phóng đi tiếp, lần này thì nó nghĩ tới gia đình – nghĩ tới con cái, nghĩ đến vợ, đến chồng: không biết họ thế nào, có khỏe không? Có ăn được không? Nếu họ ở xa thì bạn lại bắt đầu suy nghĩ xem bây giờ họ đang ở đâu, đang làm gì…Người ở xa thì nghĩ đến người ở nhà. Người ở nhà thì nghĩ đến người đi xa – lo lắng người đó có an toàn hay không, có bị ai sinh sự, quấy nhiễu không vì chẳng có ai bên cạnh, vì người đó đang cô đơn một mình…nói chung là nghĩ đến 108 thứ khác nhau, nghĩ đến bất cứ cái gì mà tâm có thể tưởng tượng ra. Mà tất cả những điều đó chỉ là sự phóng chiếu của chính chúng ta, chẳng hề đúng với sự thật tý nào.
Hoặc giả, nếu như bạn còn trẻ và độc thân, bạn sẽ nghĩ đến những phút vui với bạn bè, nghĩ đến những nơi mình đã từng đi chơi với nhau, nghĩ đến những thời gian vui vẻ đã qua, đến những việc mình hay làm – nghĩ nhiều đến mức có lúc bạn còn thốt ra lời hoặc cười to lên nữa. Loại phiền não này là loại tệ hại nhất trong cả bọn.
Khi bạn niệm Buddho, Buddho, Buddho, các phiền não của bạn thấy rằng chúng không còn kiểm soát được tình thế nữa, bạn sẽ chạy thoát khỏi bàn tay chúng, vì vậy chúng tìm mọi phương cách để trói bạn chặt thêm nữa. Từ bé đến giờ bạn chưa bao giờ thực hành thiền định như thế này, và bạn đơn giản để cho tâm mình chạy đi theo phiền não. Chỉ đến bây giờ bạn mới bắt đầu tập hành thiền, do đó khi bạn niệm Buddho, Buddho, Buddho để khiến tâm vắng lặng, tịnh chỉ, thì khi đó cái tâm bắt đầu vùng vẫy, quẫy đạp như con cá bị vớt lên bờ, vùng vẫy thoát ra khỏi lưới để trở về với dòng nước quen thuộc của nó. Vì thế, bạn luôn luôn phải kéo tâm mình quay trở lại với đề mục niệm Buddho.
Buddho là một cái gì đó thật tĩnh lặng và mát lành. Nó chính là con đường đưa đến an lạc và bình an – con đường duy nhất sẽ giải phóng chúng ta ra khỏi mọi đau khổ trên thế gian này.
Vì vậy, bạn hãy thường xuyên kéo tâm mình quay lại với Buddho. Lần này thì nó bắt đầu lắng dịu trở lại. Khi đó, bạn sẽ bắt đầu cảm nhận được cái cảm giác mỗi khi tâm lắng đọng: nó an nghỉ, yên tĩnh và dễ chịu vô cùng, khác biệt hoàn toàn với cái tâm khi còn chưa vắng lặng, khi còn lao xao, trạo cử và bất an. Bạn cố gắng cẩn thận và tỉnh giác để gìn giữ tâm mình an trú trong trạng thái ấy và…Oops, nó lại chạy biến đi đằng nào mất tiêu rồi! Lần này thì nó lấy lý do tài chính ra để biện hộ. Nó nói rằng nếu bạn không làm việc này, không tìm kiếm cái kia thì sẽ đánh mất một cơ hội rất lớn. Nghe lời dụ dỗ của nó, bạn lại quay sang tập trung vào vấn đề ấy thay vì tập trung vào đề mục niệm của mình. Buddho chạy đi đâu mất nãy giờ bạn cũng chẳng hề biết nữa. Khi nhận ra Buddho đã biến mất thì đã quá muộn – chính vì thế mà người ta nói rằng cái tâm con người chúng ta luôn luôn tháo động, trơn tuột và rất khó kiểm soát, nó giống như con khỉ không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ.
Đôi lúc, khi đã ngồi thiền được khá lâu, bạn lại bắt đầu lo lắng: có thể máu không lưu thông được, tế bào thần kinh của mình có thể sẽ chết vì thiếu máu, có thể mình sẽ bị tê cứng và cuối cùng còn có thể bại liệt nữa. Nếu bạn hành thiền xa nhà, trong rừng sâu chẳng hạn, thì còn tệ hơn: bạn lo lắng mình có thể bị rắn cắn hay bị cọp xơi, bị ma đuổi, phi nhân quấy nhiễu…Nỗi sợ chết cứ đeo đẳng bạn bằng mọi cách, tất cả chỉ đơn giản là bạn đang tự nhát mình mà thôi. Sự thật thì chẳng giống như bạn tưởng tượng tý nào. Từ thửa cha sinh mẹ đẻ đến giờ, bạn đã bao giờ tận mắt nhìn thấy cọp ăn thịt một ai đâu. Bạn cũng chưa từng một lần nhìn thấy mặt mũi con ma nó ra sao nữa – bạn còn không biết nó trông như thế nào, nhưng bạn vẫn cứ vẽ ra một con ma ở trong tâm mình, khiến cho mình sợ chết khiếp.
Những trở ngại trong quá trình thực hành mà tôi nêu ra ở đây chỉ là các ví dụ mà thôi. Trong thực tế chúng có rất nhiều. Người hành thiền sẽ phải tự mình khám phá ra chúng trong quá trình thực hành của mình.
Nhưng nếu bạn gìn giữ đề mục Buddho thật sít sao trong tâm mình, và sử dụng chánh niệm để an trụ tâm chỉ trong Buddho chứ không gì khác, thì sẽ không có nguy hiểm nào đến ngáng đường bạn cả. Tôi đảm bảo rằng sẽ không thể có một nguy hiểm nào cả - chỉ trừ phi bạn đã tạo một nghiệp xấu nào đó trong quá khứ, thì không ai có thể bảo vệ bạn được, điều đó nằm ngoài khả năng của bất cứ người nào. Ngay cả bản thân Đức Phật cũng không thể bảo vệ bạn tránh khỏi nghiệp được.
Khi mới hành thiền, đức tin của thiền sinh vẫn còn yếu. Cho dù họ thực hành với đề mục nào đi nữa, những loại phiền não này chắc chắn vẫn can thiệp, chen ngang, bởi vì chúng cấu tạo nên nền tảng cho cả thế gian này và cả tâm của bạn nữa. Giây phút chúng ta hành thiền và làm cho tâm mình nhất tâm chuyên chú, phiền não thấy rằng chúng ta đang thoát khỏi tay chúng, vì vậy chúng xúm đến bu quanh hòng không để cho chúng ta vượt thoát ra khỏi thế gian này.
Nếu thấy ra được sự nguy hiểm và tai hại của phiền não, bạn cần phải làm cho tâm mình trở nên vững mạnh và tạo lập một đức tin vững chắc. Hãy tự nói với chính mình rằng: chúng ta đã để phiền não lừa đảo mình trong biết bao nhiêu kiếp sống rồi; giờ đây là lúc chúng ta phải đặt lòng tin vào Giáo pháp của Đức Phật và lấy Buddho (Buddho, tiếng Pali có nghĩa là Phật) làm nơi nương tựa cho mình. Rồi sau đó chúng ta củng cố chánh niệm cho thật vững chắc và gắn chặt tâm mình vào Buddho. Chúng ta đặt cả cuộc đời mình vào Buddho và sẽ không để cho tâm mình đi ra khỏi nó. Khi đã có quyết tâm dũng mãnh như vậy, bạn sẽ tiến thẳng vào nhất tâm và nhập định rất nhanh chóng.
Lần đầu tiên nhập vào an chỉ định, bạn sẽ có cảm giác như thế này: bạn không hề có một ý niệm gì về định hay trạng thái nhất tâm gì hết cả. Bạn chỉ đơn giản giữ chánh niệm tập trung vững chắc trên một đề mục duy nhất – và chính năng lực của tâm tập trung trên một đề mục đó sẽ là cái đưa bạn thể nhập vào định. Bạn không hề suy nghĩ xem định sẽ như thế này hay như thế kia, hay là mình muốn nó phải thế này hay thế nọ. Nó chỉ đơn giản hành động theo chính nó, một cách hoàn toàn tự động. Không ai có thể ép buộc được nó cả.
Khi đó, bạn cảm thấy dường như mình đã ở trong một thế giới khác (thế giới của tâm), với một cảm giác vô cùng dễ chịu và tách biệt, mà không có bất cứ một thứ gì trên thế gian này có thể so sánh được. Khi tâm xuất ra khỏi định, bạn sẽ cảm thấy tiếc nuối rằng cảm giác ấy đã qua đi, và bạn vẫn còn nhớ như in. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể nói về định khi đã xuất ra khỏi trạng thái đó. Khi tâm thể nhập và an trú trong đó, chúng ta không còn quan tâm đến bất cứ những gì người khác nói hay làm nữa.
Bạn phải huấn luyện tâm mình để nhập định thường xuyên, để trở nên thành thục, nhưng đừng cố gắng hồi nhớ lại những trạng thái định đã có trước đây của mình, và chớ mong muốn định của mình phải giống như lần trước – bởi vì nó sẽ không bao giờ như cũ cả. Làm như thế bạn sẽ chỉ càng tự gây thêm rắc rối cho chính mình mà thôi. Chỉ đơn giản niệm Buddho, Buddho… và giữ cho tâm mình niệm liên tục như vậy. Còn sau đó tâm có làm gì thì đó là việc của nó.
Khi đã nhập định lần đầu tiên, những lần tiếp theo sẽ không giống y hệt như thế nữa, nhưng chớ lo lắng về điều đó. Bất cứ nó là như thế nào, cũng đừng lo lắng, băn khoăn về nó. Chỉ cần đảm bảo là bạn tập trung hoàn toàn vào nó mà thôi. Khi kết quả đến theo nhiều cách khác nhau, sự hiểu biết của bạn cũng sẽ được mở rộng và bạn sẽ phát huy được rất nhiều kỹ thuật thiện xảo khác nhau để làm việc với tâm mình.
Những gì tôi nói ở đây, chỉ nên đơn giản coi đó là những ví dụ mà thôi. Khi bạn thực hành theo những chỉ dẫn này, đừng quá coi trọng nó, đừng quá đặt nặng vào nó, nếu không nó sẽ trở thành những ảo ảnh trong quá khứ và thiền tập của bạn rồi sẽ chẳng đi tới đâu cả. Chỉ cần đơn giản ghi nhớ chúng như là một kinh nghiệm dùng để so sánh, khi thiền tập của bạn đã tiến triển mà thôi.
Bất cứ phương pháp nào bạn thực hành – niệm Buddho, niệm phồng xẹp hay niệm sammāaraham – khi tâm bắt đầu lắng đọng trong định, bạn sẽ không nghĩ rằng tâm mình đã lắng đọng, hay đang lắng đọng, hay bất cứ điều gì khác. Nó sẽ tự lắng đọng một cách tự động. Thậm chí bạn còn không biết là mình đã buông bỏ việc niệm đề mục như thế nào nữa. Tâm bạn chỉ đơn giản tĩnh lặng và an lạc, sự an lạc không hề có được trên thế giới này hay bất cứ nơi đâu. Thực tại chế định của thế gian không còn xuất hiện ở đó nữa, và do đó cũng chẳng có tuệ giác nào khởi sanh trong đó cả. Điểm chính là bạn chỉ đơn giản huấn luyện tâm mình tập trung và rồi sau đó so sánh nó với trạng thái tâm không tập trung, không định tĩnh để thấy được chúng khác nhau ra sao; cái tâm đã đắc định và xuất định để quán chiếu các pháp khác biệt so với cái tâm chưa đắc định như thế nào.
Chân tâm và tâm trí, bây giờ chúng ta sẽ nói thêm một chút về chân tâm và tâm trí để bạn có thể hiểu được chúng. Bởi cuối cùng thì chúng ta đều đang nói về quá trình luyện tâm để đạt tới định, nếu không hiểu biết về mối quan hệ giữa chân tâm và tâm trí, bạn sẽ không thể biết được mình đang ở chỗ nào và cách thực hành định ra sao.
Tất cả mọi chúng sanh được sinh ra – dù là con người hay động vật – cũng đều có chân tâm và tâm trí, song chân tâm và tâm trí có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Tâm trí suy nghĩ, lang thang và tạo dựng nên đủ loại ý tưởng theo sự dẫn dắt của các loại phiền não. Còn chân tâm, nó chỉ đơn giản là cái hay biết. Nó không tạo tác nên bất cứ một ý tưởng nào cả. Nó nằm ở giữa, trung lập với tất cả mọi thứ. Chánh niệm trung lập: đó chính là chân tâm.
Chân tâm không hề có một cơ thể vật chất. Nó là một hiện tượng của tâm mà thôi. Nó chỉ đơn giản là sự chánh niệm. Bạn có thể đặt nó ở bất cứ nơi đâu. Nó không hề nằm trong hay nằm ngoài cơ thể. Khi chúng ta gọi trái tim cơ bắp trong ngực này là tâm, nó không phải là chân tâm thực sự. Nó chỉ là một cơ quan nội tạng bơm máu đi khắp cơ thể để nuôi sống chúng ta mà thôi. Nếu trái tim này không hoạt động nữa thì cuộc sống cũng chấm dứt.
Mọi người nói chung vẫn thường nói về tâm như thế này: “Tôi cảm thấy niềm hạnh phúc trong tâm…tôi cảm nhận nỗi buồn…sự nặng nề…sự thanh thản nhẹ nhàng…trong tâm”. Tất cả đều quy về tâm. Các học giả chuyên về Vi diệu pháp (Abhidhamma) thường hay nói rằng: có tâm bất thiện, tâm thiện, tâm vô nhân, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới, tâm siêu thế và vân vân…nhưng không ai trong số họ hiểu được thế nào là tâm và thế nào là chân tâm.
Tâm là cái suy nghĩ, lý luận và tạo dựng nên các ý tưởng. Nó phải sử dụng đến 6 giác quan làm công cụ. Ngay khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm giác sự xúc chạm –nóng, lạnh, cứng, mềm - và ý suy nghĩ, nắm bắt các ý tưởng theo dòng phiền não, tốt hay xấu: nếu bất cứ điều gì cảm nhận là tốt, tâm liền thích thú; nếu xấu, nó chán ghét. Tất cả những điều này đều là công việc của tâm, hay của phiền não. Ngoài sáu giác quan này, tâm trí không thể sử dụng được cái gì nữa. Trong kinh điển, chúng được chia ra thành sáu căn, sáu trần và sáu giới, đại loại như vậy, nhưng không có thứ nào trong đó nằm bên trong sáu giác quan cả. Do vậy, những thứ này cũng đều là những đặc tính của tâm: cái không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ.
Khi bạn huấn luyện tâm mình, hay nói cách khác là tu tập định, bạn phải chế ngự tâm mình vốn luôn lang thang chạy theo sáu giác quan và buộc nó đứng yên lại ở một điểm: đó chính là đề mục niệm Buddho. Đừng để nó tuột chạy đi đằng trước hay thụt lại đằng sau. Làm cho nó an trụ và hay biết rằng nó đang an trụ: đó chính là chân tâm. Chân tâm không có việc gì phải làm đối với sáu giác quan cả, chính vì thế nó được gọi là chân tâm.
Nói chung khi mọi người nói về chân tâm, họ thường ám chỉ về nơi tâm điểm của nó. Thậm chí, ngay cả khi họ nói về chân tâm của mình, họ cũng chỉ vào giữa ngực mình. Thực ra chân tâm chẳng nằm ở một nơi nào trong thân này cả, mặc dù nó vẫn luôn nằm ở nơi trung tâm của tất cả mọi thứ.
Nếu bạn muốn hiểu thế nào là chân tâm, bạn có thể thử làm một thí nghiệm sau đây. Hãy hít vào một hơi và giữ một lúc. Vào lúc đó, chẳng thể có cái gì sất cả, ngoại trừ một điều: chánh niệm đơn thuần, hoàn toàn trung lập. Đó chính là chân tâm, hay là “cái hay biết”. Nếu bạn cố gắng nắm bắt chân tâm của mình theo cách này, bạn sẽ không thể nắm giữ nó được lâu, chỉ lâu đến mức có thể nhịn thở được mà thôi, nhưng bạn có thể thử làm như vậy, chỉ để thấy ra được thế nào là chân tâm thực sự mà thôi.
(Giữ hơi thở có thể giúp làm giảm nhẹ cơn đau trên thân. Những người phải chịu những cơn đau đớn vật vã thường giữ hơi thở như là một cách giảm đau khá hiệu quả).
Khi bạn đã nhận ra rằng tâm trí và chân tâm có những chức năng và đặc tính khác biệt nhau như thế, bạn sẽ thấy công việc huấn luyện tâm của mình trở nên dễ dàng hơn nhiều. Thực ra thì chân tâm và tâm trí cũng chỉ là một mà thôi. Như Đức Phật đã nói, chân tâm cũng chính là tâm trí. Khi thực hành thiền chỉ, thì chỉ cần huấn luyện tâm mình là đủ; một khi tâm đã được huấn luyện, thì ngay tại đó chúng ta sẽ thấy được chân tâm của mình.
Khi tâm đã được huấn luyện hoàn toàn đầy đủ bằng chánh niệm, an trụ trong Buddho như một đề mục duy nhất, nó sẽ không còn chạy theo ngoại cảnh nữa mà sẽ quy tụ vào một điểm. Đề mục niệm sẽ biến mất mà bạn không hề hay biết và bạn sẽ cảm nhận được một cảm giác bình an và dễ chịu không gì so sánh nổi. Những người chưa từng cảm nhận được sự bình an này trước kia, khi lần đầu tiên cảm nhận được nó, họ không thể nào diễn tả được, bởi vì không có ai trên thế gian này từng được kinh nghiệm qua sự an lạc và bình yên đến thế. Mặc dù nhiều người khác cũng đã kinh nghiệm được, nhưng nó không hoàn toàn giống y hệt như nhau. Chính vì lý do này mà bạn cảm thấy rất khó để diễn tả được nó – mặc dù bạn có thể tự diễn tả được cho chính mình. Nếu muốn diễn tả lại cho người khác hiểu, bạn phải dùng đến những lối nói ẩn dụ, so sánh hay những ví dụ tương đương. Những thứ như thế này thường là những kinh nghiệm rất cá nhân: chỉ mình bạn tự biết, tự hiểu được mà thôi.
Ngoài ra, nếu bạn đã phát triển được một số tiềm năng trong những kiếp quá khứ, thì sẽ có rất nhiều điều lạ lùng xảy đến. Chẳng hạn bạn sẽ có thể thấy được những cảnh giới chư thiên hay ngạ quỷ. Bạn có thể nhớ được những kiếp quá khứ hay thấy trước được tương lai của mình và của người khác. Trong kiếp trước bạn đã là thế này, kiếp sau bạn sẽ thế kia…Mặc dù bạn không dự định là mình sẽ thấy được những điều đó, song khi tâm đã đắc định nó có thể tự hiểu biết được nhiều điều rất lạ lùng.
Những điều lạ lùng như thế thường làm cho những thiền sinh mới mê mẩn. Khi những điều này xảy đến với họ, họ rất thích đem đi khoe khoang với người khác. Những người khác cố gắng hành thiền, nhưng không đạt được những khả năng như vậy thì lại đâm ra chán nản, thất vọng và nghĩ rằng mình không có đủ phước hành thiền và rồi bắt đầu đánh mất đức tin vào pháp hành.
Còn đối với những người thấy được những điều đó, khi khả năng đó bị suy thoái đi – bởi vì họ đã bị những thứ bên ngoài lôi đi và không lấy chân tâm làm cứ điểm cho mình – thì họ không thể bám víu vào bất cứ cái gì được nữa. Khi nghĩ lại những điều họ đã thấy, tâm họ lại càng trở nên bất an, khuấy động hơn. Những người đã trót khoe khoang với người khác về khả năng của mình thì thường dựa trên những gì trước kia mình hay thấy để mà nói phóng đại lên. Những người khoái chuyện lạ rất thích nghe những chuyện như thế, nhưng đối với những thiền sinh nhiệt tâm thì họ không thèm để ý - bởi vì, một thiền sinh đích thực chỉ muốn nghe những điều thực tế và ngay trong hiện tại mà thôi.
Đức Phật dạy, sau này giáo pháp của Như Lai có được phát triển hay suy tàn đi là phụ thuộc vào những người thực hành giáo pháp. Giáo pháp sẽ ngày càng suy tàn khi những thiền sinh mới chỉ biết được chút ít đã vội đi khoe khoang, khoác lác với người, nói những chuyện trên trời dưới biển mà chẳng có thực chất chút nào, thay vì việc chính phải làm là giảng giải nguyên tắc hành thiền căn bản để hướng dẫn mọi người thực hành. Khi làm như thế, chính họ đang làm cho giáo pháp suy tàn mà không hề ý thức được điều đó.
Người làm cho giáo pháp hưng thịnh là những người chỉ nói những điều lợi ích và chân thật. Họ không nói chỉ vì muốn vui vẻ. Họ nói về nhân quả: “Khi bạn thực hành như thế này, niệm câu đó lặp đi lặp lại theo cách này, nó sẽ giúp tâm bạn quy tụ về một điểm, dập tắt phiền não và bất an như thế này…”.
Khi bạn hành thiền với đề mục niệm Buddho, hãy kiên nhẫn. Đừng nóng vội. Hãy đặt lòng tin vào đề mục thiền và sử dụng chánh niệm để an trụ tâm mình trong Buddho. Đức tin là cái sẽ làm cho tâm bạn vững vàng, không dao động, có thể buông bỏ tất cả mọi hoài nghi, do dự trong mình. Tâm bạn sẽ quy tụ về câu niệm đó và chánh niệm sẽ giữ cho nó an trụ trong Buddho suốt trong mọi lúc. Dù bạn đi đứng ngồi nằm hay trong bất cứ công việc gì bạn làm, chánh niệm sẽ luôn luôn giác tỉnh với chỉ Buddho mà thôi, không hề để tâm đến bất cứ điều gì khác ngoài nó. Nếu chánh niệm của bạn còn yếu, kỹ thuật còn non thì bạn phải bám chắc vào Buddho làm nền tảng cho mình. Nếu không pháp hành của bạn sẽ không thể tiến triển được, hoặc nếu có tiến triển đi nữa thì nó cũng không có một nền tảng nào cả.
Để đạt được định tâm vững mạnh, bạn cần phải có quyết tâm. Khi chánh niệm vững mạnh, và bạn có quyết tâm, bạn quyết định rằng đây chính là điều mình muốn làm: “Nếu tôi không nắm bắt được Buddho, không thấy Buddho trong tâm mình hay không an trụ tâm được trong Buddho, tôi sẽ không đứng dậy khỏi chỗ ngồi thiền. Ngay cả khi mạng sống của tôi chấm dứt, tôi cũng không cần”. Khi bạn quyết định như vậy thì tâm của bạn quy tụ về nhất tâm nhanh hơn rất nhiều. Đề mục niệm Buddho, hay bất cứ cái gì có thể gây xao lãng, bối rối cho bạn sẽ nhanh chóng biến mất trong nháy mắt. Ngay cả cái thân này bạn đã dính mắc với nó bao lâu nay cũng sẽ không còn làm bạn phải bận lòng nữa. Tất cả những gì còn lại chỉ là chân tâm – chỉ còn lại chánh niệm đơn thuần– tĩnh lặng, mát lạnh và vô cùng dễ chịu.
Người hành thiền sẽ rất thích thú khi cảm giác này xuất hiện. Lần sau, họ lại mong ngóng cảm giác đó xuất hiện trở lại, và chính vì thế nó sẽ không đến nữa. Đó là bởi vì tâm tham đã ngăn cản không cho nó xảy đến. Định là một thứ rất vi tế và nhạy cảm. Bạn không thể ép buộc nó phải xảy ra như thế này hay thế khác được – và bạn cũng không thể cưỡng ép tâm mình nhập định được.
Nếu bạn nóng vội thì mọi việc sẽ lại chỉ càng rối hơn mà thôi. Bạn phải rất kiên nhẫn. Dù tâm có đắc định được hay không, nhưng bạn đã thực hành niệm Buddho từ trước tới nay rồi thì cứ tiếp tục niệm Buddho như vậy đi. Hãy thực hành như thể trước đây bạn chưa bao giờ niệm Buddho vậy. Hãy làm cho tâm quân bình và trung lập, để cho hơi thở điều hòa nhẹ nhàng, và dùng chánh niệm chú tâm vào mỗi Buddho mà thôi, không để ý đến bất cứ cái gì khác ngoài nó. Khi thời điểm đã chín muồi để tâm nhập định thì nó sẽ tự làm việc đó. Bạn không thể bố trí, thu xếp cách nó phải xảy đến như thế nào. Nếu nó là thứ mà chúng ta có thể sắp xếp được thì hẳn là tất cả mọi người trên thế giới này đã trở thành bậc thánh Alahán từ lâu rồi.
Biết cách thực hành thiền, nhưng không làm đúng theo nó; làm đúng được một lần, rồi sau đó lại muốn nó phải tiếp tục xảy đến theo cách như vậy nữa, nhưng nó không xảy ra: tất cả những điều đó đều là những trở ngại cho bạn trong quá trình thực hành thiền định.
Khi thực hành thiền với đề mục niệm Buddho, bạn phải thực hành cho đạt đến mức thuần thục và có thể nhanh chóng nhất niệm. Mỗi khi có trạng thái tình cảm tốt hay xấu nào đó tấn công bạn, bạn phải có khả năng ổn định tâm mình ngay lập tức. Chớ để tâm mình bị tác động bởi trạng thái tình cảm đó. Mỗi khi nghĩ đến Buddho, tâm bạn sẽ quy tụ lại ngay lập tức: khi đã có thể làm được điều này, tâm bạn sẽ trở nên vững chắc và có thể tự nương tựa vào chính nơi mình.
Khi thực hành theo cách này đến mức thuần thục và dầy dạn kinh nghiệm, sau một thời gian bạn sẽ phát hiện ra là những phiền não và dính mắc trong mình đối với tất cả mọi thứ dần dần tự biến mất. Bạn không phải cố công dẹp bỏ phiền não này, phiền não kia nữa, không còn phải tự bắt mình phải đoạn trừ phiền não này, phiền não nọ bằng phương pháp này, phương pháp kia nữa. Hãy bằng lòng với bất cứ phương pháp nào mà bạn cảm thấy thích hợp với mình. Thế là đủ!
Làm cho phiền não dần dần biến mất với phương pháp tôi vừa trình bày ở trên thì hay hơn là cứ phải cố thu xếp, sắp đặt mọi việc, phải nhập bốn tầng thiền chỉ, loại bỏ tầm, tứ, hỷ, lạc để chỉ còn lại nhất tâm và xả; hay hơn là phải cố sắp đặt để đạt tới được tầng giác ngộ đầu tiên bằng cách loại bỏ thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ; hoặc bằng cách xem xét các loại phiền não và tự nói với mình rằng: “với loại phiền não đó, tôi sẽ có thể quán chiếu như thế này, thế này để vượt qua nó. Tôi còn rất nhiều loại phiền não như thế, như thế trong mình, nếu có thể quán chiếu như vậy, các phiền não đó sẽ đoạn tận”. Nhưng bạn không hề nhận ra rằng chính cái tâm muốn thấy, muốn biết và muốn đạt được những điều đó lại là một loại phiền não đang gắn chặt trong tâm bạn đó. Khi không còn quán chiếu nữa, tâm bạn sẽ lại quay trở lại vị trí ban đầu và cũng chẳng đạt được cái gì cả. Tệ hơn nữa, nếu có ai đó nói điều gì ngược với kiến giải của bạn, ngược với tư kiến của bạn, bạn sẽ bắt đầu nổi sùng lên, như lửa đổ thêm dầu.
Vì vậy, hãy bám chặt vào đề mục niệm Buddho của mình. Ngay cả khi bạn không đắc được cái gì đi nữa thì ít nhất bạn cũng phải lấy đề mục niệm đó làm nền tảng cho mình. Những thứ linh tinh thường chiếm giữ tâm bạn sẽ ngày càng bớt dần đi và thậm chí còn mất hẳn, điều đó còn tốt hơn là chẳng có một nền tảng nào cho mình bám víu vào cả.
Thực ra, tất cả mọi thiền sinh đều phải neo chắc vào đề mục niệm của mình. Chỉ khi đó họ mới có thể được coi là đang hành thiền với một nền tảng căn bản. Khi thiền của họ bị suy thoái, thì họ còn có thể sử dụng nó như một chỗ để bám víu, neo đậu vào.
Đức Phật dạy rằng những người đang cố gắng để đoạn trừ phiền não phải hành động như những chiến binh. Thời xưa, các chiến binh phải xây dựng những bức thành rất vững chắc với những bức tường dầy, với những hào nước bao quanh, với những cửa thành và tháp canh để chống đỡ lại những cuộc tấn công của quân địch. Khi một chiến binh ra chiến trường và thấy rằng quân mình không thể địch lại với quân thù, anh ta sẽ rút lui vào trong thành của mình và phòng thủ không cho quân địch phá thành. Đồng thời anh ta cũng chuẩn bị đầy đủ lực lượng, vũ khí và quân lương (củng cố định tâm vững chắc) rồi tiếp tục ra trận chiến đấu với quân thù (là các loại phiền não trong mình).
Định là một sức mạnh rất quan trọng. Nếu không có định, thì sự quán chiếu, phân biện của bạn sẽ lấy đâu ra sức mạnh đây? Sự quán chiếu của thiền tuệ quán không phải là thứ có thể chế tạo ra mà được. Mà thay vào đó, nó sanh khởi từ định tâm đã được làm chủ thuần thục cho đến khi trở thành vững chắc.
Ngay cả đối với những người được cho là đạt tới giác ngộ bằng thiền “khô tuệ” (tức bằng thiền tuệ quán Vipassana thuần túy, không qua con đường thiền chỉ), nếu không có chút định tĩnh nào trong tâm thì họ lấy đâu ra tuệ giác? Trường hợp đó chỉ đơn giản là định của họ chưa được làm chủ một cách hoàn toàn đầy đủ và thuần thục (như người hành thiền chỉ) mà thôi. Chỉ khi chúng ta hiểu theo cách này thì sự việc xem ra mới hợp lý.
Khi định của bạn đã vững chắc đến mức bạn có thể xuất nhập tùy ý, thì khi đó bạn sẽ có thể an trú trong nó trong thời gian dài và quán chiếu những phần thể trược của thân thể mình hay quán chiếu các thành tố vật lý của nó (tứ đại). Hoặc nếu muốn, bạn có thể quán chiếu mọi người trên thế giới này cho đến khi thấy họ chỉ là những bộ xương mà thôi. Hoặc bạn có thể quán cả thế gian này chỉ là hư không…
Một khi tâm bạn đã hoàn toàn tập trung, thì dù khi bạn đang ngồi hay đi, hay đứng, hay nằm, tâm vẫn luôn luôn tập trung trong mọi lúc. Bạn sẽ có thể thấy rõ những phiền não trong mình – tham, sân, si, những thứ sanh khởi từ trong tâm – khởi lên do những nhân này, duyên kia như thế nào, cách nó duy trì theo cách thức này hay cách thức kia ra sao, và bạn sẽ có thể tìm ra được những phương cách để loại bỏ chúng bằng phương pháp này, phương pháp nọ.
Điều này cũng giống như nước trong hồ đã bị vẩn đục từ cả trăm năm nay, bỗng nhiên trong sạch trở lại và bạn có thể nhìn rõ được tất cả mọi thứ dưới đáy hồ - những thứ mà trước kia bạn chưa từng bao giờ nằm mơ thấy nó nữa. Chính điều này được gọi là tuệ giác – thấy tất cả mọi thứ như thực sự chúng đang là. Dù bất cứ thực tại nào chúng có, đó cũng chính là thực tại mà bạn đang thấy, thấy thực sự không hề bẻ cong, bóp méo.
Ép buộc tâm mình để trở nên tĩnh lặng cũng có thể loại bỏ được phiền não, song nó giống như một người cắt cỏ, chỉ cắt phần cỏ mọc trên mặt đất mà không đào tận gốc. Gốc rễ cỏ chắc chắn sẽ mọc trở lại khi mưa xuống. Nói cách khác, bạn thấy được sự nguy hại của những điều du nhập vào mình qua sáu giác quan, nhưng ngay khi vừa thấy nó, bạn đã vội rút lui vào sự tĩnh lặng mà không quán chiếu nó một cách cẩn thận như bạn đã làm khi tâm đang còn trong định. Tức là bạn chỉ muốn thụ hưởng sự vắng lặng trong tâm mà không muốn mất thời gian quán chiếu – giống như một con thằn lằn ru rú trong xó hang của mình để mong được an toàn. Khi vừa thấy kẻ thù tới là nó đã rụt ngay vào trong hang để chỉ trốn tránh nguy hiểm được một lúc nào đó mà thôi.
Nếu muốn nhổ tận gốc rễ phiền não, thì khi thấy phiền não sanh khởi lên từ sáu giác quan – chẳng hạn, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân xúc chạm khiến bạn khởi yêu ghét, thích thú hay chán ghét, và rồi sau đó chấp thủ, nắm giữ chúng, nó khiến tâm bạn u ám, động loạn, buồn đau và đôi khi còn đến mức làm bạn mất ăn, mất ngủ hay thậm chí còn tự tử vì chúng nữa – khi bạn thấy được nó một cách rõ ràng, hãy làm cho tâm định của mình vững chắc và rồi chú tâm hoàn toàn để quán chiếu, xem xét nó. Chẳng hạn, khi mắt thấy hình ảnh đẹp làm cho bạn cảm thấy thích thú, hãy tập trung quán chiếu chính cảm giác thích thú đó, để tìm ra xem nó sanh khởi từ mắt hay từ hình sắc bên ngoài.
Nếu xem xét hình sắc bên ngoài, bạn sẽ thấy nó chỉ là một hiện tượng vật lý mà thôi. Dù nó là tốt hay xấu thì nó cũng không cố thuyết phục bạn phải thích thú hay chán ghét, phải yêu hay ghét nó. Nó chỉ đơn giản là một hình sắc xuất hiện rồi biến mất theo đúng bản chất tự nhiên của nó.
Khi bạn quay sang quán chiếu cái mắt thấy cảnh sắc đó, bạn sẽ thấy rằng mắt bạn đi tìm kiếm các đối tượng và ngay khi vừa tìm được một đối tượng nào đó, ánh sáng sẽ được phản chiếu lên các tế bào thần kinh thị giác và làm cho các hình sắc được xuất hiện. Mắt không cố thuyết phục bạn phải thích thú hay chán ghét, phải yêu hay ghét bất cứ thứ gì. Chức năng của nó chỉ đơn giản là nhìn mà thôi. Một khi nó đã thấy được hình sắc nào đó, thì hình sắc đó rồi cũng biến mất.
Đối với các giác quan khác cùng các đối tượng tương ứng của chúng, dù là đối tượng hấp dẫn hay không, cũng đều phải được xem xét theo cùng một cách như vậy.
Khi bạn quán chiếu theo cách này, bạn sẽ thấy một cách rõ ràng rằng tất cả mọi thứ trên thế gian này trở thành đối tượng của phiền não là do bởi sáu giác quan này. Nếu bạn quán chiếu sáu giác quan này để không bị lôi theo chúng, thì khi đó các phiền não không thể sanh khởi trong bạn được nữa. Thay vào đó, tuệ giác và sự phân biện sẽ sanh khởi, tất cả cũng chính từ sáu giác quan này. Sáu giác quan là nguồn cội của thiện, ác. Chúng ta có được một kiếp sống tương lai hạnh phúc hay đau khổ là phụ thuộc vào cách chúng ta sử dụng sáu giác quan này.
Thế gian này dường như quá rộng lớn là bởi do tâm chúng ta không được định tĩnh, nó buông thả tự do, lang thang với các đối tượng của sáu giác quan. Thế gian sẽ thu hẹp lại khi tâm đã được huấn luyện trong định, để nó nằm dưới sự kiểm soát của bạn và có thể quán chiếu sáu giác quan hoàn toàn trong chính nó. Nói cách khác, khi tâm đã hoàn toàn tập trung, các giác quan bên ngoài – mắt thấy sắc, tai nghe tiếng…- sẽ không còn xuất hiện nữa. Tất cả những gì xuất hiện khi đó chỉ là những hình sắc và âm thanh, là những hiện tượng tâm linh chỉ hiện hữu ở trong định. Bạn sẽ không còn chú ý tới bất cứ thứ gì ở bên ngoài nữa.
Khi sự chú tâm của bạn đã hoàn toàn vững chắc, bạn sẽ có thể quán chiếu thế giới của tâm, chính nó đã làm sanh khởi lên mọi xúc chạm giác quan, tưởng, hành và tất cả các phiền não. Tâm bạn sẽ rút lui khỏi tất cả mọi thứ, chỉ còn lại mỗi chân tâm, mỗi sự hay biết thuần túy mà thôi.
Tâm trí và chân tâm có đặc tính khác nhau. Tâm trí là cái suy nghĩ, tạo tác tưởng và hành đến mức dính mắc và chấp thủ chúng là chính mình. Khi nó đã thấy được đau khổ, sự nguy hiểm và tai hại đến từ việc chấp thủ vào các loại phiền não, nó sẽ rút lui ra khỏi tất cả những phiền não đó. Khi đó tâm trí sẽ là chân tâm. Đây chính là điều khác biệt giữa tâm trí và chân tâm.
Chân tâm là cái trung lập và tĩnh lặng. Nó không hề suy nghĩ. Nó chỉ đơn giản hay biết về sự tĩnh lặng của mình. Chân tâm chính là cái trung tâm, cái trung lập đích thực. Trung lập với tất cả, không quá khứ, chẳng tương lai, không tốt, chẳng xấu: đó chính là chân tâm. Khi chúng ta nói về tâm điểm của mọi thứ, chúng ta muốn nói rằng nó là trung tâm. Ngay cả tâm của con người, đó là một thứ thuộc về phần tâm linh, mà chúng ta cũng nói là nó nằm ngay giữa lồng ngực. Nhưng chân tâm thực sự nằm ở đâu, chúng ta không hề biết. Hãy thử chú tâm vào bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể mà xem, bạn sẽ cảm thấy có sự hay biết ở điểm đó. Hay nếu bạn chú tâm ra bên ngoài cơ thể - chú ý vào một điểm mốc hay ngôi tường của một ngôi nhà chẳng hạn – thì đó cũng chính là điểm mà bạn hay biết.
Do đó chúng ta có thể nói rằng, chân tâm đích thực chính là sự hay biết tĩnh lặng và trung lập. Nơi nào có sự chánh niệm trung lập, thì nơi đó có chân tâm.
Khi mọi người nói về trái tim một cách chung chung, đó không phải là chân tâm. Nó chỉ đơn giản là một hệ thống cơ bắp và van tim để bơm máu đi nuôi cơ thể mà thôi. Nếu nó không bơm máu đi khắp cơ thể như vậy thì bạn đã không thể sống được. Não bộ cũng như thế. Tâm chúng ta nghĩ đến thiện và ác, sử dụng não như một công cụ mà thôi. Hệ thống thần kinh trong não bộ chỉ là một cơ quan vật lý. Khi những nhân duyên, điều kiện khiến chúng tồn tại bị cắt ngang, thì cơ quan vật lý này cũng không thể tồn tại. Nó phải ngừng hoạt động.
Nhưng đối với tâm, một phần thuộc tâm linh, Đạo Phật dạy rằng nó sẽ vẫn còn tiếp tục tồn tại và có thể tiếp tục sanh lại nữa. Phần tâm linh này chỉ ngừng lại khi tuệ giác phân biện các nguyên nhân khiến chúng sanh lên và nhổ rễ hoàn toàn những nguyên nhân ẩn tàng đó.
Không có ngành khoa học nào trên thế giới này đạt tới điểm tận cùng cả. Bạn càng nghiên cứu, chúng lại càng mở rộng ra thêm. Chỉ có Đạo Phật mới có thể dạy bạn đạt tới điểm chấm dứt cuối cùng đó. Trong giai đoạn đầu tiên, Đạo Phật dạy chúng ta hãy tìm hiểu về cơ thể mình, để thấy nó được cấu tạo thành từ 32 thể trược như thế nào và chức năng của chúng ra sao. Đồng thời, Đạo Phật cũng dạy chúng ta thấy ra rằng thân này rõ ràng chẳng có gì đáng ham thích. Đạo Phật dạy chúng ta hiểu biết thế giới này (thế giới loài người này), được tạo nên từ đau khổ mà cuối cùng cũng phải tan hoại theo đúng bản chất tự nhiên của nó.
Giờ đây, chúng ta đã nhận thức được cái thân này – mặc dù nó đầy bất tịnh và đáng nhờm gớm, và mặc dù nó được tạo nên bởi đủ loại khổ đau – nhưng chúng ta vẫn có thể nương tựa vào nó để sống trong một lúc nào đó, vì vậy chúng ta cần phải tận dụng nó để làm những việc tốt đẹp, để trả món nợ đời trước khi rời bỏ nó khi cái chết đến bên mình.
Đức Phật dạy rằng mặc dù bản chất tự nhiên của con người (và cả thế giới này) là phải tan hoại và chết, song cái tâm của họ vẫn cứ phải quay trở lại tái sinh chừng nào nó vẫn còn phiền não. Do đó, Ngài đã dạy chúng ta thực hành thiền định, đó là một công việc hoàn toàn thuộc về tâm. Một khi đã thực hành thiền định, chúng ta sẽ cảm nhận được tất cả mọi cảm giác xúc chạm bên trong, ở ngay trong tâm chúng ta. Chúng ta sẽ không còn phải quan tâm đến cái nhìn, cái nghe ở mắt hay ở tai nữa. Mà thay vào đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự xúc chạm đó ngay chính trong tâm mình. Đây chính là ý nghĩa của việc thu hẹp thế gian quanh mình.
Các giác quan là công cụ tốt nhất để đo lường cái tâm của mình. Khi một sự xúc chạm giác quan nào đó đến với tâm ta, liệu nó có tác động đến bạn hay không? Nếu nó có rất nhiều tác động, điều đó cho thấy chánh niệm của bạn còn rất yếu và nền tảng của bạn vẫn còn dễ bị lung lay. Nếu nó chỉ tác động rất ít, hay không hề tác động gì đến bạn cả, thì điều đó cho thấy chánh niệm của bạn mạnh và bạn đã hoàn toàn có thể tự chăm lo đến cho bản thân mình được rồi.
Đề-bà-đạt-đa, con người đã tạo ra bao nhiêu là rắc rối cho Đức Bồ Tát trong suốt con đường tu của ngài, nếu không có ông ta, ắt là Đức Bồ Tát đã không thể hoàn thiện được đầy đủ các Balamật của mình đến viên mãn. Chỉ khi Ngài đã hoàn thành đầy đủ, viên mãn các Balamật đó thì mới có thể đạt tới giác ngộ và trở thành Phật. Trước khi giác ngộ, Ngài đã phải chống lại cả một binh đoàn cám dỗ to lớn, và ngay sau khi Ngài giác ngộ, ba con gái của Ma vương vẫn còn tiếp tục đến cám dỗ Ngài thêm một lần nữa. Từ thời khắc chiến thắng huy hoàng đó, tất cả mọi con người trên thế gian này đã ca ngợi, tán thán ngài, người đã vượt qua được tất cả mọi phiền não trên thế gian, một lần và mãi mãi.
Chừng nào các giác quan bên trong vẫn còn hiện hữu, chừng đó sự xúc chạm trong tâm vẫn còn chiếm giữ tâm trí chúng ta. Vì thế, những con người thiện trí, thấy ra sự nguy hiểm và tai hại của những điều này, đã sẵn sàng từ bỏ chúng, chỉ để lại một chân tâm trung lập … không thiên vị…, không suy nghĩ, không tưởng tượng, không phóng chiếu về bất cứ thứ gì. Nếu làm được như thế thì thế gian này còn tạo thành được ở nơi đâu nữa? Đây chính là cách Đức Phật dạy chúng ta để đạt tới nơi mà thế gian này chấm dứt.
Rừng thiền Viên Không,
tháng 12/2006