Tại sao chúng ta cần những lời nói thẳng?
Những ngày này, trên khắp các báo đài, thậm chí ngay trong những
câu chuyện trong quán cafe mỗi sáng,
chúng ta vẫn thường nghe những câu động viên: “Việt Nam đang trong quá trình
phục hồi kinh tế rất tốt, nhờ vào việc chống dịch
vô cùng hiệu quả...”. Nhưng hỏi “tốt như thế nào” thì khó có thể
trả lời thỏa đáng, vì kinh tế phải
thể hiện bằng các con số, còn chống dịch thì có thể thấy qua việc ngăn chặn
hiệu quả số bệnh
nhân không để lây lan rộng.
Theo
báo cáo của Tổng
Liên đoàn Lao động vừa qua cho thấy, hiện nay có đến hơn 30 triệu người thất nghiệp do
tác động của đại dịch. Riêng về
hiệu quả kinh tế, theo
Báo cáo cập nhật đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 đối với các ngành kinh tế Việt Nam do TS.Cấn Văn Lực và Nhóm
tác giả Viện
Đào tạo và
Nghiên cứu BIDV
công bố: “Đối với
Việt Nam, sau 6 tháng đầu năm 2020, có thể thấy
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế -
xã hội Việt Nam đã rất rõ nét,
nghiêm trọng hơn rất nhiều so với các dự
báo trước đây”. Có nhìn rõ
vấn đề thì mới có những chiến lược,
biện pháp, đối sách vĩ mô và vi mô để khắc phục. Kinh tế không thể là
câu chuyện an ủi hay
ru ngủ nhau được!
Một ví dụ khác, có quan chức
Liên đoàn Bóng đá
phát biểu rằng: “Liên đoàn
kiên quyết xử lý những phát ngôn mang tính nhắm vào
liên đoàn và làm xấu
hình ảnh của giải, kể cả đối với Huấn luyện viên (HLV) trưởng đội tuyển
Việt Nam, HLV có quyền
bình luận về chuyên môn nhưng không được
bình luận về chính sách của
Liên đoàn Bóng đá Việt Nam”. Ngay sau phát ngôn này, Chủ tịch Hoàng Anh Gia Lai - ông Đoàn Nguyên Đức đã có
ý kiến phản ứng: “Liên đoàn nói vậy là sai
hoàn toàn. Nói như vậy là họ không muốn nghe góp ý từ những người có tâm với bóng đá
Việt Nam đấy. Đòi kỷ luật như vậy, họ còn muốn nghe không? Nếu
Liên đoàn sai,
chúng ta phải
ý kiến lại chứ? Bóng đá là thuộc về
công chúng, thuộc về xã hội”.
Trong một bài viết trước đây trên
báo chí,
chúng tôi từng nêu lên
vấn đề và
luận bàn về
mục đích của chính trị. Trong đó
căn bản học thuyết lãnh đạo ngay trong thời
phong kiến là người
lãnh đạo hay “quân tử” khi cầm quyền phải có kỷ luật, nên cai trị dân chúng của mình bằng chính tấm gương của mình, đối xử với họ bằng
tình thương và sự
quan tâm.
Niềm tin chính trị gắn chặt với
luân thường đạo lý và
đạo đức cá nhân. Họ phải
chấp nhận sự phán xét của
nhân dân, phải lắng nghe những
lời nói thẳng,
nói thật. Trong cuốn sách
Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng viết: “Lại nói: nếu
phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ, thì địch sẽ
lợi dụng mà
công kích ta.
Nói vậy là lầm to. Khuyết điểm cũng như chứng bệnh.
Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ
phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết ‘cũng la lết quả dưa’”.
Nghĩ về Chiếu cầu lời nói thẳng của triều Tây Sơn
Lần giở lại
lịch sử dân tộc,
tổ tiên ta
đặc biệt là các bậc kiệt hiệt
chưa bao giờ sợ
lời nói thẳng,
chưa bao giờ ngại “phê bình và tự phê bình”, đó là một
truyền thống tốt đẹp vậy.
Chiếu cầu lời nói thẳng do Ngô Thì Nhậm thừa mệnh vua chấp bút, sau khi Thái sư Bùi Đắc Tuyên bị xử tử bởi tội chuyên quyền, lộng hành, gây quá nhiều
tổn thất về
thanh danh,
uy tín cho
triều đại Tây Sơn. Đọc Chiếu cầu
lời nói thẳng,
chúng ta cảm động khi từ đầu đến cuối, nhà vua bằng một
thái độ rất mực khiêm nhường, trình bày
cặn kẽ mọi thực trạng
xã hội cho dân chúng biết, không hề
che đậy, giấu giếm:
“…Vận nước gặp lúc gian nan, họ ngoại thích trộm quyền cương, điềm trời luôn hiện, việc binh hỏa không lúc nào ngơi, người hành dịch có khi bị chìm đắm dưới sóng gió, có khi mắc vào chốn gươm đao, nào là phải vận tải đưa lương, nào là bị tham quan đục khoét…Than ôi, chơi bời là cái điều nguy ngập, khoe khoang là cái cớ diệt vong”.
Đáng
tôn trọng hơn nữa khi nhà vua bày tỏ sự lo sợ của
bản thân trước
tình cảnh: “Nay
quốc gia đất rộng người nhiều, thực là nhờ
công ơn của tiên
hoàng đế (chỉ vua Quang Trung) mở mang khi trước. Nhưng đất rộng mà lắm chỗ bỏ hoang, dân nhiều mà nhiều nơi
ta thán, trẫm run rẩy
sợ hãi như sắp sa vào
vực thẳm. Từ xưa công sáng nghiệp đã khó mà sự thủ thành lại càng khó hơn. Trẫm cùng các đại thần thân cận toan tính lo lường nhưng chưa biết thế nào là phải”. Trước thực trạng
xã hội, nhà vua
kết luận: “Tóm lại, cái tệ trễ biếng là do cái lòng tự
mãn tự túc sinh ra,
tích tụ chất chứa đã lâu, không sao kể xiết”. Xin hiểu rằng chữ “trễ biếng” mà nhà vua dùng ở đây với hàm nghĩa
chỉ trích rất nặng nề: chỉ lo hưởng lạc, không lo việc dân việc nước, là thứ
tư tưởng kiêu căng ngạo mạn đến mức
đáng sợ.
Nhà vua “mong rằng thần dân trong ngoài khuyên bảo để cho trẫm được
đức hạnh tốt” và nhằm “cùng các đại
thần tính toán
tìm ra con đường đúng mà vẫn chưa thấy
con đường nào là thích hợp”. Nói cách khác,
tinh thần cơ bản của
Chiếu cầu lời nói thẳng là lấy dân làm gốc: “Hỡi những kẻ bầy tôi và dân chúng, các ngươi hãy dâng thư dán kín, nói hết, đừng giấu giếm. Trong kinh thì nộp cho triều đình, ở ngoài thì nộp cho các quan trấn để chuyển đệ. Trẫm sẵn lòng nghe theo
lời nói phải để
thi hành ra chính sự, mong đổi được
tệ tục, làm được việc hay”.
Ngược dòng
lịch sử về trước đó, khi vua Trần Dụ Tông
lên ngôi, triều chính đất nước
rối ren. Trong nội, vua ham mê tửu sắc,
nóng nảy, nông cạn để mặc
cho quyền thần
liên kết hoành hành; bên ngoài, giặc giã dấy lên
cướp bóc,
sinh linh đồ thán. Thấy chính sự bê bối,
nhà giáo Chu Văn An bất bình dâng Thất trảm sớ, xin chém 7 kẻ nịnh thần, đều là người
quyền thế được vua
dung túng. Dù bị vua Dụ Tông phớt lờ, tấu sớ của vị Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám đã gây
chấn động triều đình cũng như còn lưu lại mãi với sử xanh.
Vẫn biết “trung ngôn” thường “nghịch nhĩ”, nhưng
nếu không có những
lời nói thẳng
nói thật, không dám nhìn nhận cái thẳng cái thật, thì
chắc chắn, dù là một
cá nhân, một tổ chức hay một
quốc gia đều không thể phát triển,
tiến bộ một cách đích thực.
Chánh ngữ trong đạo Phật
Đức Phật xếp
Chánh ngữ vào
vị trí thứ ba trong
Bát Chánh đạo, sau
Chánh kiến và
Chánh tư duy.
Chánh ngữ thuộc
khẩu nghiệp. Trong
ba nghiệp của
con người,
khẩu nghiệp khó
kiểm soát hơn
thân nghiệp và
ý nghiệp, bởi
lời nói xuất phát từ những
trạng thái tâm lý thường xuyên biến động theo
thất tình.
Cũng
như ý nghiệp và
thân nghiệp,
khẩu nghiệp có thiện, ác và không thiện, không ác (
trung tính).
Ái ngữ là những lời nhẹ nhàng,
êm ái, hòa nhã…
Vọng ngữ là những lời khiêu khích, đâm thọc, tráo trở,
thêu dệt, chưa kể
ác ngữ là
ngôn từ thù hận… Ở đây
chúng ta đang bàn về trung ngôn, thiện ngữ, những
lời nói thẳng,
nói thật với
thiện ý.
Trong bài pháp cho năm anh em
Kiều Trần Như tại
vườn Lộc Uyển,
Đức Phật đã nói về
Chánh ngữ như sau: “Chỉ được
nói thật, không nên
bịa đặt, không nên
nói xấu người khác, phải
kiềm chế sự vu khống, không nên buông những lời
giận dữ và
thóa mạ đến người khác, nên
nói tốt và
nhã nhặn với
mọi người, không nên
chìm đắm vào những chuyện gẫu
vu vơ,
ngu ngốc, mà chỉ nên nói những gì
hợp lý và đúng vào vấn đề”.
Tóm lại,
Chánh ngữ là một trong tám
tia sáng nhiệm mầu
chiếu kiến đến tận cùng
thể tánh, khai phóng
năng lực nội tại, cho
chúng ta thấu hiểu
giá trị đích thực của
chân lý và
mục đích tối hậu của cuộc sống ngay thời
hiện tại là
thoát ly khổ não,
sanh tử,
luân hồi. Trong mười hạnh của Bồ-tát,
Chánh ngữ chiếm đến bốn hạnh: 1.Nói lời
chân thật. Không
nói dối; 2.Không nói lời
thêu dệt,
vẽ vời; 3.Không nói lời
điên đảo, hai chiều; 4.Không nói lời
ác độc.
Lời nói có
vai trò quan trọng trong cuộc sống, là
phương tiện giao tiếp,
truyền đạt kiến thức,
kinh nghiệm; bày tỏ
tư tưởng và
tâm lý, tình cảm, xúc cảm của
con người.
Chúng ta đang cần những
lời nói thẳng để nhìn ra những
vấn đề cần khắc phục,
hoạch định kế sách
ứng phó. Những lời xu nịnh, mỹ
từ không làm thay đổi cục diện mà còn làm
chúng ta chủ quan, dễ phạm
sai lầm, tự mãn… Có thể khẳng định, những
lời nói thẳng trong
thời đại nào cũng là những liều thuốc đắng nhưng
cần thiết cho sự phát triển
xã hội.