Chánh niệm, tỉnh giác là nền tảng của giải thoát

18/12/20215:16 SA(Xem: 5256)
Chánh niệm, tỉnh giác là nền tảng của giải thoát
CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC
LÀ NỀN TẢNG CỦA GIẢI THOÁT
Quảng Tánh

duc phat thuyet phap"Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

- Nếu các Tỳ-kheo nào thường lãng quên, không chánh trí thì làm tổn hại chánh niệm, chánh trí. Nếu không chánh niệm, chánh trí thì làm tổn hại các việc gìn giữ các căn, gìn giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn.

- Nếu Tỳ-kheo nào không thường hay lãng quên, có chánh trí thì thường xuyênchánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí thì thường giữ gìn các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đã giải thoát liền chứng đắc Niết-bàn.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành”.

(Kinh Trung A-hàm, phẩm Tập tương ưng, kinh Niệm, số 44)

Trong các pháp thoại trước, Đức Phật đã dạy rõ, lộ trình tu học tuần tự từ “Giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát, chứng đắc Niết-bàn”. Pháp thoại này, Đức Phật chỉ dạy sâu hơn, muốn giữ giới thành công thì cần chánh niệm, chánh trí. Có chánh niệm, chánh trí thì mới hộ trì được các căn. Hộ trì các căn vững chắc mới thành tựu giữ giới. Giữ giới được trọn vẹn thì mới thành tựu không hối hận, … cho đến giải thoát, Niết-bàn.

Theo kinh văn, không thường lãng quên là chánh niệm. Niệm là nhớ, ghi nhận, chú tâm. Chánh niệm là nghĩ nhớ đến các đề mục của Tứ niệm xứ; là sự ghi nhận, chú tâm đúng, trọn vẹn, toàn diện, chân xác tất cả những gì xảy ra trong hiện tại. Nếu bị lãng quên, thất niệm, không chú tâm thì hãy đưa tâm trở về với chánh niệm. Niệm là cơ sở của định.

Chánh trí trong ngữ cảnh của pháp thoại này tương ứng với tỉnh giác, nghĩa là rõ biết, thuộc chức năng của tuệ. Chánh niệm và tỉnh giác tuy có tính năng khác nhau nhưng thường sử dụng đi liền vì hỗ trợ, bổ sung cho nhau rất tích cực. Chú tâm, tâm gắn khít với đề mục và luôn rõ biết để thất niệm liền phát giác và quay lại chú tâm chính là nội dung thực hành thiền định.

Nhờ chánh niệm, tỉnh giác mà giúp hành giả hộ trì, gìn giữ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Giữ gìn thế nào? Thông thường, sáu căn luôn tiếp xúc với sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), sáu thức phân biệt tốt xấu mà sinh yêu ghét, tạo các nghiệp thiện ác cũng bắt đầu từ đây. Đơn cử như khi mắt thấy sắc đẹp hoặc xấu, chánh niệm để đưa tâm về đề mục (niệm Phật, niệm hơi thở chẳng hạn), tỉnh giác để thấy rõ cảnh sắc kia vô thường, sinh diệt. Ngay đó tâm được an lập, cái thấy chỉ còn là cái thấy, không bị sắc trần xấu đẹp kia chi phối, nhờ đó bảo vệ được con mắt. Các giác quan còn lại cũng được phòng hộ như vậy.

Khi hành giả phòng hộ vững chắc sáu căn, không bị sáu trần chi phốiquấy nhiễu thì việc giữ giớituân thủ luật nghi trở nên nhẹ nhàng. Hành lang phòng thủ sáu căn càng chắc bao nhiêu thì việc giữ giới càng hiệu quả bấy nhiêu. Khi giới hạnh vững chãi, trọn vẹn phạm hạnh rồi thì tâm sẽ tuần tự thăng hoa “không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát, chứng đắc Niết-bàn”.





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :