Phật nói trời, người, A-tu-la là
thế giới hữu hình và vô hình đều thấy Ngài
ngồi yên, không làm gì, rồi
thành Phật giáo hóa chúng sanh. Phật nói họ thấy như vậy, nhưng
sự thật không phải vậy.
Phật
cho biết Ngài ngồi
quán chiếu tất cả các kiếp
quá khứ xa xưa của Ngài và của
mọi người.
Vì vậy, Phật dạy các Tỳ-kheo
thực hiện pháp này bằng cách
ngồi yên để tập trung
suy nghĩ tại sao
chúng ta có cuộc sống hôm nay. Và Phật dạy rằng cuộc sống hôm nay là kết tinh những gì của
quá khứ mà
chúng ta đã tạo. Vì thế,
Phật bảo muốn biết đời trước
chúng ta là gì thì xem cuộc sống
hiện tại.
Quán sát quá khứ gần là đời trước thì dễ thấy. Nếu đời trước
chúng ta là người
trí thức, hoặc là thầy tu thì
tái sanh đời này,
chúng ta cũng là người
trí thức, cũng là thầy tu.
Điển hình như
Hòa thượng Trí Tịnh lúc còn bé theo mẹ lên chùa.
Hòa thượng Vạn Linh nói người này đời trước là
Hòa thượng nên đời này cũng
xuất gia làm
Hòa thượng. Đó là sự gợi ý mà
kinh Pháp hoa gọi là khai
tri kiến. Nhờ
Hòa thượng Tổ
đánh thức tâm ngài như
vậy mà Hòa thượng Trí Tịnh đã
xuất gia.
Tuy là
chú tiểu mới tu, nhưng
Hòa thượng Vạn Linh thấy
Hòa thượng Trí Tịnh đã là
Hòa thượng, nên ngài không bắt chấp tác những việc lặt vặt. Ngài cho cất
am tranh để
Hòa thượng Trí Tịnh ở tu
một mình. Quả đúng như lời Tổ nói, sau này
Hòa thượng Trí Tịnh trở thành vị
cao tăng, chỉ
đọc kinh qua
một lần là ngài thuộc lòng. Trong khi
chúng ta phải đọc nhiều lần và
suy nghĩ hiểu được rồi mới nhớ.
Xưa kia tôi học với ngài
nhận thấy rõ
trí nhớ của ngài thật là
siêu đẳng, ngài đọc thuộc lòng
bộ kinh Pháp hoa chữ Hán. Tới năm
Hòa thượng 80 tuổi, tôi có duyên may
ở chung phòng với ngài khi
tham dự cuộc họp ở Hà Nội. Ngài nói với tôi rằng vì mắt không thấy chữ nên ngài cố đọc phẩm
Phương tiện kinh Pháp hoa để thuộc lòng phẩm này và lúc nào ngài cũng đọc phẩm này. Tại sao ngài không
đọc kinh khác mà chỉ đọc phẩm
Phương tiện.
Trong khi ngài
Nhật Liên thì chủ trương chỉ đọc phẩm 16
Như Lai thọ lượng của
kinh Pháp hoa. Tổ
Huệ Đăng của
Thiên Thai thiền giáo tông dạy rằng chỉ đọc quyển thứ 7
kinh Pháp hoa.
Hòa thượng Trí Tịnh đọc thuộc
lòng từ ngày này sang ngày khác chỉ mỗi phẩm
Phương tiện mà về sau tôi mới
nhận ra rằng
Đức Phật có
vô số phương tiện.
Chúng ta sống
trong đời ngũ trược ác thế cũng phải có
vô số phương tiện mới làm đạo được. Ý này
kinh Hoa nghiêm nói rằng có
phương tiện huệ thì giải được mọi
vấn đề, không có
phương tiện huệ sẽ bị kẹt pháp, đương nhiên sẽ chết trong pháp.
Hòa thượng Trí Tịnh suốt đời lãnh đạo Giáo hội ít
sai lầm nhờ học và hiểu
phương tiện,
ứng dụng được
phương tiện trong cuộc sống
tu hành và
truyền đạo của ngài. Đó là điều quan trọng mà người học Phật phải thấy được.
Đầu tiên
chúng ta tu quán nhân duyên của mình theo
lời Phật dạy là nhìn
hiện tại cuộc sống của mình mà biết việc
quá khứ mình làm. Như tôi sanh trong
gia đình nghèo ở vùng quê nghèo mà tự biết được
nghiệp nhân quá khứ của mình là gì, nhưng cũng còn
may mắn là có căn lành. Trong
kinh Pháp hoa, Phật nói rằng điều quan trọng là người tu phải có căn lành mới được chư
Phật hộ niệm.
Vì vậy, tôi
suy nghĩ nhiều về căn lành và
nghiệp ác. Người có căn lành được Bồ-tát giúp đỡ, người có
nghiệp ác bị
ác ma dẫn dắt.
Nhờ có căn lành nên tôi sanh trong nhà nghèo ở vùng quê nhưng
may mắn mới 3 tuổi tôi đã được
quy y ở chùa. Ông cụ thân sinh tôi kể rằng khi tôi 3 tuổi có
vị đạo sĩ
tự nhiên tới nhà tôi và nói
nếu không cho tôi
quy y ở chùa thì không nuôi được, tôi không sống được.
Nghe vậy, ông cụ chở tôi xuống chùa làm lễ
quy y. Từ đó, chùa và Phật luôn
sống động trong
tâm trí tôi. Bây giờ tôi cũng còn mường tượng lại lúc mới đến chùa
quy y, tôi phải bò lên bậc tam cấp, vì còn bé quá không
bước lên được.
Nhờ có căn lành nên có Bồ-tát
hiện ra giúp đỡ,
trợ lực thì căn lành
chúng ta mới lớn được. Không có căn lành mà có
nghiệp ác sẽ bị
ác ma hướng dẫn
đi vào con đường ác là
gian tham,
trộm cắp, hung dữ, giết người,
cuối cùng phải thọ
quả báo khổ đau không cùng.
Vì vậy, nhìn
hiện tại để
quán sát biết đời trước. Nếu
hiện tại có nhiều người ác xấu đến rủ làm việc ác là biết
nghiệp ác đời trước đã có mới
chiêu cảm quả báo đời này như vậy. Tôi thấy có những người bạn mà
cha mẹ đưa họ vô chùa tu, nhưng họ
không vui với đạo mà chỉ thích chuyện đời nên bị đời
cám dỗ, bỏ tu về tục, phải
trả quả báo.
Phật dạy phải
quán sát đời trước và thấy đời trước với đời này có mối
liên hệ mật thiết. Đời trước làm ba việc ác của thân là sát, đạo, dâm, làm bốn việc ác của miệng là nói
bịa đặt, nói lời gây chia rẽ, nói đâm thọc,
nói lời hung ác và làm ba việc ác của tâm là tham, sân, si. Tất cả người tu
chúng ta phải luôn
quán sát coi mình có phạm những
tội lỗi này hay không, lòng
chúng ta có nhiều
ham muốn không, có dễ
bực tức không, nhìn sự việc
chính xác không. Nếu phạm những
lỗi lầm này, phải biết đời trước mình đã tạo tội rồi, cần
nỗ lực lạy
sám hối cho tiêu nghiệp thì tâm mới sáng được. Ai cũng tu nhưng tu được kết quả tốt hay không là ở điểm này.
Căn lành đời trước có thì đời này
tự nhiên phát sinh
ý niệm lành. Thật vậy, đời trước
chúng ta không có tâm ác, đời này
chúng ta thấy
mọi người đều dễ mến và các loài vật cũng
dễ thương nên muốn chăm sóc chúng. Nhưng
ác nghiệp đời trước có là
sát nghiệp nên thấy loài vật là muốn giết,
cuối cùng cũng
bị giết như nó, tạo nên
oan gia tương báo không ngừng.
Quán sát đời trước của mình, lần lần
chúng ta nhận ra được
một đời trước
chúng ta có tu hay chưa tu và có
tu pháp môn nào. Nếu đời trước
chúng ta tu pháp môn
niệm Phật thì đời này thấy người tu
niệm Phật,
chúng ta thích. Nếu đời trước tu Bồ-tát pháp, đời này thấy người
bố thí hoặc làm những việc của Bồ-tát,
chúng ta cảm mến và theo họ. Nếu đời trước
chuyên tu thiền, đời này
chúng ta thích yên tĩnh, thích
một mình, không thích nói qua nói lại.
Nhận biết được
một đời trước của mình đã
tu pháp môn gì,
cho đến nhận biết được
ba đời trước của mình từng
thành tựu những pháp gì là chứng được
Sơ quả,
được giải thoát rồi. Và biết được
ba đời trước
tu hành đã gặt hái những
thành quả nhất định thì
chắc chắn đời này
chúng ta tu
tốt hơn, thăng tiến dễ dàng vì không dám làm việc sai quấy.
Đức Phật khi còn là
thái tử đã biết Ngài có phước đời trước lớn
vô cùng do đã tu tạo nhiều
công đức, nên
tái sanh trên
cuộc đời này Ngài đã có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp,
sức khỏe phi thường,
thông minh tột đỉnh và sanh trong
dòng họ cao quý của hàng vua chúa. Và
Thái tử Sĩ Đạt Ta có cái thấy khác với người đời rằng Ngài đã có quá nhiều, nếu chỉ hưởng thụ mà sự
cống hiến cho
cuộc đời ít ỏi thì hậu vận sẽ không tốt.
Thực tế cho Ngài thấy các quân vương có phước lớn mới làm
lãnh đạo nhưng họ chỉ lo hưởng thụ và tạo ác, nên
cuộc đời kết thúc bi đát.
Nhìn thấy gương người trước khiến
thái tử suy nghĩ nhiều về việc vua
Tịnh Phạn đã xây ba tòa lâu đài cho Ngài ở
thoải mái không bị
thời tiết chi phối, còn có cả ngàn vệ binh
canh giữ an toàn cho Ngài, cả ngàn người hầu hạ,
phục vụ giải trí… Quả là
tốn kém không thể kể hết. Ngài tự nghĩ mình chưa làm gì cho
cuộc đời nhưng
cuộc đời làm cho Ngài quá nhiều thì món nợ này lớn không trả nổi. Đó là sự
nhận thức khác nhau giữa Phật và
ác ma.
Biết đời trước mình đã tu đương nhiên đời này
nỗ lực tu thêm. Và người biết rõ
ba đời trước của mình đã tạo được nhiều
công đức, đời này họ cố
hạn chế tiêu xài tối đa, việc rất cần mới
sử dụng. Điển hình tôi thấy
Hòa thượng Tuyên Hóa tu ở Mỹ, ngài nói làm tôi
giựt mình, suốt 30 năm ngài chỉ mặc một
áo tràng, không thay đổi. Đương nhiên ngài có phước lớn, cần gì mà không có nhưng ngài không tiêu xài. Một miếng giấy mà người ta xài rồi bỏ, ngài lấy gấp lại mặt sau để xài đến ba lần. Ngài biết
dành dụm phước đức để
tích lũy làm Phật.
Ngài
Tinh Vân nói phải
tiết kiệm thức ăn như
tiết kiệm máu.
Phật Quang Sơn lớn nhất ở
Đài Loan, tôi đến thăm và ăn cơm trưa. Ngài cho dọn mấy hạt mít kho. Quả mít người ta ăn bỏ hạt, Ngài cho lượm hạt và kho cho
chư Tăng ăn,
tiết kiệm quá sức. Nhờ
tiết kiệm đó mà ngài tạo được
công đức lớn như
xây dựng được trường
đại học ở Mỹ, chùa
Phật Quang ở
Đài Loan, Úc, Canada… Ngài
xây dựng chùa ở khắp nơi trên
thế giới.
Vì vậy, biết đời trước mình đã tu, đã tạo phước nhưng không xài hết mà
tiết kiệm công đức để làm
tư lương cho
đời sau.
Những gì mình làm cho
cuộc đời thì
cuộc đời sẽ làm lại cho ta ở
kiếp sau là
ba đời nhân quả. Thuở nhỏ tôi đọc truyện có anh đóng xe để chở cha lên rừng cho cọp ăn. Con anh hỏi ba đóng xe làm gì. Anh nói để chở ông nội bỏ vô rừng cho cọp ăn vì ông già rồi, không làm được gì. Nó nói ba nhớ đem xe về để ba già, con sẽ chở ba lên rừng bỏ cho cọp ăn.
Đối với lớp
tiền nhân, mình biết
kính trọng, lớp
hậu lai sẽ
kính trọng mình. Nếu
xử sự tệ bạc với người trước, lớp
kế thừa cũng
tệ bạc với mình. Đời này làm bất cứ việc gì cũng chuẩn bị
tư lương cho
đời sau thì
đời sau tái sanh,
chúng ta sẽ có những kết quả
tốt đẹp mà mình đã làm ở đời trước.
Tu Bồ-tát đạo,
chúng ta phải làm phước. Tu
Thanh văn đạo,
chúng ta xả ly,
buông bỏ. Tu Bồ-tát đạo, đời này có
cúng dường thì
đời sau mình đi tu cũng được
cúng dường. Đời này có
bố thí thì
đời sau gặp khó khăn cũng có người giúp đỡ. Nhưng người gặp khó mà bị gây khó thêm gọi là
họa vô đơn chí, vì đời trước đã
lợi dụng lúc người ta bị
hoạn nạn, khó khăn mà hại họ, cướp đoạt của họ.
Khi tôi còn là Sa-di hầu
Hòa thượng Trí Quang lúc ngài vô Sài-gòn họp. Ngài thường dạy tôi một câu mà tôi còn nhớ rằng đời này chú không làm mà bị đổ oan thì
cảm thấy buồn khổ vì
oan ức. Nhưng ngài dạy việc này không oan đâu, phải biết nhân đây mà vào
thiền định để
quán sát đời trước sẽ thấy ngay việc mình đã làm trong
quá khứ. Bài học ngài dạy tôi khiến tôi nhớ mỗi khi có gì xảy ra cho mình thì lấy đó để
quan sát đời trước. Và
kiểm soát một đời trước
cho đến ba đời trước thì đương nhiên mình chuẩn bị
đời sau tốt hơn.
Đời này tu để chuẩn bị
đời sau. Ý này được sám
Quy mạng dạy: “Thử thế phước cơ mạng vị, các nguyện xương long.
Lai sanh trí chủng linh miêu, đồng hy tăng tú…”.
Đời này
quan sát xem
vị trí xã hội của
chúng ta tốt hay xấu và từ
vị trí đó, cố
nỗ lực tu thêm để tạo nhân tốt cho
đời sau thì
đời sau sẽ được
tốt hơn. Đời này
chúng ta gặp khó khăn, thì tu
hồi hướng công đức để
đời sau không gặp khó nữa. Đời này mình học mà không được ai giúp đỡ, vì mình chưa từng gieo nhân lành này. Biết vậy,
chúng ta tạo
điều kiện giúp người học thì
đời sau sẽ có người giúp ta học.
Trên bước đường tu, tôi luôn gặp
thiện tri thức thì tự biết tôi đã trồng căn lành ở kiếp
quá khứ, nên kiếp này tôi được đi tu từ thuở nhỏ và luôn được
thiện tri thức giúp đỡ, hướng dẫn
tốt đẹp.
Vì vậy, mỗi lần gặp khó khăn, tôi lại gặp quới nhân
hiện ra giúp tôi
vượt qua chướng ngại và thăng hoa.
Định vị được cuộc sống hôm nay để từng bước phấn đấu
đi lên tốt đẹp. Còn
không định vị được thì mình sẽ làm theo hoang tưởng,
chắc chắn thất bại khổ đau.
Nhận thấy thực tế cuộc sống mình làm được gì cho người, cho vật thì sẵn lòng làm.
Có Tỳ-kheo thưa với Phật rằng ngày trước con chưa đi tu, còn có
tài sản để
bố thí. Nhưng tu rồi, chỉ còn một bát ba y thì muốn giúp người, còn cái
gì nữa mà giúp.
Phật nói ông còn nhiều chứ. Chưa tu, ông chỉ có một ít, nhưng bây giờ đi tu, ông có nhiều hơn. Người tu
đắc đạo mới thấy lý này. Chưa
đắc đạo thấy tu thì mất hết. Nhưng tu
đắc đạo thấy mình được quá nhiều.
Thí dụ Kiết Tường Thiên khi chưa tu là cậu bé
chăn trâu. Nhưng tu được, vào thành thọ trai được
vua Ba Tư Nặc cúng dường. Đó là cái được quá nhiều rồi.
Hay Sunita chưa tu thuộc hàng ngoại cấp thì ai cũng có quyền
sai khiến, đánh đập, chửi mắng mà ông không được
phản ứng. Ông tu
đắc quả La-hán khiến
vua Ba Tư Nặc phải
đảnh lễ và
dập tắt liền
ý định hỏi Phật tại sao lại cho người đê tiện này
xuất gia.
Tu được quá nhiều thì mình có
điều kiện giúp đỡ hơn. Thật vậy, tu được quá nhiều nghĩa là tu được bao nhiêu
công đức, được bao nhiêu
trí tuệ thì dùng
công đức và
hiểu biết hơn người như vậy để dạy người, hướng dẫn người sống
lương thiện,
tốt đẹp, mới làm
lợi ích cho
cuộc đời.
Vì vậy, điều quan trọng là
tu hành phải sanh
công đức. Không
nhận ra ý này mà tu
trở thành người
vô dụng, ăn bám mà ngày nay người ta gọi là người phi sản xuất,
tức chỉ ăn mà không làm, không
lợi ích gì cho
cuộc đời.
Phật khẳng định rằng tu làm
lợi ích cho
cuộc đời nhiều hơn là không tu. Nhưng tu phải
đắc đạo thì lấy
đạo đức cảm hóa người, lấy
trí tuệ hướng dẫn người
thành công đời sống vật chất lẫn thăng hoa
tâm linh.
Chúng ta còn nhớ
Mã Thắng tu
tỏa ra đạo lực cao quý khiến
Xá Lợi Phất trông thấy vẻ
ung dung tự tại giải thoát của Ngài mà
phát tâm cung kính và
xuất gia theo Phật. Việc này là
công đức lớn, nếu
Mã Thắng không tu
đắc đạo thì không
trở thành người
đạo đức có sức
cảm hóa như vậy.
Người tu
đắc đạo sử dụng đạo đức và
trí tuệ của mình
đi vào đời để làm
lợi ích cho
mọi người. Thật vậy,
xưa kia Nguyễn Phúc Chu đưa di dân từ miền Trung vào Đồng Nai, Bến Nghé, tức TP.Hồ
Chí Minh.
Thực hiện Bồ-tát pháp, các
thiền sư đã theo di dân vào miền Nam, họ đi khai phá vùng đất mới có nhiều nguy hiểm, nhưng người dân thấy
thiền sư thì họ yên tâm.
Ngoài ra, với
trí tuệ của
thiền sư biết rõ
thời tiết mùa màng nên
chỉ dẫn cho người dân trồng trọt làm nông phát đạt. Họ cảm đức của
thiền sư mà
xây dựng chùa. Thậm chí
thiền sư ở chùa Khải Tường thấy vùng Gia Định có nhiều cọp beo, các Ngài hướng dẫn dân chúng nên làm vòng rào
bảo vệ, tối đến phải đốt lửa,
tụng kinh, đánh
hồng chung và nổi trống để
thú dữ sợ không dám
đến gần. Dân làm theo
chỉ dẫn của các
thiền sư, họ đã giải tỏa được nhiều nỗi lo và cuộc sống cũng được
an ổn, phát triển.
Muốn làm được nhiều
lợi ích cho đời, tất yếu phải học và tu có được trí sáng,
sức khỏe tốt mới nhập cuộc với đời thì đời
kính trọng.
Kinh Hoa nghiêm nói ý này rằng thầy trò thường sanh chung một chỗ gọi là
quyến thuộc Bồ-đề. Nghĩa là mình tu có
đạo đức và
trí tuệ thì
sử dụng hai điều
quý báu này để
lãnh đạo quần chúng, đưa
xã hội đi lên.
Đặc biệt là
quần chúng thương và
kính trọng,
tin tưởng mình thì khi mình rời bỏ
thân tứ đại này và
tái sanh ở đâu để
tiếp tục hành Bồ-tát đạo,
quyến thuộc Bồ-đề của mình sẽ
tái sanh ở đó để thầy trò cùng
tiếp tục phát triển
công đức.
Vì vậy, trong lòng
quyến thuộc Bồ-đề của mình đã có sợi chỉ vàng kết nối tình thầy
trò đời trước rồi, nên
tái sanh, họ thấy mình là
phát tâm theo liền.
Điển hình
vua Tần Bà Sa La mới thấy Phật là ông cảm mến và
thỉnh Phật về
hoàng cung và
phát tâm xây lâu đài cho Ngài ở tu. Phật nói ông vua này từ nhiều đời trước là
quyến thuộc Bồ-đề của Ngài và Phật từng
cưu mang giúp đỡ ông. Vì thế
thâm tâm ông nghĩ nhớ ơn Phật, nên đời này
tái sanh, dù thay hình đổi dạng, thay họ đổi tên nhưng trong
tiềm thức của ông đã có Phật ngự.
Lý này
chúng ta dễ kiểm chứng theo
thực tế xảy ra, có người mới thấy mình là họ
thiện cảm nhưng cũng có người mới gặp mà họ đã không ưa mình. Đó chính là
oan gia đời trước, hay
ân nhân đời trước mà nay gặp lại thì
chúng ta phải
quán sát và
thực tập pháp
nhân duyên. Và tu như vậy,
chúng ta tìm được
ba đời trước của mình
cho đến thấy biết được 500 đời trước là đắc La-hán.
Và biết cùng tột
quá khứ như
Đức Phật Thích Ca chứng
Túc mạng minh, Ngài biết tất cả kiếp
quá khứ Ngài từng làm gì và ai là người thân hay người nghịch với Ngài, nên Phật
giải quyết tất cả
mọi việc hoàn toàn tốt đẹp.
Chúng ta chưa biết
quá khứ của mình và người thì có thể dùng cảm tính để biết. Nghĩa là tới chỗ nào
hành đạo mà thấy người ta không
cảm tình với mình, dù mình
cố gắng làm gì đi nữa họ cũng không thương thì nên đi chỗ khác tu. Còn người đang
quý mến,
hết lòng hỗ trợ nhưng mình
xử sự thế nào khiến họ ghét là tu theo
tà đạo, không bao giờ thấy
Như Lai.
Tu Bổn môn là lắng sâu vào
tiềm thức, đi về
quá khứ để
biết mình từ đâu tới và biết được
cùng tận ngọn nguồn của mình và muôn loài là
thành tựu quả vị Phật.