TỪ NÔ BỘC THÀNH QUỐC SƯ
Tiểu Lục Thần Phong
Đã ba năm bỏ triều cống laị còn cho quân quấy nhiễu phên dậu phương
- Chúng ta có thành luỹ vững vàng, quân
Thánh Tông không biết làm sao đành hạ lệnh lui binh, khi quân kéo về đến châu Cư Liên thì gặp sứ giả mang tấu chương từ Thăng Long đến. Vua bèn mở ra xem thì thấy tâu rằng:
- “… Nguyên Phi hết lòng phò vua , giữ an nội chính từ trong cung cho đến ngoaị triều. vỗ an đảng nghịch, huấn tập cung nhân… đều rất thuận thảo, trên dưới một lòng quy phục…Nguyên Phi ngày đêm cầu Phật- Bồ Tát gia hộ hoàng thượng chinh phục Chiêm Thành xong đặng khải hoàn…”
Đọc xong tấu chương Thánh Tông ngồi thừ ra một lát rồi đứng lên cảm thán:
- Nguyên Phi là đàn bà mà xử việc nước giỏi như vậy, lẽ nào ta thân nam nhi mà để thua đàn bà sao?
Nói xong hiệu triệu ba quân, cho người tuyên đọc tấu chương rồi đốc thúc quay trở laị quyết hạ thành cho bằng được. Lòng ba quân cũng hứng khởi và phấn chấn lên vì thẹn thua chí đàn bà. Chế Củ không ngờ quân
Bách niên nhất sát-na
Bá tánh taị Sa-Bà
Vạn pháp ư nhất niệm
Tâm động nhập Phật- ma
Bài thơ còn dở dang ngài để đấy đi vào nội có việc đến khi về thì thấy ai sửa câu cuối thành:
Tâm lưu xuất Phật – ma
Bèn cả giận quát:
- Kẻ nào cả gan dám sửa thơ ta?
Đám nô bộc sợ xanh mặt, riêng có một gã trung niên quỳ xuống thưa:
- Thưa chủ nhân kẻ nô bộc này có tội, vì thấy ngài viết câu cuối không hợp lẽ. Phật hay ma cũng từ một tâm mà ra, không từ ngoài vào! Vì vậy dám mạo phạm sửa laị , mong chủ nhân lượng thứ.
Ngài tăng lục hết sức ngạc nhiên:
- Ngươi cũng biết chữ, biết Phật pháp sao?
Y laị đáp:
- Thưa chủ nhân, nô bộc tôi cũng biết chút chút.
Tăng lục laị gạn hỏi và đưa ra nhiều thử thách nhưng y đều đáp rành mạch trôi chảy. Cuối cùng y thú nhận rằng:
- Tôi vốn là người Phương Bắc, thọ giáo thầy ở Triết Giang được ban cho pháp danh Thảo Đường. Mấy năm trước sang Chiêm Thành hoằng pháp, rồi binh đao loạn lạc nên bị bắt làm tù binh cùng với quân Chiêm chứ thật tôi không phải người Chiêm.
Ngài tăng lục lập tức cho thay áo quần, tắm gội rồi bảo:
- Ngày mai tôi sẽ đưa ông vào triều ra mắt hoàng thượng
Y quỳ tạ ơn, vị tăng lục đỡ y dậy bảo:
- Chúng tôi đều là người mộ Phật, việc ông bị bắt làm tù binh là ngoài ý muốn. Tôi hy vọng hoàng thượng sẽ lưu dụng ông.
Hôm sau tăng lục dẫn y vào triều kiến vua:
- Tâu bệ hạ , nhân trước kia bệ hạ ban cho một số nô bộc không ngờ trong ấy laị có một kẻ vốn là tăng nhân từ phương Bắc. Y kiến thức uyên bác , tinh thông Phật điển, thi tứ phong lưu… Quả thật là ngọc lẫn trong cát đá. Nay thần dẫn y vào mong bệ hạ thẩm tra lưu dụng kẻo phí uổng người tài.
Thánh Tông cũng ngạc nhiên không kém bèn vời y lên thềm rồi tra hỏi y. Y đáp rất thành thực laị thể hiện kiến văn tuyệt vời của mình . Vua thử vấn pháp thì y đáp như lý như pháp… Thánh Tông vô cùng hoan hỷ sanh lòng yêu mến . Vua nói:
- Trẫm Thật không ngờ ngài lẫn trong đám nô bộc , âu cũng là nhân duyên gì đây. Trẫm trị quốc thương dân như con đẻ. Trẫm một lòng mộ đạo, hộ pháp, hộ tăng. Hôm nay ngài laị đến đây, trẫm xin bái ngài làm thầy mong ngài đừng từ chối.
Sự thể chuyển biến nhanh và phi thường quá làm vị tăng lục cùng triều thần ngạc nhiên cao độ, nhưng niềm vui , niềm hân hoan dâng cao khiến cả triều thần tung hô và đồng thanh quỳ bái tạ.
Vua cho người đưa ngài Thảo Đường ra ở chùa Khai Quốc, một ngôi chùa quan trọng hàng đầu thành Thăng Long. Hôm sau vua đến dâng lễ bái sư và phong ngài Thảo Đường là quốc sư. Thăng Long vốn có dòng Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi Và Vô Ngôn Thông, giờ laị có thêm một phái mới nữa là Thảo Đường . Ngài và dòng thiền mà ngài hoằng dương vốn rất bác học, chuyên dùng thi kệ, văn chương để hoằng hoá; vì vậy đã thu hút rất nhiều người vốn là tinh hoa của thành Thăng Long gia nhập và cũng ảnh hưởng nhiều đến hai phái thiền vốn có trước kia. Có lần nhân ngày xuân rỗi việc Thánh Tông bảo các quan:
- Năm xưa trẫm thân chinh phạt Chiêm Thành, bắt Chế Củ làm tù binh, sau y dâng ba châu chuộc tội. Được đất, mở cõi về nam cũng là lợi lớn nhưng cái lợi lớn vô cùng mà trẫm có được ấy là quốc sư . Ngài về Đaị Việt với đạo hạnh trong sáng, Phật điển uyên thâm, văn chương trác tuyệt. Đây là cái phúc của nước nhà vậy!
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành
Bài đọc thêm:
Thiền Tông Việt Nam (Trần Tuấn Mẫn)
THIỀN SƯ THẢO ĐƯỜNG Sư người Trung Hoa, là đệ tử của Thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu (Trung Quốc), đến nước Chiêm Thành (Champa) hoằng dương Phật Pháp. Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông nước Đại Việt đem quân đánh Chiêm Thành bắt được vua nước ấy là Chế Củ cùng với một số tù binh. Khi về tới kinh đô Thăng Long, Vua ban cho bá quan những tù binh để làm nô bộc. Sư cũng nằm trong số tù binh ấy. Tình cờ Sư được chia cho một vị Tăng lục, là người chuyên coi việc tăng sự tại triều. Từ đó, vua Lý Thánh Tông thường thưa hỏi Phật pháp nơi Sư và phong Sư chức Quốc sư, mời Sư đến trụ trì tại chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quôc) trong thành Thăng Long. Do thiền học của Quốc sư có những nét mới lạ so với hai thiền phái đương thời là Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông, nên đồ chúng nghe tiếng tìm đến tham vấn rất đông. Do đây thành lập nên phái thiền thứ ba ở Việt Nam, có tên là Thiền phái Thảo Đường. Theo tài liệu, thiền sư Thảo Đường là đệ tử của thiền sư Trùng Hiển (980-1052), thuộc về thế hệ thứ ba của thiền phái Vân Môn, sau được vua Tống ban hiệu là Minh Giác đại sư) ở núi Tuyết Đậu (Chiết Giang, Trung Quốc). Mà Vân Môn và Tuyết Đậu (hiệu Minh Giác đại sư) đều là thiền sư bác học và có khuynh hướng văn học. Cả hai người đều nhằm tới hoằng dương Thiền học trong giới trí thức, đưa giới Nho gia đến gần với đạo Phật và trở nên Phật tử. Chính khuynh hướng Nho-Phật dung hợp này đã thống trị tư tưởng Trung Quốc trong buổi đầu nhà Tống. Và đặc điểm này đã làm ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo đời Trần ở Việt Nam. Theo sách Thiền sư Việt Nam, đến 50 tuổi, thiền sư Thảo Đường có chút bệnh, ngồi kiết già mà tịch. Chùa Trấn Quốc - Nơi xuất phát thiền phái Thảo Đường Thiền phái Thảo Đường: Thiền phái Thảo Đường do thiền sư Thảo Đường sáng lập truyền thừa được 5 đời, từ năm 1069 đến 1205. Nhưng vì có quá ít tài liệu nên người đời sau gần như không biết gì về nội dung tư tưởng của phái thiền này. THẾ HỆ I : Có 3 người : Ảnh hưởng và lụi tàn Thiền sư Thảo Đường đã giảng các tập Tuyết Đậu ngữ lục mang vẻ đẹp của thơ của thầy (tức thiền sư Tuyết Đậu) nhiều lần tại chùa Khai Quốc. Khuynh hướng thiền học trí thức và thi ca đã từ đó ảnh hưởng đến hai thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông. Sau này thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của đời Trần còn tiếp tục chịu ảnh hưởng này. |