SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
NGÀI LUANG POR LIEM ṬHITADHAMMO
(Phra Visuddhisaṁvara Thera)
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
Các Trải Nghiệm Đầu Đời
Vào một buổi sáng mù sương, Luang Por Liem (tên tục Nay Liem Chantam) được sinh ra trong vùng Isahn (thuộc Đông Bắc Thái Lan), nơi có những cánh đồng lúa phì nhiêu và các khu rừng rậm rạp, trong một gia đình hạnh phúc, với một cuộc sống khá đầy đủ của một nông dân vùng quê bình thường. Ngài sinh ngày 5 tháng 11, 1941 (Phật lịch 2484) vào ngày thứ Năm, ngày thứ ba đầu tuần trăng của tháng mười hai, năm con rồng. Quê ngài ở Bahn Kog Jahn, Tambon Tung Chay, Ampher Utumpornpisay, tỉnh Sri Saket. Ngài có hai em gái, một em trai, một anh trai và một chị gái. Chị ngài cùng với bà mẹ, Khun Yaai Chi Baeng, sau trở thành tu nữ ở Wat Nong Pah Pong. Cha ngài tên Khun Por Peng Chantam.
Gia đình ngài sống khá cô lập. Ít giao tiếp với các nhà láng giềng, và cũng ít trò chuyện với nhau, vì thế theo người trong làng họ hơi khác lạ. Khi gặp người trong làng, họ vui vẻ chào hỏi, nhưng tránh không nói chuyện xã giao, dành lời cho những trường hợp hiếm hoi. Cuộc sống ở miền đông bắc Thái Lan lúc đó còn khó khăn, hoang sơ hơn ngày nay. Mọi người trong gia đình ngài Luang Por đều thành thạo việc đồng án: gieo trồng, làm vườn, chăm sóc trâu, bò. Luang Por học ở trường làng đến lớp bốn. Khi lớn hơn, ngài giúp cha mẹ công việc đồng án, gìn giữ các dụng cụ và xe kéo.
Năm mười bảy tuổi, Luang Por rời bỏ các tiện nghi quen thuộc và cuộc sống ở quê nhà để trải nghiệm cuộc sống ở các vùng khác của Thái Lan, xuôi về nam đến các tỉnh Chonburi và Trang. Suốt thời tuổi trẻ, Luang Por được biết đến như một người yêu chuộng hòa bình, lúc nào cũng tự quán xét mình để sửa đổi cách hành xử cho tốt hơn. Ngài không bao giờ uống rượu, hay bài bạc. Theo thông tục, ngài cũng có một số liên hệ với phụ nữ, nhưng không có gì quá đáng để mang rắc rối đến cho ngài.
Khi Luang Por rời bỏ môi trường sống quen thuộc ở làng quê, ngài khá thất vọng với thế giới mà ngài được tiếp cận. Ngài nhận thấy những người bạn mới chỉ thích cuộc sống xa hoa. Thí dụ, ngài gặp nhiều người chỉ thích ăn thịt những con vật to lớn như trâu, bò. Truyền thống gia đình ngài thì chỉ ăn thịt những sinh vật nhỏ -một thói quen mà họ vẫn còn giữ cho đến ngày nay- nên ngài thấy việc đó đáng ghê sợ và đáng kết tội.[1]
Tại tỉnh Trang thuộc miền Nam Thái Lan, Luang Por làm việc cho một gia đình đạo Hồi. Ngài ngạc nhiên nhận thấy người chủ không e dè việc ngài là Phật tử, mà còn thương yêu giúp đỡ ngài, xem ngài như con đẻ của ông. Ông chủ còn để Luang Por dự một số nghi lễ Hồi giáo, mà không màng đến việc Luang Por xuất thân từ gia đình thuộc dân tộc thiểu số, khác niềm tin, khác trình độ xã hội, kinh tế. Dựa vào trải nghiệm của ngài với người đạo Hồi, Luang Por quán xét thấy rằng dầu khác nhau về văn hóa, nguồn gốc, nhiều người có thể xem như khác biệt với ta, nhưng tín ngưỡng của họ không có gì sai, khi mà họ cũng tôn trọng các giá trị đạo đức và “đặc tính tâm linh khiến mọi người tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau”. Khi Luang Por xin phép chủ để trở về quê nhà giúp đỡ cha mẹ, chủ của ngài đã rơi nước mắt và không muốn ngài ra đi.
Bước Chân Người Sa-di
Thực ra, khi Luang Por trở về nhà, ngài không làm việc đồng án nữa. Theo phong tục ở Isahn (và phần lớn các vùng ở Thái Lan, dầu ngày nay truyền thống này phần nào đã mai một), thanh thiếu niên phải xuất gia, trong thời gian ngắn, hay suốt đời, để tiếp tục việc học, tu tập thực hành những lời dạy của Đức Phật một cách thiết thực hơn, để dần trưởng thành nên người có ích hơn cho gia đình và xã hội. Luang Por quyết định ‘bước tới’ làm chú sa-di năm mười chín tuổi để được thành thuộc hơn về Giới-Pháp năm hai mươi tuổi, đủ tuổi để thọ giới tỳ kheo.
Luang Por xuất gia ở một tu viện tại quê nhà, Wat Bahn Kog Jahn, vào ngày 12, tháng Năm, 1960 (Phật lịch 2503). Trong một thời gian ngắn khoảng hơn hai tuần, trong khi chuẩn bị cho lễ xuất gia làm sa-di vào ngày 28, tháng Năm, trừ kinh tụng cầu siêu, ngài thuộc lòng tất cả các kinh tụng truyền thống ở chùa (một việc mà có tu sĩ phải mất hàng năm mới làm được). Cắc cớ làm sao, vào ngày đầu tiên làm sa-di, chùa lại có đám cầu siêu.
Luang Por cảm thấy quá bức xúc, vì không thể tụng chung với tăng đoàn trong các nghi lễ cho người chết, ngài bắt đầu học các bài kinh cầu siêu lắc léo trong khi đang bận rộn chuẩn bị nước tắm cho sư phụ của mình. Vừa khi nước bắt đàu sôi, ngài đã thuộc lòng các bài kinh, khiến ngài có thể tham gia vào các nghi lễ tế tụng với các tu sĩ khác.
Ở chùa Bahn Kog Jahn lúc đó có mười chín vị tu sĩ đã thọ đủ các giới, cùng chín sa-di vừa xuất gia cùng lúc với Luang Por. Một trong những bổn phận hằng ngày của các sa-di là đi hứng nước uống và nước tắm ngoài giếng. Trong những ngày đó, làng quê chưa phát triển, họ phải đi khoảng một cây số rưỡi mới đến giếng nước và trở về với gánh nước trong cùng khoảng đường –tổng cộng là ba cây số.
Luang Por kể lại các trải nghiệm của mình, khi đối mặt với nỗi sợ ma, sợ người chết ngoài nghĩa trang, lúc ngài còn làm sa-di:
“Ngay khi còn là sa-di, tôi đã cố gắng thực hành quán tử thi. Lúc đó, người ta thường mang tử thi đến các nghĩa địa để chôn hay hỏa táng. Người ta nói nơi đó đầy ma. Tôi cố gắng đối mặt với điều đó. Dĩ nhiên tôi rất sợ. Phải thuyết phục bản thân đi ra nghĩa trang không phải là chuyện dễ. Rất khó. Đã thế, thời gian tôi chọn để đi, không có ai để tôi dựa vào, vì tôi thường đi một mình khi trời tối, chung quanh khá yên tĩnh.
Khi ra đi, tôi luôn cảm thấy vừa can đảm vừa sợ sệt. Đôi khi trong nghĩa trang có những chú chó đi tìm thức ăn thừa. Nếu chúng thấy tôi, chúng cũng sợ. Chúng cúp chạy ngay. Tóc tai tôi cũng dựng đứng, tôi cảm thấy muốn hét lên. Nhưng tôi không được làm thế. Tôi phải vượt thắng điều đó. Tôi cảm thấy như thân mình bị thiêu đốt. Tôi không thể tin nổi. Cuối cùng, tôi nghĩ, “Nếu phải chết, tôi sẽ chết”. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại như thế. Dầu tôi tự nhủ là không có ma, chỉ có lũ chó hoang đi tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn sợ. Gì cũng khiến tôi sợ. Tôi nghĩ, nếu tôi nán lại lâu hơn, tôi sẽ bớt sợ, nhưng không đơn giản thế. Ngay khi dường như tôi bớt sợ, thì nỗi sợ trở lại, càng tồi tệ hơn.
Trong hoàn cảnh đó, ta sợ tất cả mọi thứ. Rõ ràng là ta hoang tưởng, nhưng trong bối cảnh xa lạ như thế, các tâm hành chế ngự ta dễ dàng, trêu chọc, lừa phỉnh ta đến nỗi ta phải sợ hãi. Lúc đó là như thế, tôi đầy sợ hãi, không có lối thoát. Cuối cùng tôi tự nhủ, “Vậy đó. Sợ hãi. Rồi sao chứ? Ta chấp nhận ngươi. Chỉ là sợ thôi mà! Chết hả? Rồi thì sao, bất quá chết thôi!” Đó là cách tôi đối mặt với sợ hãi, nhiều lần, lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, nỗi sợ không hoàn toàn biến mất. Nó vẫn có mặt; nhưng ta không thể nói sợ như thế là không tốt. Thực ra, ở mức độ nào đó, nó cũng tốt, vì nó giúp ta tỉnh thức. Vì thế tôi chấp nhận nó, nghĩ rằng: “Thôi được, ta hoàn toàn chấp nhận ngươi, ta sẽ ở với ngươi. Ta không thể có mặt ở đâu trừ với cảm giác sợ hãi này”.
Vào mùa mưa, Luang Por học NakThamm Tri, cấp độ đầu tiên của các cuộc thi về Pháp trên toàn quốc. Ngài cũng học đọc, học viết các mẫu tự đặc biệt dùng để viết kinh sách (Dtua Thamm), để sử dụng trong các bài thuyết pháp sau mùa an cư. Luang Por luôn coi việc học kinh và ngoại văn là cơ hội quý báo để nâng sự hiểu biết của mình lên một cấp độ cao hơn. Lúc đó, sách vở và các phương tiện học tập đều thiếu thốn mọi bề, Luang Por phần lớn phải tự tìm phương tiện học hỏi. Bất cứ khi nào có thể và thuận tiện, Luang Por đều tinh tấn học hành.
Thọ Đại Giới & Hành Pháp
Vào ngày 22, tháng Tư, 1961 (Phật lịch 2504), Luang Por thọ giới tỳ kheo tại Wat Bahn Kog Jahn. Chỉ năm ngày sau lễ thọ giới, ngài phải rời xa vị thầy tế dộ cho mình, Phra Kru Tahvarachayakut, vì ngài cảm thấy bị nhiều áp lực do sống quá gần các anh chị em, bạn bè và quyến thuộc, không thể tránh chứng kiến những vui buốn trong đời sống của họ. Ngài đến sống với ngài Luang Pu Gao Mahāpañño (Phra Kru Mongkonchayalag) ở Wat Bahn Jahn Saen Chay thuộc một làng khác trong huyện nhà. Ngài tiếp tục học văn kinh trong suốt hai năm sau đó. Thời gian đó, ngài cũng hoàn thành việc tạc ba tượng Phật nhỏ, kể cả một tượng làm bằng gỗ đàn hương. Theo yêu cầu của Luang Pu Gao, tượng Phật này được cất giữ ở một nơi trang trọng, đến ngày nay dân làng Bahn Saen Chay vẫn coi đó là vật quý hiếm của huyện nhà.
Luang Por kể lại các trải nghiệm và nỗ lực của ngài trong việc tu hành với tư cách là một vị tân tỳ kheo như sau:
“Khi mới được thọ giới trọng, tôi cố gắng thực hành các đức tính như là thu thúc, phòng hộ, buông xả để sự việc tự kết thúc, trở nên trống rỗng. Thọ đại giới chỉ vì màu áo, chỉ vì vị thế, không phải là điều hay. Chúng ta thực sự phải tiến bước theo chân Đức Phật. Chúng ta thọ giới tỳ kheo để nhổ sạch, trừ bỏ các tham dục, các uế nhiễm.
Khi quán xét việc tu tập của mình, tôi thấy vẫn còn nhiều thiếu sót. Đôi khi tôi làm tốt, đôi khi chưa tốt. Đó là do tôi chưa thực sự tự tin. Đôi khi chúng ta chỉ có thể nhận biết mình đang ở trạng thái tâm nào mà thôi. Chúng ta gọi đó là tu tập, nhưng việc đó còn non nớt và thiếu sót về nhiều mặt.
Ngay khi còn là sa-di, tôi đã học các cách hành xử chuẩn mực trong cuộc sống ở tu viện, thí dụ, trong ngày, buổi chiều, đêm khuya phải làm gì. Tôi thắc mắc, buổi tối “ngồi thiền (chỉ) samadhi” nghĩa là gì. Ngồi chỉ là ngồi thôi, phải không? Lúc đó, tôi không hiểu “hành thiền chỉ” (samadhi) có nghĩa gì?
Tôi tham khảo tiểu sử của Đức Phật và các vị đệ tử của ngài, những người được coi là “đã diệt trừ mọi kiết sử, đoạn tận, chấm dứt mọi khổ đau, sân và si trong tâm”, nhưng nhìn lại mình, tôi thấy vẫn còn vô vọng quá. Tôi đã xuất gia theo phong tục, truyền thống của quê nhà rằng nếu được sinh ra làm thân nam, thì phải đi tu học. Đó thực sự là lý do khiến các thanh niên trẻ làm theo. Tôi đã đọc trong sách rằng khi trở thành người xuất gia, ta phải thực hành để biết được điều gì đó về bản thân, nhưng cuộc sống hiện tại ở tu viện dường như chưa giúp tôi tu tập được gì. Tôi chỉ làm các bổn phận giúp đỡ các vị thầy khả kính của mình. Dù tôi cũng cố gắng thực hành, nhưng cách thực hành đó quá mông lung. Nó vượt lên trên mức độ chánh niệm và trí tuệ của tôi khiến tôi không biết đâu là mấu chốt. Nhưng tôi vẫn còn đủ tín tâm để thấy rằng một khi tôi đã là người xuất gia, tôi phải tu tập, và phải cố gắng tìm cơ hội thực hành”.
Luang Por nhớ lại rằng thuật ngữ “Phra” (“Tôn sư” trong tiếng Thái) thường được dịch là “người vượt bực, tuyệt vời”. Nhưng ngài cảm thấy khá thất vọng –ngài chưa có khả năng làm gì để được gọi là “vượt bực” trong cuộc đời của một vị tu sĩ. Nhìn chung, ngài vẫn còn suy nghĩ như một phàm nhân, và hơn nữa là ngài vẫn còn vui hưởng dục lạc.
Luang Por chia sẻ các quán tưởng đã giúp ngài vượt qua những nghi hoặc của một vị tân tỳ kheo:
“Trong sự thực hành, nếu ta chỉ mới vừa trồng cây, ta không thể khiến nó ra hoa, có quả ngay. Ta phải dựa vào thời gian. Điều đó tự nhiên thôi. Không thể có sự hoàn hảo ngay tức thì. Tất nhiên là ta phải dựa vào sự vận hành của thời gian.
Khi mới bắt đầu vận chiếc y vàng, tôi không biết gì cả. Ngay cả khi đã là người xuất gia một thời gian, tôi vẫn có khuynh hướng hành xử theo cung cách mình đã quen thuộc, vì trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ mình là cư sĩ.
Khoác chiếc y vàng, ta được mọi người cung kính, vái chào nhưng trong tâm, ta vẫn còn suy nghĩ như một phàm nhân với các tâm tưởng uế nhiễm. Khó thể chuyển hóa tâm tưởng của ta cho đến khi các thói quen mới được thành hình. Có khi đến bốn hay năm năm sau, những cách suy nghĩ cũ có thể vẫn còn đó. Đau xót như bụi trong mắt.
Sống trong dục giới là sống giữa những thách thức và xung đột thường trực. Đôi khi ta nghĩ là mình không thể chịu đựng nỗi. Nhưng ta biết là mình phải cố gắng nỗ lực. Nếu không, khi Phật tử đến bái lạy, tỏ lòng tôn kính, ta sẽ cảm thấy mình không xứng đáng. Ta sẽ bắt đầu tự vấn, “Ta xứng đáng ở điểm nào? Tại sao ta quá hèn, quá tầm thường? Tại sao ta thô thiển như thế này?”
Một phương cách thiện xảo để đối phó với sự nghi hoặc này là nhớ tưởng đến cuộc đời của Đức Phật và các vị thánh đệ tử của Ngài. Điều này sẽ đem lại cảm hứng cho ta. Hãy nhớ rằng ngay cả đối với Đức Phật, cũng không dễ để từ bỏ đời sống thế tục. Ngài cũng đã phải đối mặt với nhiều vấn đề trước khi có thể thay đổi các quan niệm cũ của mình. Ngài dốc lòng, nỗ lực để tu tập kể cả những cách tu khổ hạnh kéo dài một thời gian. Vì thế, nếu như ta đôi khi có hành xử trở lại như một phàm nhân, người không biết tu, thì cũng không sao. Đôi khi điều đó xảy ra –nó cũng đã xảy ra với tôi. Chúng ta sẽ nghĩ, “Ôi, ta thật là vô tích sự…” Đôi khi ta muốn dày xéo, chà đạp bản thân. Nhưng thực ra, suy nghĩ như thế cũng chỉ là nghĩ tưởng. Chỉ là một biểu hiện của hành uẩn. Vậy tại sao ta lại tùng phục sân hận theo cách này?”
Luang Por trải qua hai mùa an cư tại Wat Bahn Jahn Saen Chay, tu tập dưới sụ chỉ dạy của Luang Pu Gao, người giúp Luang Por chuẩn bị thi bậc kế tiếp của các kỳ thi Nak-Thamm và Luang Por đã đậu năm 1962 (Phật lịch 2505).
Vào những buổi chiều ở Wat Bahn Jahn Saen Chay, Luang Por hoặc ngồi thiền hoặc đi kinh hành. Sau khi tiếp tục thực hành như thế một thời gian, ngài đã có thể thấy được các lợi ích của thiền chỉ. Ngài bắt đầu phát triển sự tỉnh giác và hiểu biết về các nội, ngoại duyên, và các trạng thái tâm của mình, cũng như cách đối trị các kiết sử và tham dục có thể phát khởi trong tâm. Khi ngài cảm thấy ái dục phát khởi đối với phụ nữ, ngài quán tưởng về tử thi như một phương cách đối trị, giúp ngài phần nào được giải tỏa trong lãnh vực này.
“Về vấn đề học tập kinh tạng, tôi vừa tự học vừa hướng dẫn cho người khác trong thời gian này. Những gì ta đã nhớ trong đầu, ta có thể sử dụng chúng để dạy người khác. Bằng cách đó, chúng tôi có thể giúp đỡ nhau. Khi đã vượt qua được các kỳ thi Nak-Thamm, tôi không phải học thêm điều gì nữa, nên tôi phát triển việc hành thiền sâu hơn. Thời điểm đó, tôi cũng hành một số khổ hạnh, thí dụ, luôn đi khất thực, hay chỉ ăn một bữa trong ngày. Đôi khi khất thực, chúng tôi chỉ nhận được cơm trắng. Không có gì để ăn kèm với cơm. Chúng tôi phải tự cố gắng. Tôi không suy nghĩ gì về việc thực hành đó có ích lợi hay không. Chỉ cần điều đó giúp chúng tôi thực hành hạnh kiên nhẫn, chịu đựng, vậy là đủ rồi. Suy cho cùng, chính Đức Phật cũng thực hành đi khất thực, vì thế chúng tôi, tu tập theo Ngài, phải làm thế thôi. Nếu điều đó đã tốt đối với Đức Phật, thì với chúng tôi cũng thế. Khi ta tiếp tục thực hành các hạnh này, tới lúc nào đó, ta sẽ đạt được năng lực từ những sự thực hành đó. Dầu thân ta có thể suy yếu, nhưng tâm trí ta sẽ ngày càng thêm mạnh mẽ.
Việc tu hành không phải để hành xác, mà để quán xét sự tín tâm saddhā, thẩm định sức chịu đựng của thân vật lý và các tâm hành. Liệu chúng có chịu đựng nổi những hoàn cảnh bất như ý? Ta sẽ có những phản ứng như thế nào? Bỏ qua mọi yếu tố tâm linh, liệu ta có chịu đựng nổi các ảnh hưởng vật lý? Nếu ta phải đối mặt với hoàn cảnh khi không có đủ thức ăn, ta có thể không ăn được không? Các cách tu tập kiên nhẫn chịu đựng này cũng không có gì to tát. Chúng chỉ là cái để kiểm tra xem ta có thể chịu đựng được gì. Ta có thể chịu được đói, khát? Chịu nổi mệt mỏi? Thông thường, sau khi chịu đựng cảm giác đói lả trong hai hay ba ngày đầu trong thời kỳ nhịn đói, khi ngày thứ tư hay năm đến, các cảm giác này qua đi và thân cảm thấy nhẹ nhỏm. Thực hành với sự kiên nhẫn chịu đựng không phải hoàn toàn vô ích. Thực ra điều này rất lợi ích trong việc giúp ta cơ hội tự kiểm lại các cảm giác và mức độ chịu đựng của ta”.
Ở Wat Bahn Jahn Saen Chay, khi một tu sĩ muốn hành các hạnh liên quan đến khất thực, việc ăn uống, trước hết người đó phải thưa trình với thầy mình, Luang Pu Gao. Luang Pu lúc đó sẽ nhắc nhở rằng: “Chúng ta hành các hạnh này không phải để biểu diễn, mà vì lòng thương kính đối với Đức Phật, người đã truyền dạy cho ta các pháp hành này. Chúng ta bằng cách nào đó nên cố gắng thực hành theo chúng. Ngoài ra việc giữ được bất cứ hay tất cả mười ba hạnh đầu đà sẽ khích lệ các tăng sĩ chưa thử thực hành chúng”.
Sau khi trải qua mùa an cư thứ hai làm người tu sĩ –thời gian tập tu ngài dự tính trước đó đã mãn. Ngài suy nghĩ cặn kẽ việc nên tiếp tục tu hành hay trở về đời sống thế tục. Cuối cùng, ngài quyết định không trở lui, do quán xét thấy rằng giáo lý của Đức Phật rất thâm sâu, vi diệu, và ích lợi –không chỉ cho riêng ngài mà còn cho bao chúng sanh. Do đó, điều nên làm là xây đắp một căn bản hiểu biết vững chãi hơn về giáo lý đó, qua việc học hỏi, trao dồi, thực hành, và huân tập thêm.
Những năm sau đó (từ 1963 –Phật lịch 2506 trở đi), Luang Por du hành đến nhiều nơi. Ngài không ở đâu lâu hơn một, hai năm. Vì ngài nhận thấy khi ngài trụ ở nơi nào đó hơi lâu, ngài trở nên chểnh mảng, không tự tại trong việc tu hành, vì thế ngài du hành qua một số tu viện khác nhau, xuống đến tận Bangkok. Cuối cùng, ngai trải qua mùa mưa an cư tại Wat Saeng Sâng ở Prachinburi, nơi sự tu tập của ngài được phát triển rất tốt. Ngài sống trong khu đất hỏa táng, chứng kiến nhiều xác người chết được hỏa thiểu, do đó có nhiều cơ hội tốt để quán tưởng về cái chết, như ngài đã thuật lại như sau:
“Thỉnh thoảng tôi dành thời gian đến quan sát các tử thi sắp được đem đi chôn hay hỏa thiêu. Vào thời xưa ở miền trung Thái Lan, người ta giữ xác rất lâu, nhưng lại không có các chất bảo quản để tiêm. Đôi khi xác được giữ hơn hai tuần. Quả thực, việc chứng kiến chúng thật đáng công. Quan tài không đóng nấp, nên ta có thể đến nhìn tận mặt, nhìn thật lâu. Xác chết trương sình, hôi hám, rỉ nước, màu da xám xịt, tối đen. Và đám ruồi nhặng không biết từ đâu kéo nhau đến đầy”.
Các ấn tượng từ việc thực hành quán sát tử thi đã giúp Luang Por cả trong việc tiếp tục quán tưởng về cái chết mà cũng giúp ngài đối mặt với sự luyến ái người khác phái.
Bên cạnh đó còn có những khó khăn khác do không quen thuộc với môi trường mới chung quanh đó. Khi an cư mùa mưa, ngài quyết định chọn một hướng đường đi khất thực trong suốt ba tháng. Đầu mùa mưa, lượng nước mưa tích tụ trên các cánh đồng và đường xá chưa nhiều, nhưng giữa mùa, mưa lớn hơn. Dần dần con đường ngài đi khất thực và khu vực quanh đó trở nên hoàn toàn ngập lụt đến độ khó thể tìm ra lối đi khất thực. Mỗi ngày, khi quay trở về tu viện, ngài và y áo đều ướt sủng. Có ngày, ngài phải đội bình bát trên đầu vì nước lũ ở nhiều nơi ngài đi qua lên đến tận cổ. Tuy nhiên, vì hạnh nguyện kiên quyết không bỏ việc đi khất thực suốt mùa mưa, đúng theo truyền thống của chư Phật, ngài cảm thấy không thể không thực hành. Vì thế, dầu hoàn cảnh vật lý có như thế nào, ngài vẫn trì bình mỗi ngày. Dầu người dân làng có ái ngại cho ngài như thế nào, ngài cũng không buông bỏ, chểnh mảng lời nguyện duy trì hạnh đầu đà này.
Năm đó ngài cảm thấy rất tinh tấn trong tu tập. Có những đêm ngài đi kinh hành quanh ngôi tháp cổ được xây dựng từ thời đại nào đó. Theo tài liệu lịch sử, ngôi tháp này là nơi người xưa giam giữ voi để cúng tế lễ. Từ lâu nó đã bị bỏ hoang, chung quanh chỉ có đồng ruộng và người dân quê, ngôi cổ tự giờ đã được tu sửa thành tu viện khang trang, tạo ra một môi trường thích hợp cho Luang Por tiếp tục phát triển những nỗ lực không ngừng trong tu tập.
Tuy nhiên, một trở ngại mà tất cả mọi chúng sanh chưa giác ngộ vẫn còn mê đắm là tham dục, nhất là đối với người khác phái. Việc một tăng sĩ trẻ bị lạc hướng trong các lãnh vực này cũng là điều tự nhiên. Trong những năm đầu của đời sống xuất gia, đây là loại chướng ngại luôn phát khởi, bất chấp vị tu sĩ có tinh tấn, tận tụy đến mức nào. Dĩ nhiên, Luang Por cũng phải đối mặt với thử thách này, như ngài kể lại:
“Tôi quán sát tất cả các trạng thái tâm phát khởi trong tôi. Tôi nhận thấy đôi khi tôi cảm thấy yêu mến một người nào đó, rồi chỉ sau đó ít lâu, tôi lại thấy trái ngược. Những người trẻ tuổi của hai phái thực sự khuấy rộn nhau, nhưng trên thực tế, đó là điều họ thích. Nó có thể dẫn đến mức độ là ta thấy người phụ nữ nào cũng đẹp. Tất cả mọi phụ nữ đều quá đẹp. Nhìn một người nam ta không thấy mảy may hấp dẫn, tim ta không rung động như khi nhìn phụ nữ. Có cái gì đó thực sự chế ngự tâm ta. Nếu ta đã nhìn họ với cái nhìn buông xả, dửng dưng thì ta không bị ảnh hưởng gì. Nhưng sự lôi cuốn này thực sự có thể xảy ra, nhất là khi ta không tinh tấn tu tập.
Bản thân tôi, tôi không hiểu làm sao mình có thể làm người tu sĩ mà có những suy nghĩ như thế. Tôi thực sự lo lắng cho các cảm xúc của mình, và càng học kinh luật, tôi càng thấy ra những yếu kém của mình. Mỗi khi tôi nghiền ngẫm về cuộc đời, các hành của Đức Phật hay các vị thánh đệ tử của Ngài, tôi càng thấy mình thật vô vọng. Tôi nghĩ đến ẩn dụ về các loại hoa sen và chắc rằng mình thuộc vào nhóm hoa vẫn còn hoàn toàn đắm mình dưới bùn đất. Tôi cảm thấy mình đang ở trong hoàn cảnh rất nguy ngập, nhưng dầu tôi có ngoi lên được khỏi lớp bùn, liệu tôi có thể nào nở hoa không. Hay rồi sẽ rơi lại chỗ cũ làm mồi cho loài cá, loài rùa dưới bùn sâu? Tôi hoàn toàn cảm thấy hoài nghi bản thân.
Tuy nhiên, tôi vẫn bám vào một thứ đó là lòng tin. Khi tôi hồi tưởng lại cuộc đời của Đức Phật, thì ước muốn thực sự tiến bộ trong tu tập lại khởi lên. Tôi muốn tu tập, muốn trải nghiệm, muốn tự mình khám phá sự việc, dầu tôi biết rằng cách cư xử, nghĩ suy của mình tựu trung vẫn còn giống như người cư sĩ. Bất cứ khi nào tôi cảm nhận nimitas[2], chúng cũng là cảnh thế tục, không phải hình ảnh trong đời sống xuất gia.
Nên năm đó, dầu tôi có lên tinh thần tu tập, nhưng chắc chắn là tâm tôi vẫn đầy phiền não. Thực ra, vậy cũng tốt, vì tôi cần có vài hạnh nguyện và ước vọng trong nỗ lực của mình để chễ ngự các trở ngại, thách thức đến từ lòng tham dục.
Chắc chắn đó là chuyện tự nhiên đối với bất kỳ ai ở tuổi đó có những ham muốn dục lạc. Và cũng bình thường khi các mộng mơ, viễn ảnh phát khởi lên trong tâm trí đều liên hệ đến lãnh vực này. Dĩ nhiên, đây là những suy tưởng giống như của người thế tục. Những tình cảm yêu, ghét. Chúng có mặt ở khắp mọi nơi và không dừng dứt bao giờ. Có người còn khuyên tôi cởi áo tu, hoàn tục”.
Năm 1964 (Phật lịch 2507), Luang Por trở về Wat Bahn Kog Lahn, thuộc tỉnh Sri Saket, để vừa học, vừa tu. Sau mùa mưa năm đó, ngài hoàn tất các kỳ thi cấp Nak-Thamm EK. Đúng lúc đó, người giữ chức vị sư trưởng Jao-kana Tambon vừa bãi nhiệm, nên Luang Por được mời vào chức vụ cao quý này. Biết rằng giữ các chức vụ trong Giáo hội sẽ thành một gánh nặng cho mình, nên ngài từ chối danh dự đó và xin phép vị trụ trì từ giã tu viện ra đi về miền Trung Thái Lan để tu học lên cấp bậc cao hơn. Cuối cùng ngài đến tỉnh Saraburi, nơi ngài hy vọng sẽ được vào tu viện để tu học. Nhưng sự việc không xảy ra như ý, nên Luang Por chấp nhận trải qua mùa an cư thứ năm (1965/2508) độc cư tại một ngôi chùa bỏ hoang gọi là Wat Bahn Suan (Ampher Phrabuddhabaht), thay vì tu học tiếp lên.
Trong mùa an cư trước đó ở Sri Saket, ngài đã mong có thể được ở một mình trong chánh điện của một ngôi chùa để có thể yên tĩnh hành thiền. Những lúc cần, Luang Por giúp dạy Nak Thamm cho các tăng sĩ trẻ, nhưng ban đêm, ngài thích được ở một mình, để liên tục hành thiền. Khi các Phật sự hay các nghi lễ giao tiếp trong xã hội xảy đến, ngài cũng vui vẻ làm nhiệm vụ, hoàn thành nhiều công tác thiện lành cho người khác. Nhưng trong thâm tâm, ngài luôn tìm cơ hội để ngồi hay kinh hành một mình ở những nơi vắng vẻ, yên tịnh, những nơi ngài có thể rời bỏ đám đông để quán tưởng về các trải nghiệm, các nghĩ suy của mình.
Luang Por nhớ lại, khoảng thời gian đó, các cảm xúc của ngài đối với người khác phái thường là vấn đề làm nặng tim óc của ngài, nhưng người ta có thể làm được gì chứ -dầu có đi đâu, rồi cuối cùng cũng phải gặp người khác phái. Thật rất khó tránh không tiếp xúc với phụ nữ. Nên Luang Por quyết định sẽ tiếp tục cách tu tập lặng lẽ, ẩn dật như ngày thường làm –rồi việc gì đến thì đến.
Sau đó, trong mùa an cư thứ năm, Luang Por, một mình ở Wat Bahn Suan, đã có một số sự kiện liên quan đến phụ nữ xảy ra. Chúng là nguyên nhân khiến Luang Por đau đầu. Ngay sau khi mùa an cư vừa chấm dứt, Luang Por nhận thấy mình không thể chịu đựng thêm, nên quyết định rời bỏ ngôi chùa này một thời gian. Khi ngài trở lại, dầu cuộc sống độc cư có thể đem lại một số lợi ích trong việc tu tập, vấn đề còn lại vẫn là tình cảm liên hệ đến phụ nữ.
“Khi ta sống một mình, ở nơi không quá xa làng mạc, ta vẫn phải tiếp xúc với dân làng và họ có thể đến với ta. Trong trường hợp của tôi, tôi chỉ cách làng khoảng 200 mét. Đặc biệt có cô gái, con ông trưởng làng, thuộc gia đình có ảnh hưởng lớn trong vùng. Là tu sĩ sống nhờ khất thực, bạn phải dựa vào cư sĩ hỗ trợ tứ vật dụng cho mình, lại là người xứ lạ đến, nên với thiện ý, cô gái đã hết lòng giúp đỡ tôi nhiều thứ.
Kết quả là cô gái này đến thăm viếng tôi mỗi ngày. Ngay phía sau nơi tôi tu tập là một vườn bắp. Kế bên nơi tôi ở, tôi để một số lu chậu để hứng nước mưa. Nếu ta không hứng nước mưa, đến mùa khô sẽ không có một giọt nước để xài. Ban đầu, cô ta đến chỗ tôi ở vì khát nước. Nhưng khi uống xong, cô ta sẽ ngồi xuống và bắt đầu hỏi chuyện này, chuyện kia. Cô ta rất mau mắn trong giao tiếp và bắt chuyện.
Nếu không nói chuyện với cô, có vẻ là tôi bất lịch sự, hơi thô lỗ. Tôi không biết làm sao trong hoàn cảnh đó, nên tôi thiết lập chánh niệm trong tâm, và bắt đầu trò chuyện với cô. Giống như trong các câu chuyện xã giao, chúng tôi nói điều này, điều nọ, luẩn quẩn một lúc”.
Khi câu chuyện kéo dài hơn năm, sáu câu, tự nhiên người ta bắt đầu có những ý nghĩ khác và cảm xúc xuất hiện. Nên, chuyện tự nhiên khi một thanh niên trẻ, sống độc thân, trải nghiệm trò chuyện với phụ nữ ở nơi thanh vắng sẽ khiến cho người đó thất niệm, phát sinh ra nhiều loại vọng tưởng. Sau lần thăm viếng đầu tiên, hôm sau cô gái lại đến viếng Luang Por. Lần này cô còn mang theo một nông cụ và để nó kế bên thất của Luang Por.
“Tôi không biết tốt nhất phải làm gì. Cô ta cứ đến thăm viếng mỗi ngày. Đôi khi mặt trời đã lặn, cô cũng chưa về. Mà cô rất trẻ đẹp!
Sau đó tôi tự nhủ, “Làng khá xa, nếu có chuyện gì thì cô gái khó đi về trong đêm tối”. Nếu cô gái này giận dữ hay bực bội, cô ta có thể phá hủy thanh danh của một thầy tu.
Tôi luôn quán tưởng trong tâm như thế và nỗ lực gìn giữ, cẩn trọng.
Nhưng đôi khi tâm tôi vẫn hướng đến cô ấy, hay muốn ở bên cạnh cô. Khi điều đó xảy ra, tôi cố gắng nghĩ ra phương cách để thay đổi hoàn cảnh, để đem tâm trở về trạng thái cân bằng, trong sáng”.
Nhiều lần sau đó, cô gái trẻ vẫn tiếp tục thăm viếng Luang Por tại thất của ngài, và việc này làm phát sinh nhiều vấn đề trong việc tu tập của ngài.
“Để giải quyết các vấn đề liên quan đến sự ham muốn dục lạc khởi sinh lúc đó, tôi hành quán niệm bất tịnh và sự chết, kết quả cũng khá tốt. Tôi đến khu hỏa táng người chết. Quán sát các tử thi ở nơi đó cũng giúp các ham muốn nhục dục lắng xuống. Đôi khi các hành này đem đến những kết quả khá tốt đủ để làm vơi đi khổ đau về nhiều phương diện. Thỉnh thoảng tôi cũng được cư sĩ mời đến các đám táng để đắp vải lên tử thi. Lúc đó tôi sẽ ra sức nhìn kỹ người chết và quán niệm xác họ. Việc này cũng tạm giúp tôi được nhẹ lòng.
Nhưng hình ảnh của cô thiếu nữ trẻ, cảm giác khi có cô bên cạnh, vẫn in sâu trong tim tôi. Bất cứ khi nào cảm xúc này phát khởi, nó giống như ai đó đổ dầu lửa vào đám củi đang cháy. Ngọn lửa sẽ bùng phát, sẽ rực sáng. Tôi sẽ bấn loạn không thể tìm được phương cách để dập tàn ngọn lửa. Khi tiếp xúc với bất cứ thứ gì có liên quan đến cô –cảm giác về sự có mặt của cô (như dáng vẻ, sự dịu dàng, trang nghiêm vân vân) lại khởi lên – tôi thực sự không thể chịu đựng nỗi.
Các mối liên hệ này (của các sư) với phụ nữ thường đi theo chiều hướng và cung cách mà người phụ nữ chọn, vì thế tôi không chủ động được gì cả, và hoàn cảnh này rất dễ đưa đến tai họa cho tôi. May mắn là tôi còn có cảm giác biết hỗ thẹn, biết kiềm chế, và luôn vung bồi nghị lực của người xuất gia.
Ở địa phương đó của Thái Lan, phụ nữ không hề e dè với người tu sĩ chút nào. Họ thích giao tiếp, chuyện vãn cùng quý sư, cho dù không có chuyện gì, họ cũng sẽ tìm ra điều gì đó để nói. Và họ không dễ dàng quay lưng. Ấy dà, xém tí nữa là họ cũng đã tóm được tôi…. Tôi đã rơi vào trạng thái khốn khổ lúc ấy. Điều gì đó đã nằm yên một thời gian bỗng bị lay chạm. May là tôi có tỉnh thức để nhận ra rằng mình đang bị lún chìm mà ráng sức kéo mình lên. Vì thế, nói trắng ra là tôi chụp bắt bất cứ cơ hội nào có thể để trốn chạy trước khi tai họa có thể xảy ra. Tôi vẫn là người đàn ông dại khờ, không thể tự cởi trói cho mình, nếu không có cơ hội đưa đẩy, vì thế tôi quyết định ra đi mà không một lời từ giã với ai cả”.
Sau khi thoát khỏi hiểm họa của việc liên hệ với phụ nữ, Luang Por trở về Wat Bahn Jahn Saen Chay ở tỉnh Sri Saket, phụ giúp giảng dạy chương trình Nak-Thamm với các vị sư ngài đã từng sống chung trước đây. Trong thời gian ở Sri Saket, ngài cũng hỗ trợ việc xây dựng trường học cho trẻ trong làng. Hoạt động này giúp ngài giải tỏa các vấn đề liên quan đến phụ nữ. Tuy nhiên, việc bị cuốn hút bởi phụ nữ vẫn còn là một vấn đề thực sự đối với ngài, dầu ngài cố gắng không nghĩ về điều đó, và tín tâm của ngài đối với Đức Phật và giáo lý của Phật không hề suy suyển.
Khi sắp tới mùa an cư năm 1965 (Phật lịch 2508), Luang Por quyết định ở lại trú xứ của mình, nhưng thệ nguyện sẽ hành một số hạnh đặc biệt để tăng thêm sức mạnh cho tâm. Ngài quyết luôn đi khất thực và chỉ dùng thức ăn trong bình bát (có nghĩa là không dùng các thức ăn khác được mang tới chùa cúng dường). Ngài cũng kiên quyết không lân la, kết giao trong chúng một khi việc giảng dạy hay hướng dẫn các tăng sĩ khác đã kết thúc. Ngài tách mình xa khỏi chúng, đi ẩn tu, thực hành thiền chỉ, dùng chánh niệm về hơi thở làm đề mục thiền của mình. Ngài duy trì việc thực hành này liên tục cho đến khi ngài cảm thấy phần nào an tâm. Khi các cảm xúc mãnh liệt phát sinh, sự tu tập của ngài đủ mạnh để chế ngự chúng.
Sau mùa an cư năm đó, Luang Por được mời đến Bahn Buyao, để huấn luyện sáu vị tân tỳ kheo trong việc ngồi thiền, đi kinh hành, tụng niệm và các công việc thường nhật trong tu viện. Ngài ở lại đó đến mùa an cư năm sau (1966-2509), rồi trở về Wat Bahn Jahn Saen Chay an cư năm kế tiếp. Ngài tiếp tục dốc sức tu tập chăm chỉ, để rồi sau đó, ngài ra đi tìm một vị thầy mới ở một tu viện chuyên tu. Ngài đã đi qua nhiều tu viện, kể cả Wat Sung Noem tại tỉnh Korat, nơi ngài tu theo phương cách của Luang Por Boon Mee, đệ tử của Luang Por Mun và Luang Por Tongrat, trong ba ngày. Sau đó ngài đi đến tỉnh Ubon, nơi ngài nghe một số cư sĩ nhắc đến Wat Nong Pah Pong và sư Luang Por Chah. Luang Por Liem ngay lập tức cảm thấy muốn đến nơi đó tu học.
“Khi tôi bước vào khuôn viên của tu viện Wat Nong Pah Pong, đi dưới bóng những hàng cây mọc dọc theo hai lối đi, tôi có cảm giác rất mát mẻ, dễ chịu. Nhìn thấy sân chùa được giữ sạch sẽ, với các thất cất cách nhau đều đặn thành hàng trong rừng thật mát mắt và là một khung cảnh lạ lùng tôi chưa từng thấy ở đâu trước đó bao giờ”.
Luang Por đến Wat Nong Pah Pong khá trể, nhưng ngài được các tăng sĩ có trách nhiệm hướng dẫn ngài đến thất của Luang Pu Chah. Sau khi Luang Por đảnh lễ ngài Luang Pu Chah, hai người có cuộc trao đổi ngắn, sau đó Luang Pu Chah dạy ngài đi nghỉ ở thiền đường sālā.
“Ngay lập tức, tôi rất thích phương cách dạy dỗ của Luang Pu Chah. Cách thực hành rất tự nhiên. Tôi cũng ngưỡng mộ cách hành xử đúng mực, cung cách tao nhã của các tăng sĩ và sa-di. Khung cảnh tu viện nhìn chung rất tĩnh lặng –đúng như ý tôi mong đợi. Ngoài ra, chỉ sau một thời gian ngắn sống và tu tập ở chùa, tôi đã trải nghiệm được sự an tĩnh, buông xả nơi thân, tâm, nên tôi càng thích tu viện này hơn nữa”.
Sau hai đêm ở lại Wat Pah Pong, Luang Por trở về trú xứ cũ để xin phép trụ trì ra đi. Với lá thư giới thiệu của Luang Pu Gao, Luang Por trở lại Wat Pah Pong vào tháng 7, 1969/2512. Ngài lại đảnh lễ Luang Pu Chah, người biết rất nhiều nơi mà Luang Por đã trú ngụ trước đây. Điều Luang Por học được trước tiên ở ngài Luang Pu Chah là về bốn đức tính vô lượng của từ, bi, hỷ và xả. Chỉ năm hay sáu ngày sau khi được nhận vào tăng chúng ở Wat Pah Pong, Luang Por đã được phép đổi y và chỉnh giới, vì theo quy cách thông thường ở Wat Pah Pong bất cứ giới luật nào đã được tiếp nhận không đúng cách (thí dụ cách sử dụng tiền), cần phải được thay đổi. Thông thường, các vị tăng mới đến phải đợi hai hay ba tháng, để quán sát thấu đáo mọi quy cách thực hành ở Wat Pah Pong trước khi họ được xem là thành viên chính thức trong tăng chúng.
Năm đó, khi mùa an cứ bắt đầu, Luang Pu Chah dạy rằng tất cả các tỳ kheo phải giữ các quy tắc tu tập tại tu viện một cách nghiêm ngặt. Có nghĩa là mọi nỗ lực phải dồn vào việc tọa thiền và kinh hành. Luang Pu Chah muốn mọi hoạt động trong tu viện phải được làm trong im lặng, với sự quan tâm và cẩn trọng vì mọi người cần sống và làm việc một cách hòa hợp với nhau. Sẽ không có chỗ cho lòng ganh tỵ, ích kỷ. Đây là một khía cạnh mà Luang Pu Chah luôn nhấn mạnh.
Luang Por tóm tắt lại những gì ngài thấy ấn tượng nhất về vị thầy mới của minh, Luang Pu Chah:
“Với những trải nghiệm của mình, tôi có thể nói rằng, Luang Pu Chah rất khác biệt với mọi người. Cá tính của ngài không giống ai cả do ngài luôn hết lòng hy sinh, bố thí cho người. Theo tôi nhận thấy, ngài hoàn toàn kiên quyết trong mọi hành động. Ngài đã nói gì thì sẽ làm đúng như lời mình nói. Người có tính cách như thế rất khó tìm. Trong tu tập cũng như trong mọi hành xử, Luang Pu Chah luôn luôn tỉnh thức.
Mọi người đều ưa thích cá tính của Luang Pu Chah. Con người của ngài rất đáng cho người ta kính phục, rất đáng cho người ta vái lạy. Xét trên mọi phương diện, tôi cảm thấy Luang Pu Chah là người thực sự có thể hướng dẫn chúng tôi trong pháp học cũng như pháp hành”.
Đối với Luang Por, dường như mọi người ở Wat Nong Pah Pong đều rất nỗ lực, tinh tấn và tín tâm trong việc tu hành. Riêng với bản thân Luang Por, ngài quyết định sống đúng theo các quy luật ở tu viện mới này. Điều đó không khó, vì ngài đã trải qua nhiều thực hành trước đó, dầu ngài chỉ quẩn quanh trong các chùa làng. Ngài không thấy nề nếp sống ở Wat Pah Pong gây nhiều căng thẳng hay áp lực đối với ngài chút nào, mà nó là một cơ hội tuyệt vời để thực hành đúng theo ý nguyện của ngài. Vì thế ngài dốc lòng thực hành với tất cả năng lực của mình.
Sự Thực hành của Luang Por khi vừa mới gia nhập Wat Pah Pong
Luang Por kể về kinh nghiệm đó như sau:
“Tôi đã nỗ lực trong việc phát triển định và tuệ. Có nghĩa là ta phải luôn quán sát tâm mình, không gián đoạn và không để phóng tâm, quán sát các trạng thái tâm suốt ngày, đêm, cố gắng dừng lại sự phát triển của vọng tưởng trong từng giây phút, trong mọi tư thể, đi, đứng, nằm hay ngồi. Tôi cố gắng quán xét tâm theo cách này, để xem nó là như thế nào. Khi có cảm giác thích điều gì đó, ta liền biết tâm đang trải nghiệm tham, và khi cảm giác khổ phát khởi, ta biết tâm đang trải nghiệm khổ”.
Thời gian dành cho sự thực hành cá nhân ở Wat Pah Pong rất giới hạn. Có các buổi họp chúng sáng, chiều để cùng nhau hành thiền, học kinh Pali và nghe Pháp, học giới luật. Sau buổi khất thực hằng ngày, quý sư ngồi chung lại thọ thực, buổi ăn duy nhất trong ngày. Xế chiều là thời gian làm phục dịch. Luang Por đã kể về các thói quen cá nhân hằng ngày và việc thực hành bên ngoài các công việc chung.
“Sau các buổi họp tối trong thiền đường sālā, nơi chúng tôi đọc tụng kinh về giới luật Pubbasikkhā, tôi trở về thất khoảng tám, chín giờ và bắt đầu đi kinh hành. Chỉ chừng một tiếng, nhưng cũng đã mười giờ đêm, và cơ thể tôi dường như rã rời, muốn được nghỉ ngơi. Nhưng đi ngủ lúc này chỉ là thuận theo ham muốn được ngủ nghỉ. Tôi chỉ cần ngủ như đã quy định trước. Ở đây không có đồng hồ báo thức. Tôi phải tự dặn mình giờ phải thức dậy. Đôi khi tôi lắng nghe âm thanh gì đó trong thiên nhiên quanh thất, thí dụ tiếng một loại côn trùng nào đó, hay tiếng hót của chim Graput. Đôi khi thì tiếng tàu hỏa xa xa đánh thức tôi dậy. Lúc đó thường có chiếc xe chở dân làng ra chợ, sẽ chạy ngang tu viện ngay sau hai giờ sáng. Đó đúng là thời gian phải thức dậy để thay đổi địa điểm (nghĩa là đến ngôi sālā họp mặt buổi sáng). Nếu chưa có ai đến, tôi sẽ dùng thời gian đó để quán sát bộ xương treo trong phòng. Đến trước các tu sĩ khác, lúc hai hay hai giờ rưởi, trong phòng rất yên tĩnh, một cơ hội tốt để được một mình. Những ngày ấy, ngôi sālā còn có mái tôn, đủ mọi loài vật đi kiếm ăn buổi tối sẽ đi trên mái tôn, thí dụ con thú ăn kiến. Chúng gây ra những tiếng động đáng sợ. Tiếng chúng kêu nghe như tiếng người khóc. Tôi đã tưởng có ai ngoài kia, đang khóc, đang khốn khổ, nên tôi bước ra xem, nhưng chỉ thấy con thú ăn kiến. Những trải nghiệm như thế giúp ta bồi đắp khả năng đối mặt và chiến đấu với các thử thách.
Vào những ngày đó, việc tụng niệm chỉ mất hai mươi bảy phút, vì chúng tôi không phải đọc tụng bảng dịch như ngày nay. Sau đó, chúng tôi ngồi im lặng hành thiền với nhau. Sau thời khóa thiền, chúng tôi lại cùng nhau dọn sạch thiền đường. Khi đi khất thực, tôi tránh đi chung với chúng. Tôi chọn Bahn Gor làm con đường đí khất thực. Con đường này những ngày đó không được tốt đẹp như ngày nay. Mặt đường bẩn thỉu. Đầy bùn đất và phân bò, phân trâu. Nhưng đó là chuyện bình thường trong những ngày ấy, nên tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ lo làm tròn bổn phận của mình.
Lội bộ trong bùn là một cách tốt để thử các phản ứng của tâm. Tôi thiết lập tâm chánh niệm và bắt đầu đi từ tu viện đến Bahn Gor. Tôi không nghĩ nhiều về quá khứ hay tương lai mà chỉ trụ vào sự trải nghiệm tỉnh thức.
Khi đi khất thực tôi cố gắng giữ nguyên tắc thu thúc thân tâm, đúng theo quy luật mà Đức Phật đã đề ra trong pāṭimokkha. Các sự thực hành này là cơ hội tốt để tu tập.
Tôi không có nhiều sở hữu hay nhu cầu, chỉ những thứ thật cần thiết. Bất cứ thứ gì dư ra sẽ là tài sản chung của mọi người. Nhiều lắm là tôi có được đèn cầy, diêm quẹt để dùng vào ban đêm, để có được chút ánh sáng ngồi thiền, kinh hành hay đi nhà vệ sinh. Ta phải cần có đèn để thấy đường. Lúc đó không có các cây dù theo đúng nghĩa, chỉ có dù làm bằng giấy ở Chiang Mai được phát không cho chúng tôi. Nếu ta sử dụng các cây dù này vào lúc mưa, thì chúng sẽ tan rã, vì keo bị vữa ra. Vì thế chúng tôi phải chăm sóc cây dù của mình, phơi nó ngoài sân nắng sau khi dùng. Giỏi lắm thì nó cũng chỉ chịu đựng được qua một mùa mưa, mà không gây rắc rối gì. Tôi giữ cây dù của mình thật kỹ, vì chinh Luang Pu Chah đã trao nó cho tôi. Vì Luang Pu Chah, tôi rất trân quý nó. Tôi không muốn xin cây dù mới. Có thể sử dụng cây dù qua mùa mưa, nhưng thực sự nó chỉ che được đầu, chứ không che hết mưa. Che dù nhưng người thì ướt nhem.
Sau khi thọ trai xong, tôi trở về thất và đi kinh hành. Cũng có ngày tôi cho phép mình được nghỉ trưa, khoảng nửa tiếng, không nhiều. Tôi thực sự không thích ngủ ngày. Khoảng một giờ trưa tôi sẽ đọc sách kinh hay kiểm tra việc tụng đọc của mình. Tôi không đọc sách nhiều lắm, vì không muốn lại chìm đắm trong việc học văn như trước đây, để rồi chán ngấy chúng. Việc học Pháp dường như cũng không giúp tôi nhiều, nên tôi quyết định dừng lại. Tôi đến đây để thực hành.
Buổi chiều tôi đi kinh hành cho đến khi phải đi hứng nước, vệ sinh sālā, nhà vệ sinh và quét dọn các con đường. Tôi thường phải dọn vệ sinh trong toilet của cư sĩ. Lúc đó chi có hai nhà vệ sinh, nhưng dân làng có nhiều người chưa từng sử dụng nhà vệ sinh trước đó. Đôi khi họ không biết dội sạch bằng nước, còn bỏ mấy cây que đã sử dụng trong đó (Luang Por cười). Dọn dẹp nhà vệ sinh là một cách thực hành rất tốt! Toilet thường bị nghẹt và tôi phải dùng cây để thọc. Thường tôi không phiền hà nhiều, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng phát bực, nghĩ rằng, “Tại sao mấy người này phải để tôi dội rửa toilet cho họ?”
Khi không có nước, chúng tôi phải kéo lên từ giếng. Phải cần đến hai người khiêng nước vì không có xe đầy. Mà dầu có, chúng tôi cũng không sử dụng xe đẩy. Bổn phận chúng tôi là phải khiêng nước.
Tất cả những sự thực hành này tạo một nền tảng vững chắc cho cuộc sống xuất gia. Người tu sĩ phải sốt sắng làm tròn bổn phận của mình, đúng như giới luật đã đề ra, kể cả làm vệ sinh toilet. Thực ra, trong những ngày ấy, toilet cũng không cần sạch lắm. Chỉ cần giữ cho nó không quá hôi hám.
Hoàn thành nhiệm vụ, tôi tắm táp, rồi trở về thất đi kinh hành trở lại, trong lúc chờ đợi đến giờ họp chúng hành thiền buổi chiều tối.
Những bổn phận hằng ngày này giúp chúng tôi xây dựng các thói quen trong việc tinh tấn tu hành. Chúng giúp người tu không lạc hướng. Được rèn luyện như thế mỗi ngày cũng khiến tinh thần ta thêm phấn chấn.
Vào những ngày rằm, mùng 1 hay ba mươi (Wan Phra days), tôi hành hạnh đầu đà, cố gắng không nằm suốt đêm. Tôi thực sự có thể làm điều đó, nếu coi nó là việc bình thường để làm. Ngày hay đêm cũng chỉ là do ta định nghĩa chúng theo các trải nghiệm của ta đối với chúng. Khi ta có thể chỉnh sửa lại cách ta liên hệ với chúng, thì ngày có thể trở thành đêm và ngược lại. Tôi có thể thực sự làm thế không? Thì đó là việc bắt buộc nên tôi cố gắng vậy. Đôi khi tôi có thể thức suốt đêm, không cần nằm xuống một cách dễ dàng. Nhưng đôi lúc, tôi phải thừa nhận là việc đó khá vất vả, dầu chưa đến nỗi phải gọi là khổ, vì tôi coi đó là một trải nghiệm bình thường. Vì thế có ngày tôi cũng tranh thủ tìm cơ hội để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi không có nghĩa là nằm xuống ngủ. Nếu ta có thể đi vào thiền định, thì đó cũng là cách để nghỉ ngơi và tái tạo năng lượng”.
Nói chung, Luang Por luôn tự rèn luyện để biết đủ. Ngay cả với các bổn phận, nhiệm vụ cá nhân, ngài cũng không chấp nhận sự giúp đỡ của các huynh đệ và các chú sa-di. Ngài đã tập có thói quen tự chăm sóc, dầu ngài đã thuộc vào hàng trưởng lão trong tu viện. Ở Wat Pah Pong, các vị tiền bối thường được các vị kém hạ hơn giúp đỡ, thí dụ giặt giùm y áo, vệ sinh thất, lau chùi bình bát. Tánh Luang Por là thích tự lo cho mình, không muốn là gánh nặng cho người khác. Không mong đợi sự hỗ trợ từ người khác hay dựa dẫm vào người, Luang Por ngược lại luôn lặng lẽ tìm cách hỗ trợ, giúp đỡ tăng chúng qua nhiều cách. Ngài thật là một hình mẫu về tính vị tha, giống như sư phụ của ngài, Luang Pu Chah. Cách tu hành đó là một trong những lý do tại sao ngài không muốn giao tiếp nhiều với các tăng sĩ khác, do đó có cơ hội để tu tập vượt mức giới hạn.
“Tôi đến Wat Pah Pong với ước nguyện được rèn luyện, thực hành và phát triển bản thân. Tôi tự hành các hạnh đặc biệt cho riêng mình. Thí dụ, sau buổi tọa thiền buổi chiều với chúng, tôi nhân cơ hội đó nỗ lực thêm trong việc thực hành, cố gắng phát triển thói quen tinh tấn. Tôi không giao tiếp, không tạo mối liên hệ với các tăng sĩ khác, không trò chuyện với ai. Vào mùa an cư năm đó, có khoảng gần 50 vị, chính xác là 47. Tôi không qua lại với ai, sống như người thực sự biết tận dụng cơ may của mình. Và các cơ hội để tu tập thật tuyệt vời. Tôi cố gắng rèn luyện bản thân để hiểu tất cả mọi cảm xúc phát khởi khi đã hoàn toàn buông xả. Nếu có được cơ hội như thế, ta cần rất cố gắng và kiên quyết sử dụng nó.
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng siêng năng. Đôi khi tôi cũng cảm thấy lười biếng. Tánh lười biếng nổi lên khi các cảm giác về ngã làm chủ ta. Để chữa trị căn bệnh đó, tôi luôn tự hỏi mình: “Ta đã đến đây để làm chi?”
Đôi khi tôi cảm thấy hoài nghi, trạng thái tâm không bình ooren hay không khỏe, tôi dùng phương cách quán sát một đối tượng kasina. Nhưng đối tượng kasina tôi chọn không có gì đặc biệt, tôi chỉ chú tâm nhìn vào bộ xương người được trưng bày trong phòng sālā của Wat Pah Pong. Tôi nhìn bộ xương chăm chú để thấy được bản chất của các thành phần vật chất cấu tạo nên thân người (sắc uẩn). Tôi lấy ánh sáng (nimitta) của bộ xương để quán chiếu. Bộ xương là đề mục thiền quán thường xuyên của tôi. Khi bạn thấy được nimitta như thế, nó sẽ ở lại với bạn dù bạn có đi đâu. Nếu bạn bắt đầu ngồi xuống để hành thiền chi, bạn sẽ thấy bộ xương. Dầu bạn quán sát thứ gì, bộ xương cũng xuất hiện. Vào những lúc khi tôi vừa trở về sau khi đi quán sát các tử thi, hình ảnh các xác chết sẽ dính trong tâm tôi như các nimitta.
Nếu bạn thấy được nimitta như thế, cảm giác tinh tấn, có động lực để thực hành sẽ phát khởi. Bạn sẽ không quên mình đang ở đâu và đang làm gì. Bạn sẽ có cảm giác luôn tỉnh thức trong mọi uy nghi. Bạn sẽ cảm thấy như mình vừa tìm được một nơi chốn riêng, độc lập cho bản thân. Còn khi tọa thiền thì bạn có thể ngồi liên tục –mà không cảm thấy buồn ngủ. Lúc nào bạn cũng có chánh niệm, tỉnh giác. Bạn sẽ có khả năng quyết định cách sử dụng thời gian của mình một cách phù hợp, không để lảng phí nó”.
An cư mùa mưa là khoảng thời gian khi các tu sĩ ở chùa thường ráo riết nỗ lực tu hành. Luang Por đã trải nghiệm được điều vi diệu vào đầu mùa an cư ấy nhờ vào sự kỳ vọng, kiên quyết cao của ngài.
Tôi đã trải nghiệm một điều khác lạ hơn bất cứ thứ gì tôi đã kinh qua trước đây. Từ lúc bắt đầu mùa an cư cho đến khoảng tháng thứ hai, tôi cảm thấy có niềm tin bao la đối với sự thực hành. Không có thối lui, không một chút tư tưởng ái ngại nào trong sự tu tập của mình.
Sự thực hành tiến triển tốt đẹp suốt khóa tu, dù đôi khi tâm cũng có vướng bận với ái dục, phiền não. Nhưng chúng chỉ thoáng qua. Thí dụ việc ham muốn dục lạc. Nếu cảm giác thích thú, dễ chịu đối với người phụ nữ khởi lên, tôi liền quán về thân bất tịnh, ngay nơi bản thân hay thân người khác, thấy rằng nó dơ uế, không đáng được ưa thích hay bám chấp. Thí dụ, tôi có thể nhìn người đó như một bộ xương đang đi, hay thấy được các nội tạng bị phân chia làm nhiều mảnh. Cách đó giúp tôi cảm thấy ghê tởm, nhàm chán ngay chính thân mình và thân người khác.
Quán chiếu như thế về thân giúp ta thoát khỏi ham muốn nhục dục và luyến chấp người khác phải. Nó cũng giúp ta chánh niệm, thấy tâm như đối tượng của tâm. Nó giải phóng ta khỏi bị đắm chìm trong các trạng thái tâm do bám chấp vào sự ưa thích hay không ưa thích đối với một đối tượng nào đó. Ngay khi tâm ở một trạng thái nào đó, ta liền biết một cách chánh niệm.
Có được chánh niệm theo cách này dường như cũng đủ để giúp ta có sự hướng dẫn rõ ràng trong thực hành. Từ đó, cảm giác phải nghĩ về sự việc theo nhiều cách cũng bớt đi. Tâm hành, hay tâm vọng tưởng, lăng xăng, dường như không còn sức mạnh nữa. Nó phai nhạt, co cụm ngày càng nhiều cho đến khi ta có thể nói là nó không còn nguy hiểm gì nữa”.
Khoảng giữa mùa an cư năm 1969/2512, Luang Pu Chah khuyến khích các tăng sĩ thực hành một cách đặc biệt tích cực. Họ không được chuyện trò với nhau. Các buổi họp chúng sáng, chiều để tụng niệm và hành thiền cũng ngưng lại. Luang Pu Chah thấy rằng đã đến lúc cần tạo cho các tăng sĩ thêm nhiều cơ hội để tự tu. Vì thế, Luang Por Liem tăng thêm nỗ lực, và kết quả là bằng chứng của sự nỗ lực đó. Vào ngày thứ 9 của tháng Chín vào khoảng 10 giờ đêm, ngài cảm nhận được một sự chuyển hóa mãnh liệt trong tâm. Ngài cảm giác một hạnh phúc tuyệt vời, một ánh sáng chói lòa mà ngài đã kể lại như sau:
“Thật khó diễn tả niềm hạnh phúc này cho người khác nghe. Thật khó để họ biết và hiều điều này. Nó không phải là loại hạnh phúc bạn cảm nhận khi đạt được thứ mình mong muốn, mà cũng không phải thứ hạnh phúc vì mọi thứ đều dễ chịu; nó là loại hạnh phúc vượt lên trên hai thứ hạnh phúc vừa kể. Đi hạnh phúc, ngồi cũng hạnh phúc, nằm hạnh phúc, đứng cũng hạnh phúc. Lúc nào ta cũng có cảm giác phấn khởi, vui vẻ. Hơn nữa, ta lại có thể ghi nhớ trong tâm rằng hạnh phúc này hoàn toàn tự nó phát khởi và rồi tự nó cũng sẽ qua đi. Cả lạc và khổ trong một sự trải nghiệm như thế này vẫn nằm trong các trạng thái vô thường. Tôi có thể luôn duy trì nhận thức này. Trong mọi oai nghi –đi, đứng, nằm, ngồi- có một sự trải nghiệm hạnh phúc liên tục và đồng đều. Trạng thái đó vẫn giống nhau khi tôi đi kinh hành hay tọa thiền.
Nếu phải cố gắng diễn tả tâm trong trạng thái đó, tôi có thể nói rằng có ánh sáng, nhưng từ ngữ này cũng không thực sự diễn tả đúng trải nghiệm đó như thế nào. Dường như không có gì có thể khiến tâm vướng bận. Trạng thái này kéo dài khoảng một ngày, và rồi lại thay đổi. Sau đó tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh, không cảm thấy mệt mỏi, uể oải hay buồn ngủ, nhưng đầy sự sáng suốt, rạng rỡ, tự tại cộng với các cảm xúc khinh an, phấn khởi. Trải nghiệm này kéo dài hoàn toàn không biết đến thời gian. Nó thực sự vô hạn định, không có giới hạn thời gian. Cảm giác này liên tục trên mọi oai nghi. Dần dần tôi tự hỏi: “Đây là gì vậy?” và câu trả lời là: “Một trạng thái của tâm”. Bản chất của nó là vậy. Khi cảm thấy hạnh phúc, ta chỉ chấp nhận nó là hạnh phúc… chỉ là một trạng thái của hạnh phúc. Khi cảm thấy bình an, ta chỉ chấp nhận nó là bình an… và ta chỉ tiếp tục quán sát hạnh phúc, và ta chỉ tiếp tục quán sát bình an… không dừng dứt”.
Cuối cùng vào tối ngày thứ 10 của tháng Chín, một sự thay đổi mới mà Luang Por chưa trải nghiệm qua trước đó đã xảy ra. Ngài cảm thấy mệt mỏi, bức rứt, lo âu. Bất cứ khi nào tọa thiền hay kinh hành, ngài đều cảm thấy buồn ngủ. Ngay cả khi ngài vừa nằm nghỉ, ngài cũng thấy còn mệt. Ngài cảm thấy mệt mỏi trong mọi oai nghi. Tình hình trở nên tệ đến độ ngài ngủ gục khi đang kinh hành, và bị ngã vào buội rậm. Cả khuôn mặt ngài bị trầy xước. “Ít nhất ta không còn thấy buồn ngủ nữa”, ngài nghĩ, nhưng sự mỏi mệt vẫn không giảm bớt. Ngài vẫn chịu đựng, tự nhủ rằng khi tu tập, thực hành, ta có gặp khó khăn, cũng là bình thường, ai cũng phải trải qua giai đoạn đó. Với sự quán chiếu đó trong tâm, ngài hiểu rằng ngài cần quán sát trạng thái mệt mỏi này. Suy cho cùng, sự mệt mỏi có phát khởi, thì nó cũng có qua đi. Nhờ cách suy nghĩ này, ngài cố gắng duy trì được ý thức về căn bệnh buồn ngủ.
Vào ngày thứ mười một, Luang Por lại trải nghiệm một sự thay đổi khác, có thể nói là niềm hạnh phúc, bình an tuyệt diệu đã trở lại trong tâm ngài. Trong cả bốn oai nghi, ngài đều cảm thấy sáng suốt, hạnh phúc. Được độc cư một mình, ngài thấy rất hài lòng. Không gì có thể xen vào, làm xáo trộn tâm ngài. Ngoại vật muốn tác động lên tâm ngài cũng không thể. Khi cùng với các tăng sĩ và sa-di phục dịch công việc trong chùa, ngài vẫn thấy như đang ở một mình. Ngài không quan tâm đến các câu chuyện của họ. Ngài không quan tâm đến những gì đang xảy ra quanh mình, và khi công việc phục dịch hoàn tất, ngài quay trở lại thất mình.
Ngày tiếp theo cũng qua đi với hạnh phúc, bình an, kéo dài như thể đó là một trải nghiệm bình thường hằng ngày. Với sự chú tâm không dừng dứt, Luang Por tiếp tục quán sát tâm và các đối tượng của tâm. Vào tối ngày thứ mười hai, ngài bắt đầu tự hỏi: “Thực sự tại sao chúng ta tu tập… Những sự tu tập này để làm gì?” Và câu trả lời hiện ra:
“Ta không tu tập vì bất cứ thứ gì, ta tu tập chỉ vì ta muốn thế. Kết quả như thế nào không thành vấn đề. Bổn phận chúng ta là phải thực hành, nên ta thực hành và cố gắng để duy trì chánh niệm, tỉnh thức. Ta tự sửa mình trong từng phút giây. Bất cứ đang làm gì, ta cũng cố gắng giữ chánh niệm, tỉnh giác. Dầu ta đang đi tới, hay đi lui, ta giữ cho mọi thứ ở trong trạng thái hoàn toàn cân bằng.
Cuối cùng tôi cảm thấy đã đi kinh hành đủ cho ngày hôm đó, vì tôi đã thấm mệt, và đôi chân đau nhức quá. Có cảm giác như xương chân tôi đã toạc ra ngoài da, vì tôi đã đi suốt ngày, suốt đêm không nghỉ. Bình thường ta cũng có cảm giác đau đớn nơi thân khi sử dụng một oai nghi quá nhiều. Nhưng bình thường thì các cảm giác lại qua đi, nên tôi nghĩ kinh hành hôm nay như thế là đã đủ. Tôi đi về thất, đắp y với vai bên mặt để trần, và y ngoài đắp qua vai trái, rồi ngồi xuống quay mặt về hướng đông (hướng thất của ngài Luang Pu Chah), nghĩ tưởng về thầy mình, rồi bắt đầu hành thiền”.
Buổi tọa thiền diễn ra êm ả, rồi trong tâm Luang Por lại phát lên ý nghĩ: “Ta hành thiền không để được gì cả, ta thực hành chỉ vì muốn thực hành”.
“Với ý nghĩ đó trong tâm, tôi tiếp tục hành thiền. Thông thường tôi chỉ ngồi cho đến 10 hay 11 giờ đêm, sau đó dừng lại nghỉ, nhưng ngày hôm đó, tôi tiếp tục ngồi thêm tám tiếng nữa mà không thay đổi oai nghi hay nhúc nhích một chút nào. Tâm chuyển đổi với sự cảm nhận bình an. Cảm giác bình an ngút ngàn, phủ trùm cả châu thân, dường như có cái gì đó chiếm đoạt nó. Nó cảm thấy mát mẻ, một sự mát mẻ bao trùm cả thân… quá mát mẻ… một trải nghiệm của toàn thân trở nên hoàn toàn nhẹ, và buông thư. Đầu tóc quá mát cả ngày, đêm, như có quạt thổi bên trên đó. Mát mẻ, bình an, yên tĩnh và lắng đọng. Không có tư tưởng phát khởi, không biết chúng biến mất đi đâu. Mọi thứ hoàn toàn lặng im. Cảm thấy hoàn toàn yên tịnh. Chỉ có duy nhất cảm giác của bình an và lắng đọng. Thân cảm thấy yên tịnh, mát mẻ và nhẹ tênh.
Sự trải nghiệm này kéo dài suốt năm, chứ không chỉ một hay hai ngày. Thực ra, nó không thay đổi sau nhiều năm, kể từ lúc đó. Trong đầu tôi luôn có cảm giác mát mẻ, dầu ngồi hay nằm, tư thế nào cũng luôn mát mẻ. Mọi lo âu, quan tâm hay những tư tưởng đại loại trong đầu đều biến mất. Suy nghĩ này, nọ cũng lắng sâu. Tất cả đều lặng im, giống như một khu rừng không có tiếng chim hót. Thực sự lặng im. Không có gió thổi. Chỉ duy có sự tĩnh lặng và bình an.
Cảm thấy như không có hành uẩn, không có hoạt động của tâm. Tất cả mọi nỗi khổ do phiền não mang đến cho tôi trước đây, những rối rắm về người khác phái hay tất cả mọi tham vọng trước đây của tôi, không biết chúng biến đâu mất. Nhìn ai đó, tôi chỉ thấy họ rất bình thường. Nhìn một người như một người: chỉ có vậy. Không có người đẹp, không có người xấu- ai cũng đặc biệt như họ là. Đây là loại bình lặng khiến khinh an phát khởi. Tôi không biết chúng là gi, nhưng tôi cũng chẳng quan tâm, chỉ biết nó như nó là.
Cứ như thế tôi ở dưới sự bình lặng, khinh an. Không có gì để phải quan tâm, như mọi thứ hiện hữu ra sao. Tôi không biết khổ như thế nào. Không biết lười nhác ra làm sao. Tự xét mình về lười nhát, không có gì. Tự xét mình về khổ, không có gì khổ. Cảm giác trong tâm tôi cũng giống như thế.
Tôi cố gắng nhớ lại và nhận diện xem cái gì được gọi là khổ. Nó là gì? Tôi thực sự không biết. Tôi chỉ biết chúng có cái tên đó trong ngôn ngữ thông thường, theo nghĩa mặc định. Khi tâm không có khổ, mọi mặc định không hiện hữu. Và trải nghiệm của cảm giác này đã kéo dài liên tục từ lúc đó đến giờ; không có gì thay đổi từ đó đến ngày nay. Trạng thái này vẫn còn kéo dài, bền vững, liên tục và không thay đổi”.
Những Năm Tháng Ở Wat Pah Pong
Trong những năm đầu ở Wat Pah Pong, có nhiều lần Luang Por được Luang Pu Chah nhờ chăm lo một số các tu viện chi nhánh của Wat Pah Pong, kể cả Wat Tamm Saeng Phet, Wat Pu Din Daeng (nơi ngài trải qua mùa mưa năm 1970/2513) và Wat Suan Gluay (nơi ngài trải qua mùa mưa năm 1971/2514)
Đối với nghi lễ dâng y hằng năm, tất cả tăng sĩ từ các tu viện chi nhánh đều tụ về ở Wat Pah Pong. Vào những ngày đó, không dễ xếp đặt việc đi lại, nên cuối cùng Luang Por Liem phải hướng dẫn các vị tăng sĩ ở Wat Suan Gluay đi bộ đến Wat Pah Pong (khoảng 70 kilo-mét). Khởi hành ngay sau bữa ăn sáng, họ đến nơi sáng hôm sau. Luang Por đã kể về trải nghiệm này như sau:
“Tôi mệt nhoài, các thân hành uẩn đau đớn khủng khiếp. Cả thân đều đau đớn, nhưng tôi không thực sự lo lắng hay quan tâm nhiều, vì tâm không đau đớn chút nào, chỉ có cái khổ của các hành uẩn, là điều bình thường nếu ta đày đọa chúng quá mức. Các sư và sa-di đi theo tôi đều than thở suốt chuyến đi vì chúng tôi di chuyển liên tục hầu như không có nghỉ ngơi, nhưng chúng tôi đến vừa kịp lúc để tham gia vào nghi lễ dâng y ở Wat Pah Pong”.
Sau đó, Luang Por trở về Wat Suan Gluay để giúp trông coi, tu sửa tu viện cho đến khi Luang Pu Chah gọi ngài về khẩn cấp để tổ chức ngày rằm tháng Giêng (Māgha Pūjā 1971/
2514). Trong dịp lễ này, Luang Por phải thuyết pháp trước một đám đông tăng ni, các sa-di, và cư sĩ. Ngài đã nói về kinh nghiệm đó như sau:
“Khi cần nói pháp, tôi không chuẩn bị trước thứ gì. Tôi không quá quan tâm đến việc bài pháp phải thật hay. Khi bắt đầu giảng, tôi không biết ý tứ, ngôn từ từ đâu tuôn đến. Chúng cứ thông thả đến, điều này sau điều kia, một cách mạch lạc. Tôi cảm thấy tự tại, chứ không lo lắng khi phải thuyết pháp hay dạy học”.
Trong ngày Māgha Pūjā (Rằm tháng Giêng), ngài nói, ngài có cảm giác là Luang Pu Chah quán sát ngài rất kỹ, trong cả lời nói hay hành vi.
“Có thể Luang Pu Chah nghĩ, tôi hơi quá đà –tôi không rõ. Dầu ngài nghĩ gì, tôi cũng chẳng bận tâm làm gì”.
Vào mùa mưa năm 1972/2515, Luang Por được yêu cầu hỗ trợ Tan Ajahn Sumedho rèn luyện một nhóm tu sĩ người Tây phương (kể cả Tan Pabhākaro, Tan Santacitto, Tan Ānando và Tan Thiradhammo), đang an cư mùa mưa tại Wat Tamm Saeng Phet, cùng với các tăng sĩ Thái khác. Sau lễ dâng y, Luang Por lại trở về Wat Pah Pong. An cư năm sau, ngài lại đến Wat Pah Khantithamm ở tỉnh Sri Saket. Sau mùa mưa năm 1973/2516, ngài hành hạnh khất thực cùng với Ajahn Sumedho qua các ngọn đồi ở Na Chaluay tại tỉnh Ubon. Vào ngày 5, tháng Mười Hai, khi Luang Pu Chah được trao tặng danh hiệu “Đại Trưởng Lão Bodhinyana”, ngài và Ajahn Sumedho vẫn còn lang thang đi tìm những nơi vắng vẻ để thực hành và không thể tham gia vào các nghi lễ tại Wat Pah Pong.
“Vào những ngày đó, các con đường ở thôn quê rất nhỏ hẹp, chỉ vừa bàn chân người đi. Ajahn Sumedho không quen đi trên những con đường này. Chúng tôi đã đi được ít ngày, nhưng chân của sư cứ vấp các gốc cây bên đường, nên chúng sưng to lên. Nhưng sư không than phiền gì cả. Sư không nói bị đau. Lần đó chúng tôi đang đi qua một khu rừng, lúc đó vẫn còn rất rậm rạp. Gần cuối năm rồi, khoảng tháng Mười Hai, và thời tiết rất lạnh”.
Khi họ đang cố gắng tìm một nơi thích hợp để qua những đêm lạnh lẽo, thì dân làng đã mau mắn đem đến cho Ajahn Sumedho một tấm phản gỗ để ngủ. Họ khiêng từ nhà đến, để sư được ngủ thoải mái hơn, không phải ngủ trên sàn đất. Còn Luang Por Liem, ngài chọn ngủ trên sàn đất, ở dưới thấp, khuất gió, được lót lá với chiếc túi ngủ mà Ajahn Sumedho đã tặng ngài, giúp ngài không bị ướt. Ngài khá dễ chịu, và ấm áp trong chiếc chòi nhỏ của mình, trong khi sư Ajahn Sumedho phải chịu đựng đêm lạnh trên tấm phản vì gió vẫn có thể thổi qua chỗ sư nằm. Vào những ngày ấy khi ta đi về vùng quê cùng với các vị sư người ngoại quốc là chuyện rất đặc biệt, nên dân làng rất sốt sắng giúp đỡ. Rất đông người ùa ra cúng dường, nhưng vì một lý do nào đó, ở đây họ nghĩ rằng các vị sư đi khất thực chỉ ăn xôi với mè.
Vì chân của Ajahn Sumedho không đỡ hơn, nên cuối cùng Luang Por và sư Ajahn Sumedho đón xe trở về Wat Pah Pong để bác sĩ khám. Kết quả là sư phải bị rút móng chân. Luang Por luôn ấn tượng với sự kiên nhẫn chịu đựng của sư Sumedho. Ông chẳng hề than vãn tiếng nào suốt chuyến đi.
Một năm sau, Luang Por Liem cùng với hai vị tăng khác xin phép được đi học về các cách điều hành một tu viện và phương cách tu hành tại một số tu viện trong rừng nổi tiếng, kể cả một số theo hệ phải Dhammayut[3]. Ngài đi bộ đến tận Chiang Mai, Nong Khai và cuối cùng vào Lào, ở thành phố Vientiane khoảng một tuần. Sau đó ngài lại đi bộ xuống Bangkok, ngủ dưới một gầm cầu. Gần cuối thời gian hành hạnh đầu đà, ngài đã đi qua các nơi như Chachoengsao, Chonburi và Chantaburi, thăm viếng một số vị trưởng lão tăng, trước khi quay về lại Ubon và Wat Pah Pong.
Ở Ubon có một số cư sĩ người Lào đã xin các tăng sĩ tại Wat Pah Pong lập ra một tu viện lâm tể theo truyền thống của Luang Pu Chah tại Vientiane. Vấn đề đã được các vị cao hạ trong tăng đoàn bàn thảo và cuối cùng họ đã chấp nhận lời thỉnh cầu. Luang Por được chọn làm trụ trì cho tu viện chi nhánh này. Vào ngày thứ 13, tháng Năm, một phái đoàn gồm 16 tăng sĩ, một sa-di và 21 cư sĩ Phật tử rời Ubon để đi đến Vientiane. Luang Por và một số tăng sĩ đã trải qua mùa an cư năm 1973/2516 tại Vientiane, nhưng sau đó họ bắt buộc phải trở về Ubon vì vấn đề chính trị căng thẳng ở Lào lúc đó.
Từ năm 1973/2516 trở về sau, Luang Por luôn an cư mùa mưa tại Wat Pah Pong. Ngài Luang Pu Chah đã chuyển giao nhiều trách nhiệm tại tu viện cho Luang Por, nhất là việc dạy bảo, huấn luyện các tăng sĩ và sa-di. Sau chuyến xuất ngoại đầu tiên vào năm 1977/2520, sức khỏe của Luang Pu Chah giảm sút nhiều, nên Luang Por được giao nhiệm vụ làm phó trụ trì, cùng chia sẻ trách nhiệm với Luang Por Chu Ṭhitaguṇo, nhưng Luang Por cho rằng mình chưa sẳn sàng, dầu trên thực tế ngài đã chăm coi tu viện và sắp xếp việc chữa trị cho Luang Pu Chah. Sức khỏe của ngài Luang Pu Chah giảm sút nghiêm trọng sau phẫu thuật não vào năm 1981/2524. Sau năm tháng nắm viện, Luang Pu Chah trở về Wat Pah Pong. Luang Por và tăng đoàn đã xây dựng thất dưỡng bệnh cho Luang Pu Chah với sự hỗ trợ của Nhà vua và Hoàng hậu Thái Lan. Tháng 11 năm đó, Luang Por chính thức làm nhiệm vụ của trụ trì tại Wat Pah Pong, do Luang Pu Chah chỉ định.
Luang Por đã ghi nhận sự kiện đó như sau:
“Sau khi trở về từ Vientiane tôi luôn ở tại Wat Pah Pong. Vì ngài Luang Pu Chah dạy tôi chăm sóc Wat Pah Pong, nên tôi không dám đi đâu cả. Tôi không muốn làm gì khác hơn việc này vì tôi cảm thấy mình chỉ là một vị tăng còn non nớt. Hơn nữa, tôi không phải là người ở Ubon, nên tôi cảm thấy việc nhận trách nhiệm làm trụ trì ở Wat Pah Pong (tu viện lâm tế lớn nhất ở vùng đó). Nhưng nếu đó là việc hữu ích, tôi sẽ làm. Vì tôi thực sự rất kính trọng Luang Pu Chah, nên tôi sẽ ở lại, tiếp sức với ngài. Ngài đã muốn tôi ở lại đây. Nhưng khi ngài yêu cầu tôi làm phó trụ trì, tôi đã trả lời là tôi chưa muốn lãnh trách nhiệm đó. Tôi không cảm thấy thoải mái vì có nhiều tăng sĩ đến Wat Pah Pong trước tôi và họ cũng có khả năng trong nhiều lãnh vực. Nhung Luang Pu Chah trả lời bằng cách nói rằng chúng ta cần làm bổn phận của mình –bằng cách giúp đỡ nhau trong việc giảng dạy, ta cũng làm lợi ích cho Phật giáo nói chung. Nên tôi cũng đã cố gắng, bằng nhiều cách, nhưng không bao giờ với cảm giác bất thiện.
Tôi làm bổn phận của mình với tâm trong sáng, với tâm yêu thương và tận tụy dành cho –Giới-Pháp, và cũng cho tha nhân. Bất cứ điều gì mang lại lợi ích cho công đồng, tôi cũng cố gắng hỗ trợ, dầu khó khăn đến mấy. Tôi không thụ hưởng bất cứ lợi ích cá nhân nào trong công việc. Những gì lợi ích cho công đồng đều là việc phải làm.
Để duy trì và sửa sang lại tu viện không khó đối với tôi. Tôi có thể dễ dàng thực hiện điều đó, nhưng có một số việc vượt quá giới hạn của tôi. Đôi khi các cư sĩ lên chùa mong tìm được một lời khuyên nào đó, có thể không hài lòng với người tư vấn cho họ. Tôi không có thói quen làm thân với cư sĩ hay xu nịnh họ. Bản tánh tôi không có ưa mà cũng không có ghét. Tôi không quen làm thân với người, hay mong mỏi người ưa thích tôi. Tôi thích giữ thái độ bàng quang, xa cách; không tỏ ra thân thích với bất cứ ai. Tôi nghĩ không cần thiết phải tiếp khách thập phương, hướng dẫn họ đi quanh chùa, nói này nói nọ, mà chỉ cần có tấm biển chỉ đâu là toilet, đâu là nơi uông nước, vậy cũng đủ rồi. Chuẩn bị đủ nước sạch để uống hay sử dụng trong các toilet là đủ rồi. Chúng tôi không phải tư vấn để hòa hợp với đám đông như cách các nơi khác thường làm. Làm thân với cư sĩ Phật tử có thể là nguyên nhân đưa đến những sự việc không tốt đối với Giới-Pháp.
Đức Phật đã dạy rằng yêu cầu thứ này, thứ kia với cư sĩ Phật tử, khen ngợi họ để được các thứ nhu yếu phẩm, có những cử chỉ gợi ý, dầu qua thân –tất cả những thứ này đều không phù hợp với vị sa-môn, nên tôi cố gắng không làm những điều này. Chúng tôi cố gắng sống như một sa-môn, là những người sống độc cư và bình yên. Chúng tôi không chống đối ai, không làm hại ai, nhưng hỗ trợ chúng sanh bằng nhiều cách trong khả năng của chúng tôi, khi có thể. Tuy nhiên, việc người ta có thích như thế hay không, cũng tùy họ. Chúng tôi không thể ép ai, theo như cung cách của người thế gian. Không để tâm. Chúng tôi coi như họ không hiểu. Nếu người ta thực sự hiểu các điều luật của Giới-Pháp, họ sẽ coi những việc chúng tôi làm là hết sức tự nhiên.
Tu tập tại Wat Pah Pong cảm giác thực sự dễ chịu, vì các cảm giác thuộc thế tục không có mặt tại đây. Không ai khiến ai phải bận lòng. Tâm uế nhiễm, thành kiến, thiên kiến không phát sinh vì chúng tôi không bè phái, không khiến người ta phải mến mộ mình.
Đức Phật cũng sống như thế. Nếu ai thực sự cần tư vấn, người đó sẽ tiếp cận chúng tôi để hỏi, và chúng tôi sẽ tùy theo đó mà trả lời. Chúng tôi chỉ làm thế, vì sự chính xác, vì lợi ích của Giới-Pháp và để không gây hiểm lầm cho cả chúng tôi và các cư sĩ. Tu viện của chúng tôi là tu viện nghiêng về thực hành. Chúng tôi sử dụng các quy luật của Đức Phật làm chuẩn, làm thành các quy tắc thực hành, vì lợi ích của Phật giáo, của xã hội. Nếu điều này được thực hành đúng, nó sẽ tạo ra tiếng vang nơi người. Tiếng vang này không phải âm thanh, nhưng nó rung động lòng những ai đã “thâm nhập Pháp”. Họ sẽ trải nghiệm được cảm giác sâu lắng trong tâm, một trạng thái vững chải, nhưng không thô ráp, mà là trí tuệ, sự hiểu biết có thể áp dụng dễ dàng trong đời sống.
Đây là những nguyên tắc chúng tôi thực hành tại Wat Pah Pong, và dầu tôi luôn làm mọi thứ theo lời dạy của Luang Pu Chah, đôi khi tôi vẫn thấy mình còn nhiều thiếu sót. Có những điều tôi không để ý tới, bằng không tôi đã thực hành ngay lập tức –nếu nó đúng theo tinh thần của Giới-Pháp. Trái lại, tôi sẽ không thực hành, vì tôi đã nguyện sẽ sống suốt cuộc đời trong sự thanh tịnh hoàn toàn. Tôi không biết mọi thứ có xảy ra theo ý nguyện này không, nhưng đó là cách tôi quyết sống trọn đời.
Luang Pu Chah đã có ước vọng xây dựng một nơi –Wat Pah Pong- tu hành hoàn toàn thanh tịnh. Thí dụ, ở Wat Pah Pong, chúng tôi không đòi hỏi, gợi ý hay kêu gọi sự đóng góp, cúng dường. Chúng tôi lặng lẽ làm mọi thứ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu ta có ý nguyện trong sạch, có lòng tin kính Giới-Pháp sâu xa, cộng với duyên lành và ba-la-mật đã tích lũy trong tiền kiếp, thì sự hỗ trợ, giúp đỡ dường như lúc nào cũng phát sinh, để ta có thể tạo ra những gì ích lợi.
Nếu ta có thể duy trì các nguyên tắc này, thì âm thanh vang vọng sẽ còn dội lại trong một thời gian dài, có thể trong nhiều kiếp sống, hàng trăm hay ngàn năm. Nếu ta không coi trọng các nguyên tắc này, thì sự hỗ trợ sẽ không dài lâu. Giữ được chúng chỉ trong một kiếp sống đã là khó. Đây là những điều tôi nghĩ về Wat Pah Pong, và tôi sẽ cố gắng để sống đúng theo các lý tưởng này”.
Trong thời gian mưới năm cho đến khi Luang Pu Chah cuối cùng rời bỏ năm uẩn, ra đi, Luang Por đã chăm lo cho tu viện trong nhiều phương diện, cả trong việc dạy dỗ, huấn luyện các tăng sĩ và duy trì, gìn giữ các phòng ốc của tu viện. Khoảng thời gian đó, ngài đã lắp một hệ thống nước đủ cung cấp cho số lượng lớn khách đến viếng Luang Pu Chah. Ngài cũng xây dựng được một bảo tàng để trưng bày các di vật của Luang Pu Chah và xây dựng lại khu sālā lớn hơn, cùng với một phòng ăn mới. Khu sālā và phòng ăn đặc biệt cần thiết để phục vụ số đệ tử ngày càng đông của Luang Pu Chah đến viếng Wat Pah Pong hằng ngày và vào những ngày lễ lớn, hay có các khóa tu. Công trình xây dựng hoàn thành vào đêm 15 tháng Giêng, 1992/2535. Ngày hôm sau, 16 tháng Giêng, lúc 5:30 sáng Luang Pu Chah viên tịch và quan tài của ngài được đặt trong phòng sālā mới để khách đến viếng.
Luang Por đã nói về thái độ đúng đắn trong việc làm các công trình lớn, nặng nề, trong việc xây dựng và gìn giữ, duy trì các phòng xá của tu viện:
“Nếu ta vẫn còn theo cách nghĩ hẹp hòi hay ích kỷ cá nhân, thì công việc ta làm trở nên rất mỏi mệt. Tương tự, nếu ta quá nôn nóng, vội vã lúc làm việc, ta sẽ dễ lo lắng, bực bội. Thực ra, bắt tay vào việc, ta nên nghĩ đó cũng là thiền, chỉ là thiền trong tư thế với thân chuyển động. Chỉ là cách tập luyện cơ thể. Công việc ta làm với tâm “trống rỗng”, và tiếp tục như thể không có gì khó khăn, nặng nhọc trong công việc đó”.
Vào năm 1992/2535, tăng đoàn Wat Pah Pong và Luang Por đã hoàn thành đại công trình chuẩn bị nghi lễ hỏa táng hoàng gia, bao gồm việc xây khu hỏa táng, tháp thờ Luang Pu Chah. Tổng kết có hơn cả triệu người đến viếng đám táng, với hơn nửa triệu người, kể cả Nhà vua và Hoàng hậu Thái Lan, và Thủ tướng Thái Lan, đến viếng vào ngày cuối cùng.
Dầu từ chối không muốn nhận, Luang Por vẫn được giao chức vụ trụ trì Wat Pah Pong một cách chính thức vào năm 1994/2537. Năm 1996/2539, ngài được ban tôn giáo Thái trao danh hiệu Hòa thượng. Từ đó, ngài thường làm lễ xuất gia, và thọ tỳ kheo giới cho các tăng sĩ tại Wat Pah Pong, cũng như tại hơn 200 tu viện chi nhánh khác, kể cả Wat Pah Nanachat, nơi tu học của các tăng sĩ người nước ngoài. Hằng năm vào tuần lễ thứ hai của tháng Chín, Luang Por cho mời tất cả các đệ tử tụ hội lại để tu thiền cũng như học tập cách hành xử trong chùa trong một tuần, vì ngài cảm thấy đó là bổn phận của một vị hòa thượng. Các đệ tử của ngài đã nhân dịp này viếng thăm Luang Por, thay vì vào ngày sinh nhật của ngài, 5 tháng Mười Một.
Đối với tăng đoàn tại Wat Pah Nanachat, Luang Por luôn thăm hỏi, sách tấn họ, nhưng những năm gần đây, ngài còn hỗ trợ các sư người nước ngoài ở mười lăm tu viện chi nhánh bằng cách đến thăm viếng họ. Vào năm 1997/2540, ngài được mời đến thăm tu viện Bodhinyana ở tại Perth, Úc và 1998/2541, ngài lại nhận lời đến Bodhinyanarama, tại New Zealand. Năm 1999/2542, sư Tan Ajahn Sumedho mời ngài đến dự lễ khánh thành tu viện mới Amaravati, gần Hemel Hempstead, Anh quốc. Năm 2000/2543 và 2004/2547, ngài viếng thăm tu viện chi nhánh mới Abhayagiri, tại California, Mỹ, và Melbourne, Úc với tư cách là khách mời của tu viện Bodhivana. Cũng trong năm 2004/2547, Luang Por có dịp hành hương đến các thánh địa Phật giáo tại Ấn Độ.
Mỗi lần nhận lời mời đi nước ngoài, khi trở về Luang Por luôn thích chia sẻ các trải nghiệm thú vị và trí tuệ rút ra từ cuộc sống trong những nền văn hóa khác biệt, với tăng ni, cư sĩ ở Wat Pah Pong. Những sự khác biệt về khí hậu, hoa quả, thú vật ở những nơi ngài đã viếng thăm. Ngài nói về tình hình Phật giáo, các tu sĩ và cư sĩ Phật giáo ở nước ngoài, nhưng trên hết ngài tóm tắt về các đặc tính của giáo lý Phật giáo nổi bật mà ngài nhận thấy. Thí dụ, sau khi viếng thăm Úc năm 2004, Luang Por đã chia sẻ các cảm nghĩ như sau:
“Ra nước ngoài, ta luôn thấy nhiều thứ không giống như ở quê nhà, dầu vậy, bất cứ ta đi đâu, thân và hành uẩn của mọi người đều tương tự nhau. Người Úc cũng hướng đến các đặc tính có thể đưa họ đến các trải nghiệm hữu ích và đầy ý nghĩa trong cuộc đời. Đó là lý do tại sao họ quý trọng những lời Phật dạy. Như thế chúng ta có thể trao đổi ý tưởng, bàn thảo nhiều về Phật Pháp. Tôi đã cố gắng giảng làm sao để họ hiểu rằng Pháp Phật là những giáo lý có thể áp dụng trong cuộc sống của mọi người, và của từng người. Dầu ta xuất thân từ đâu, sống trong hoàn cảnh nào, bao giờ cũng có những lời dạy mà ta có thể áp dụng. Vì tất cả chúng ta đều không khác nhau mấy. Tất cả mọi người đều giống nhau, ngoại trừ các khía cạnh thuộc về tưởng, được tạo nên bởi ngã chấp. Các quan điểm dựa trên ngã chấp, kiêu mạn chỉ là ngoại lệ. Nhưng những người không ngã mạn, kiêu căng chắc chắn là họ có khả năng hiểu sự thật về bản thân. Dầu ta có thể sống trong môi trường, khí hậu khác nhau, chân lý này thực sự giống nhau. Nếu nhân loại cởi bỏ mọi lớp áo, mọi tô điểm khỏi thân, thì tất cả chúng ta đều giống nhau. Do đó không nên phân biệt đối xử với người dựa trên các chuẩn mực đó. Ai cũng biết rằng mọi người đều muốn điều tốt lành, hạnh phúc cho riêng mình. Không ai muốn trải nghiệm đau khổ, bất an”.
Mỗi năm vào sinh nhật của Nhà vua Thái Lan, một số tăng sĩ trên khắp đất nước được ban danh hiệu này nọ dựa trên các đức hạnh cá nhân nổi bật và những công đức đóng góp cho lợi ích của Phật giáo nói riêng và xã hội nói chung. Vào ngày 5, tháng Mười Hai năm 2001/2544, Luang Por Liem được Nhà vua trao danh hiệu tôn giáo cao quý , “Tan Chao Khun Visuddhi-saṁvara Thera”. Tất cả các đệ tử của Luang Por đều hạnh phúc và hãnh diện vì sự công nhận này, nên Luang Por nhân dịp này nhắn nhủ với họ rằng, “Trao tặng danh hiệu là cách để tán thán các đức hạnh trong cách sống của con người trong cuộc đời”.
Còn Luang Por vẫn là Luang Por.
Các dịch giả tại Wat Nong Pah Pong chuyển ngữ từ Thái sang Anh, tháng Sáu Phật lịch 2548/2005.
(Chuyển ngữ từ bản tiếng Anh: NO WORRIES: Nguồn: https://forestsangha.org/teachings/books/no-worries?language=English[1] Ở Thái Lan, đặc biệt những vùng nghèo khó ở miền đông bắc Thái, niềm tin rằng một sinh vật lớn có tâm thức phát triển hơn sinh vật nhỏ, do đó việc giết sinh vật lớn bị kết án nhiều hơn là giết các sinh vật nhỏ như cá, hay côn trùng.
[2] Định tưởng. Đối tượng của tâm trí trong thiền định, thường được nhận thức như ánh sáng. Xem thêm ý nghĩa của từ này trong Samatha-The Jhana, Bhikkhu Brahmavamso, do Phạm Doãn dịch, P.II, Thư Viện Hoa Sen
[3] Hệ phái Dhammayut do Vua Mongkut thành lập khoảng 100 năm trước. Dầu nhiều tăng sĩ Thái Lan (kể cả tăng đoàn tại Wat Pah Pong theo phái Mahanikaya, nhiều tu viện theo phương cách tu trong rừng thuộc hệ phái Dhammayut.