Hạnh phúc thật sự không thể được định nghĩa bằng những khái niệm như tiền bạc, quyền lực, danh tiếng hay con cái. Những thứ này mặc dù cũng đem lại cho con người những niềm vui tạm thời nhưng vẫn không phải là hạnh phúc chân thật, là ý nghĩa rốt ráo của nhân sinh. Trong trường hợp những thứ đó đạt được bằng con đường bất chính thì chúng lại trở thành nguồn gốc của khổ đau và tội lỗi cho người sở hữu chúng, hơn là hạnh phúc.
Cái nhìn say đắm, âm thanh du dương, mùi thơm, vật ngon hay thân hình hấp dẫn là những thứ dễ lừa gạt con người, làm cho con người trở thành nô lệ của dục lạc. Chúng ta không phủ nhận hạnh phúc trần gian như là phần thưởng của cuộc đời ban tặng cho mỗi người, nhưng chúng rất phù du. Điều này rất rõ ràng đối với những người đã kinh qua nhiều biến cố cuộc đời. Cái mà người ta gọi là “ngoảnh mặt lại cuộc đời như giấc mộng”.
Những người đã nhận ra sự vô thường và không toại ý của cuộc đời là những người đang đi đến gần hơn với chân lý của cuộc đời. Nếu giàu có thì hạnh phúc thì lẽ ra sự giàu có và hạnh phúc phải là một từ hoặc là những từ đồng nghĩa với nhau. Vật chất không thể làm hết cơn khát ái của con người. Chúng ta không bao giờ có hạnh phúc nếu chúng ta luôn hướng ra bên ngoài để tìm kiếm những thú vui tầm thường trong ăn uống và dục lạc.
Nếu hạnh phúc chỉ có thế thì với những gì nhân loại đạt được hiện nay thì đáng lẽ ra họ đang rất hạnh phúc. Nhưng rõ ràng là không phải vậy. Họ không hạnh phúc. Có những người giàu có hết sức nhưng lại đau khổ đến nỗi không muốn sống nữa. Chính vì vậy cho nên ta thấy rằng chư Phật và Bồ-tát khi độ sanh là độ tất cả chúng sanh chứ không phải các ngài chỉ phát nguyện độ người nghèo, vì các ngài biết rằng “người giàu cũng khóc”.
Dục vọng của con người không bao giờ cùng tận. Khi điều mong muốn vừa được thỏa mãn thì ta lại chán nó ngay và lại mong muốn cái khác. Một chiếc xe hơi, một cái đồng hồ, một bộ đồ mới… khi mới mua về thì chúng ta sung sướng và nâng niu, ai đụng tới cũng không cho vì sợ bị hư, bị trầy. Nhưng chỉ sau một thời gian thôi thì ta bắt đầu hết hứng thú với chúng. Ta thấy chán và muốn có cái khác. Cho nên nếu chúng ta cứ bám víu và chạy theo vật chất (thực chất là chạy theo cảm giác của ta), thì ta sẽ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn hoàn toàn, và do đó mà không bao giờ có được hạnh phúc viên mãn.
Ví dụ như ngày xưa người ta kết hôn là để nối dõi tông đường và xây dựng sự nghiệp, nhưng hôn nhân ngày nay thì đã khác hoàn toàn. Hôn nhân ngày nay đòi hỏi phải thỏa mãn được hai yêu cầu là tình yêu và tình dục. Thật ra điều này không có gì là xấu xa hay sai trái, nhưng vấn đề là khi không còn tình yêu nữa và chuyện chăn gối không còn thỏa mãn nữa thì sao? Đây là lý do vì sao ngày nay số lượng ly dị ngày càng thường xuyên hơn.
Ngày xưa hôn nhân là chuyện vô cùng hệ trọng, nghiêm túc và rất thiêng liêng. Cho nên sau khi cưới nhau, vợ chồng thường là ăn đời ở kiếp với nhau. Và chuyện ly dị không chỉ là chuyện tan vỡ của một gia đình mà còn là một điều sai trái đối với luân thường đạo lý, làm xấu hổ cha mẹ hai bên và bà con lối xóm chê cười. Hôn nhân ngày nay không còn mang tính thiêng liêng nữa, nếu không muốn nói là như trò đùa. Người ta kết hôn rồi ly dị, rồi lại kết hôn… Một người có thể kết hôn nhiều lần trong đời.
Ví dụ như bà Lida Wolfe ở Mỹ đã kết hôn tới 23 lần. Có những cuộc hôn nhân của bà chỉ kéo dài 36 giờ. Cuộc hôn nhân lâu nhất của bà cũng chỉ được 6 năm rưỡi. Bà tâm sự rằng, “Đa số các lần kết hôn đều diễn ra vào lúc tôi còn trẻ. Trước khi cưới, tôi rất yêu quý chồng tương lai, thế nhưng chẳng hiểu tại sao sau một thời gian anh ta lại tỏ ra khó chịu. Chúng tôi chia tay và tôi đi tìm người khác. Dù sao cũng có những lần lấy chồng tôi cảm thấy hạnh phúc”. Bà có hạnh phúc không? Tôi cho là không. Vì nếu bà hạnh phúc thì bà đã không thay đổi hôn nhân như công ty thay đổi xe hơi như vậy. Chắc bà cũng chưa một lần dừng lại để tự hỏi rằng tại sao bà không hạnh phúc trong hôn nhân.
Rõ ràng, chạy theo dục lạc bên ngoài để tìm kiếm hạnh phúc thì không bao giờ có được hạnh phúc. Nó chỉ có thể lấp đầy khoảng trống trong giây lát của một tâm hồn trống rỗng, rồi sau đó trở lại với tâm trạng chán chường như cũ. Điều này cũng đúng đối với các loại dục lạc khác như ăn uống, hút chích, bạo lực và các loại hình giải trí không lành mạnh khác. Thế giới Âu Mỹ là thế giới của sự hưởng thụ vật chất. Họ cho rằng đó là hạnh phúc. Nhưng càng hưởng thụ người ta càng cảm thấy thiếu. Và để đáp ứng nhu cầu của con người, vô số các loại hình công nghiệp giải trí ra đời, cái sau phải mạnh hơn, cuồng nhiệt hơn cái trước. Nhưng con người vẫn không bao giờ thỏa mãn. Những vụ tự tử hay xả súng tập thể vô cớ có nguyên nhân từ sự trống trải của tâm hồn, khi mà tất cả các loại hưởng thụ và giải trí vẫn không đáp ứng được.
Đúng như trong kinh nói, người không biết đủ thì dù có ở thiên đường cũng không thỏa ý. Đó là chưa kể đến hệ quả gia đình và xã hội của những vấn đề này. Vợ chồng ly dị thì con cái mồ côi và không được nuôi dạy tốt, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và tâm lý của trẻ. Các loại hình ăn chơi, giải trí không lành mạnh làm nảy sinh tệ nạn xã hội như phá thai, mại dâm, ma túy, trộm cướp. Các chuyên gia về tâm lý hôn nhân cũng như những người từng ly dị nhận định rằng, một cuộc hôn nhân tốt thì cần phải có những nền tảng vững chắc hơn là tình yêu và tình dục. Tất nhiên là phải có tình yêu, nhưng tình yêu không thôi chưa đủ mà phải có những yếu tố khác như sự hy sinh, cảm thông, thấu hiểu và nhẫn nhịn nữa.
Phải chăng chiếc nhẫn mà chàng trai và cô gái trao nhau khi đính hôn và họ phải luôn luôn đeo trên ngón tay là một sự nhắc nhở điều mà họ cần làm để cho gia đình luôn luôn được êm ấm? Nhẫn có nghĩa là nhẫn nhục, là nhường nhịn: “Trao tay đôi nhẫn nhắc cho nhau/ Giữ đạo phu thê nhẫn đứng đầu/ Nhẫn để gia đình luôn hạnh phúc/ Cho tình chồng vợ hiểu thương nhau”.
Niềm vui của sự hưởng thụ dục lạc không phải là hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc chân thật chỉ đến từ nội tâm con người, khi con người được tự do, không bị lôi kéo, không còn làm nô lệ cho những ham muốn của mình. Vật chất không phải là suối nguồn của hạnh phúc. Suối nguồn của hạnh phúc xuất phát từ bên trong tâm hồn của chúng ta. Vật chất dù có quý giá đến đâu thì cũng vô thường, niềm vui dù cuồng nhiệt đến đâu thì cũng chóng qua. Trong khi đó, sự dính mắc, hưởng thụ sẽ hạ thấp nhân cách cá nhân còn phát triển các giá trị đạo đức và tinh thần làm cho con người cao thượng.
Hướng ngoại và hưởng thụ dục lạc là thói quen cố hữu của con người không dễ gì thay đổi hay dừng lại. Nhất là những người chưa có đời sống nội tâm phong phú thì dục lạc bên ngoài là thú vui duy nhất mà họ nương tựa, bám víu, như cái phao mong manh giữa biển khổ muôn trùng. Chính vì thế mà ta thấy có người do thấy được sự nguy hiểm của dục lạc nên quyết tâm từ bỏ. Nhưng chỉ một thời gian thì họ lại quay lại đời sống dục lạc tầm thường. Vậy làm sao để khắc phục được điều này? Theo những gì Đức Phật dạy trong các kinh, cũng như hiểu biết của người viết thì có hai việc nên làm.
Một là biết đủ, biết dừng. Chúng ta tự nhủ mình rằng những dục lạc này ta đã trải qua rồi, đã hưởng thụ rồi, ta đã biết chúng rồi. Bây giờ mà có hưởng thụ nữa thì cũng như vậy thôi, đâu có gì mới. Ta đã ăn xoài rồi thì những trái xoài khác mùi vị cũng vậy thôi. Vậy thì đâu cần phải ăn hết tất cả xoài. Nếu ta cứ hẹn lần hẹn lữa không chịu dừng, chịu bỏ ngay bây giờ thì chừng nào dừng, mới bỏ. Khi dừng không được, bỏ không được sự hưởng thụ thì người ta thường hay hẹn. Như hẹn rằng thôi lỡ kiếp này hưởng thụ rồi thì hưởng cho hết kiếp rồi kiếp sau tu. Nhưng rất có thể kiếp trước ta cũng đã nói câu này rồi, kiếp này ta lặp lại, và kiếp sau ta cũng sẽ hẹn nữa, sẽ lặp lại câu này nữa. Cứ như thế mà trôi lăn mãi trong dục lạc và luân hồi. Thi hào Nguyễn Công Trứ cũng nói, “Biết đủ liền đủ. Đợi cho đủ đến chừng nào mới đủ” (Tri túc tiện túc. Đãy túc hà thời túc). Nếu muốn dừng thì dừng ngay lúc này, chứ hẹn ngày mai thì bao giờ cho đến ngày mai.
Hai là phải có niềm vui khác để thay thế niềm vui dục lạc. Niềm vui cũng như nhu cầu của con người có nhiều cấp bậc khác nhau. Nếu ta có niềm vui cao hơn thì niềm vui thấp hơn sẽ không còn quan trọng nữa. Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow đã chia nhu cầu của con người theo năm tầng từ thấp đến cao, gọi là tháp nhu cầu. Tầng thứ nhất là các nhu cầu căn bản thuộc thể lý (physiological) như thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi. Tầng thứ hai là nhu cầu an toàn (safety) tức là cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo. Tầng thứ ba là nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (love/belonging) như muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy. Tầng thứ tư là nhu cầu được kính trọng, quý mến (esteem) như cần có cảm giác được tôn trọng, kính mến, được tin tưởng. Tầng thứ năm là nhu cầu về tự thể hiện bản thân cường độ cao (self-actualization) như muốn sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công nhận là thành đạt.
Con người không thể sống nếu thiếu những nhu cầu cơ bản thuộc về thể lý nhưng nếu người ta phát triển những nhu cầu ở tầng cao hơn thì những nhu cầu cơ bản không còn quan trọng hay thậm chí là không còn cần thiết nữa. Như có người rất coi trọng miếng ăn: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”. Nhưng những người có phẩm chất cao hơn một chút thì họ không hề chú trọng miếng ăn. Như các nhà khoa học đam mê nghiên cứu đến nỗi quên ăn, thậm chí còn không nhớ tới vợ con. Trong Phật giáo, Đức Phật có nói đến hai loại niềm vui vi diệu là niềm vui học hỏi Chánh pháp (Pháp hỷ thực) và niềm vui của thiền định (Thiền duyệt thực).
Hai niềm vui này, nhất là Thiền duyệt thực, được Đức Phật miêu tả là vô cùng an lạc mà ai có nếm trải hương vị của chúng rồi thì không còn ham thích gì những niềm vui khác nữa. Dưới cái nhìn của bậc Thánh thì dục lạc thế gian chỉ như những món đồ chơi của trẻ nhỏ. Khi còn bé thì chúng có thể đánh nhau vì con búp bê hay chiếc xe bằng nhựa, nhưng khi chúng lớn lên thì chúng thấy đó chỉ là đồ chơi và tự nhiên không còn thích nữa. Tinh thần càng phát triển, sự tu tập càng lên cao thì niềm vui càng vi tế, vi diệu và cao thượng.
Con người có thể duy trì và phát triển sự bình yên nội tại bằng cách chuyển ý nghĩ của mình vào bên trong thay vì hướng ra bên ngoài. Ý thức sự nguy hiểm và cạm bẫy của những sức mạnh tiêu cực như tham lam, sân hận, và mê mờ. Học cách khơi dậy và duy trì những đức tính tích cực của lòng nhân ái, tự chủ và hiểu biết. Tâm là nguồn gốc của tất cả đau khổ và hạnh phúc. Lòng ta là bãi chiến trường và cuộc chiến bên trong ta mới là cuộc chiến thật sự mà ta cần phải chiến đấu và chiến thắng. Cuộc chiến không cần súng đạn nhưng cần sự thức tỉnh đối với tất cả những tâm lý tiêu cực và tích cực bên trong chúng ta. Chinh phục thế giới bên ngoài không làm cho con người hết khổ. Chỉ có chinh phục nội tâm mới làm cho chúng ta hết khổ.
Trong tạng kinh nguyên thủy, Đức Phật đã nói một số bài kinh rất thú vị về sự chinh phục thế giới. Trong kinh Rohitassa, thuộc Tăng chi bộ I, thiên tử Rohitassa hỏi Đức Phật rằng: “Tại chỗ nào bạch Thế Tôn, không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ (đời này) không có sanh khởi (đời khác), chúng con có thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới không?” Đức Phật đã trả lời dứt khoát là không thể được. Rohitassa tán thán câu trả lời của Đức Phật, khen rằng thật là vi diệu vì chính thiên tử Rohitassa bước đi với tốc độ nhanh như tên bắn chớp nhoáng, với bước chân từ biển Đông qua biển Tây, đi như vậy luôn 100 năm không có dừng nghỉ cũng không có thể đạt đến tận cùng thế giới.
Hơn nữa, Đức Phật còn nói rằng dù cho có thể đi đến tận cùng thế giới thì cũng không thể chấm dứt khổ đau: “Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới” (Kinh Thế giới dục công đức, Tăng chi bộ IV). Cho nên chúng ta không thể đi đến sự tận cùng thế giới mà cũng không cần thiết phải đi đến tận cùng thế giới. Có một thế giới khác chúng ta có thể đi đến tận cùng và cũng làm cho ta có thể chấm dứt khổ đau. Đó là thế giới nội tâm của ta.
Cũng trong kinh Rohitassa, Đức Phật dạy: “Nhưng này Hiền giả, trong cái thân dài độ mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, Ta tuyên bố về thế giới, về thế giới tập khởi, về thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt”. Phải chăng điều này có nghĩa là nếu con người chạy theo dục lạc bên ngoài thì không bao giờ đạt đến được sự cùng tận của nó, dù người đó có đầy đủ điều kiện đến đâu. Nhưng cho dù người đó có thể gom tất cả dục lạc thế gian về cho mình để mà hưởng thụ thì họ vẫn không diệt trừ được đau khổ hay đạt được hạnh phúc viên mãn. Cái mà người ta hay gọi là tiền có thể mua thuốc được nhưng không mua được sức khỏe là vậy.
Tuy nhiên, con người không cần phải nhọc nhằn chinh phục tất cả dục lạc bên ngoài mà vẫn có hạnh phúc. Chỉ cần họ xoay lại tâm mình thì hạnh phúc hiện tiền. Chinh phục thế giới bên ngoài không bằng chinh phục thế giới nội tâm. Chinh phục thế giới nội tâm quan trọng và cần thiết hơn và nhất là hiệu quả hơn. Điều này rất rõ ràng. Từ xưa đến nay có vị hoàng đế hay tỷ phú nào tuyên bố mình không khổ đâu, nhưng Đức Phật thì có. Đức Phật tuyên bố rằng Ngài đã chứng đạt Niết-bàn và giải thoát khỏi mọi triền phược khổ đau.