LỜI
GIỚI THIỆUcủa Viên Giác Tùng Thư nhân kỳ tái bản lần thứ nhất năm 2020Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện trên cõi Ta-bà này trong
thân tướng con người như mỗi người
chúng ta, cũng chỉ vì một
thiện duyên duy nhất là
cứu khổ cho muôn loài
chúng sanh, mà trong đó có
vai trò đặc biệt là
loài người.
Trung Bộ Kinh có ghi
đoạn đức Phật nói với
Tôn giả Xá Lợi Phất về chính mình như sau: "Những ai nói về Ta một cách chân chánh sẽ nói như sau: Một
vị hữu tình không bị si
chi phối, đã sanh ra ở đời, vì
hạnh phúc cho
chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì
an lạc cho
chư Thiên và loài Người“ (
Trung Bộ Kinh I, 83).
Bởi thế,
hình ảnh đức Phật là
hình ảnh một “con người“ tự tầm đạo,
tu tập và
chứng ngộ. Sau khi
chứng ngộ,
đức Phật đã đem
giáo pháp nhiệm mầu ấy dạy cho
con người. Đầu tiên cho hai vị
thương gia cư sĩ Tapassu và Bhalluka, rồi ngay sau đó cho năm anh em
Tôn giả Kiều Trần Như. Ngài luôn dạy chúng
đệ tử không
cầu khẩn,
van xin phước lành từ các đấng
Thần linh, mà phải
dựa vào tín lực, tấn lực,
niệm lực,
định lực và
tuệ lực để
cầu đạo giải thoát.
Tác giả cuốn sách
Phật Giáo và
Con Người này là một người đã tự mình
hành trì những lời dạy đó.
Hòa Thượng Thích Như Điển đã và đang đi trên
con đường ấy, tính
đến nay (2020) đã hơn 55 năm.
Hòa Thượng không nhìn
Phật Giáo dưới con mắt của một
học giả mà là của một người thực sự dấn thân bước đi trên
con đường học và
hành giáo lý
vi diệu này.
Độc giả sẽ bắt gặp nơi đây những
hình ảnh lý thú về
đạo Phật trong những
sinh hoạt không
xa lạ với cuộc sống
hằng ngày của
chúng ta. Thiết tưởng điều này rất
cần thiết và hữu ích cho những ai đang trên bước đường học Phật.
Viên Giác Tùng Thư xin
trân trọng giới thiệu đến quý
độc giả gần xa
tác phẩm Phật Giáo và
Con Người của
tác giả Thích Như Điển trong kỳ tái bản lần thứ nhất năm 2020.
Nhân đây
Viên Giác Tùng Thư cũng xin cám ơn
cư sĩ Nguyên Minh Nguyễn Minh Tiến đã giúp đỡ
chúng tôi trong việc
biên tập và trình bày cuốn sách này. Xin cám ơn hai
đạo hữu Nguyên Hùng và Nguyên Ân đã hỗ trợ cho các
hoạt động của
Viên Giác Tùng Thư được thập phần
viên mãn.
Xin
chắp tay nguyện cầu cho ngày càng nhiều người trên hành tinh này
thấm nhuần giáo lý nhiệm mầu của
Phật Pháp, bỏ ác làm lành,
lợi lạc nhân sinh.
Đức quốc, đầu năm 2020Viên Giác Tùng Thư
LỜI VÀO SÁCH
Cứ mỗi năm Bộ Nội Vụ Cộng Hòa
Liên Bang Đức lại tài trợ cho tôi viết một quyển sách, ngoài những giúp đỡ khác cho tờ báo
Viên Giác, lễ lộc cũng như những chi phí phụ của chùa. Đây là
lý do và cũng là
động cơ thúc đẩy tôi phải
cố gắng nhiều hơn nữa để xứng đáng với sự
lưu tâm của Bộ Nội Vụ.
Mới đây, ông Dammermann là một Thượng Nghị Sĩ, từ Bonn đã đến thăm chùa sau hơn 15 năm Bộ đã giúp cho chùa rất nhiều
phương diện qua các
thời kỳ tiền nhiệm của ông Dr. Geißler, ông Dr. Lewandowski, bà
thư ký Michael và lần này chính ông Dammermann đã đích thân đến chùa để thăm cơ sở và
tìm hiểu sơ qua sự
sinh hoạt tại đây và bàn bạc về
vai trò của ngôi chùa cũng như
Tôn Giáo, nhất là
Phật giáo, cho kỳ
triển lãm kỹ nghệ
thế giới Expo năm 2000, từ tháng 6 đến tháng 10. Trong 5 tháng trời ấy, thành phố Hannover
dự định đón nhận 35 triệu người trong nước Đức cũng như từ khắp nơi trên
thế giới.
Một lượng khách lớn như thế và một
chủ đề: Mensch, Natur und Technik (
Con Người,
Thiên Nhiên và Kỹ Thuật) đã làm cho
mọi người phải
quan tâm đến, mà ngôi chùa
Viên Giác nằm cách khu
triển lãm này không quá 10 phút đi bộ.
Câu chuyện của 4 năm nữa còn phải bàn bạc thêm rất nhiều và
dĩ nhiên Phật giáo Việt Nam cũng sẽ đóng góp phần
tâm linh của mình vào sự phát triển của
thế giới cũng như
nhân loại trong
hiện đại.
Mùa An cư kiết hạ cũng là mùa mà tôi có nhiều
thì giờ nhất cho chính mình và đây cũng là cơ hội để tôi
tĩnh tâm, tu niệm cũng như viết sách. Thời biểu
hằng ngày là như sau:
- 6 đến 7 giờ sáng mỗi ngày là giờ
công phu khuya,
thiền hành và
thiền tọa.
- 7 đến 8 giờ sáng là giờ viết sách.
- 8 giờ sáng,
Tăng chúng dùng
điểm tâm trong
chánh niệm.
- 9 đến 10 giờ, tôi có thêm một giờ nữa để viết sách.
- 11 giờ đến 12 giờ là giờ
quá đường và
thiền hành,
tụng kinh.
- 12 đến 2 giờ trưa là giờ
chỉ tịnh.
- 14 giờ 30 đến 16 giờ 15 là giờ dạy học cho
Tăng chúng trong
mùa An cư cũng như cho các lớp người Đức.
- 17 đến 18 giờ là giờ đọc sách.
- 18 giờ 30, dùng chiều trong
chánh niệm.
Vào lúc 20 giờ, tất cả
mọi người vân tập nơi
Chánh điện để lạy
Kinh Đại Bát Niết Bàn, mỗi chữ mỗi lạy
cho đến 21 giờ 30, sau đó là giờ của
cá nhân.
Kinh Đại Bát Niết Bàn là một trong những
kinh tối thượng thừa,
Đức Phật đã nói trong 8 năm sau cùng của đời Ngài cùng với
Kinh Pháp Hoa tại
Linh Thứu Sơn nơi thành
Vương Xá.
Trong những năm trước, khi
mùa An cư kiết hạ đến, tôi có cho
Tăng chúng và
Phật tử học các khóa
giáo lý căn bản, kế đó là
phát nguyện tu
Bát quan trai một ngày một đêm vào mỗi cuối tuần
trong suốt mùa
Kiết Hạ. Những năm sau đó, tôi đã
phát nguyện lạy kinh Ngũ Bách Danh (500 lạy), rồi
Tam Thiên Phật Danh (3.000 lạy), rồi
Vạn Phật (hơn 11.000 lạy), nhưng
cảm thấy nội lực vẫn chưa
tăng trưởng nhiều, nên tôi đã
phát nguyện lạy
kinh Pháp Hoa, mỗi chữ mỗi lạy.
Năm 1990 bắt đầu lạy
kinh Pháp Hoa. Năm ấy lạy được 14.213 lạy. Năm 1991 lạy 13.767 lạy.
Mặc dầu năm này có tổ chức
lễ Khánh Thành chùa Viên Giác, nhưng
Tăng chúng cũng rất
tinh tấn trong việc
tu hành. Đến năm 1992 lạy được 13.409 lạy. Năm 1993 lạy được 12.393 lạy. Năm 1994 có lẽ là năm lạy nhiều nhất,
mặc dầu chỉ lạy trong 55 lần của
mùa hạ, mà đến 17.090 lạy. Như vậy trung bình mỗi ngày lạy 310 lạy. Năm 1995, phần còn lại chỉ lạy trong 18 ngày, tổng cộng 5.130 lạy. Như vậy, nếu làm một con số thống kê ta sẽ có được 76.002 lạy. Trong
kinh Pháp Hoa phần đầu có nói là hơn 60 ngàn lời được
Đức Phật diễn thuyết, nhưng đó có lẽ là phần chữ Phạn hoặc chữ Hán, còn dịch ra tiếng Việt đã hơn 76 ngàn chữ vậy. Đây là một
công đức rất
thù thắng trong việc
tu hành mà chùa
Viên Giác cũng như
cá nhân tôi đã
thực hiện trong
thời gian qua.
Tôi vẫn
thường hay nói với quý
Phật tử rằng:
Tu phước cũng giống như cây đèn cầy, một ngày nào đó đốt mãi cây đèn cầy cũng phải hết. Riêng
tu đức hoặc
trí huệ cũng giống như ánh sáng của cây đèn cầy, sáng mãi không bao giờ hết. Nếu ta đem ánh sáng ấy thắp
tiếp tục cho những
ngọn đèn bên cạnh, ánh sáng lại càng
tỏ rõ hơn nữa. Từ đó,
chúng ta có thể hiểu, việc
tu hành cả phước và huệ đều bổ sung cho nhau, không nên để thiếu một trong hai thứ ấy.
Đa phần
chúng ta thường ít
sử dụng tự lực mà chỉ muốn nương vào
tha lực, nên
con người, vốn đã
yếu đuối, lại càng
yếu đuối hơn nữa. Vì thế,
tu tập là một
việc làm rất
cần thiết cho
Phật tử tại gia lẫn
xuất gia.
Sau khi lạy xong
kinh Pháp Hoa, tôi lại
phát nguyện lạy tiếp
kinh Đại Bát Niết Bàn. Kinh này gồm 2 tập. Mỗi tập không dưới 500 trang và chữ nhỏ hơn
kinh Pháp Hoa, nên có
lẽ phải lạy hơn 10
mùa hạ nữa mới xong. Việc
tu hành không phải chỉ nhắm vào
hình tướng. Vì tất cả cái gì có tướng đều
hư vọng cả. Nhưng muốn
đạt được tánh
chân như,
trước tiên phải nương vào tướng để
hiển bày sự
tu học là vậy. Có người
phá chấp không cần
lễ Phật nữa, nhưng riêng tôi thì chủ trương khác.
Con người ai cũng có bịnh cả. Bịnh do nghiệp mà ra. Vả lại ta có thân nên phải có bịnh. Mà nghiệp thì có thể chuyển được. Muốn chuyển nghiệp thì phải tu. Chỉ có thế thôi. Mà tu thì phải đem thân
lễ bái, đem tâm
sám hối và đem miệng
đọc tụng lời kinh Phật. Nếu ai ai cũng
thực hiện được việc này thì nhơn gian này sẽ
biến thành Tịnh độ. Việc khó nào rồi
chúng ta cũng sẽ
thành tựu viên mãn.
Ngày xưa Phật còn
tại thế, có lẽ Ngài và
chư Tăng an cư kiết đông chứ không
kiết hạ. Vì
mùa đông mới có mưa, còn
mùa hạ thì khô ráo. Mùa mưa chính là mùa côn trùng hay sinh nở và không tiện cho việc đi
khất thực, nên
Đức Phật và
chư Tăng ở lại
tịnh xá để
tham thiền và trau giồi
giáo pháp. Đó cũng là
thể hiện lòng từ bi đối với muôn loài
vạn vật. Còn
Việt Nam và
Trung Quốc hay
an cư kiết hạ vào mùa hè. Có lẽ đây thuộc về trường phái
Bắc Tông, giữa
Phật Đản và Vu Lan có 3 tháng chẵn, nên
an cư vào 3 tháng ấy cũng
hợp lý chăng, nên
chư Tăng Bắc Tông an cư vào mùa nóng. Trong khi đó
Nam Tông không có
lễ Vu Lan nên không bị
lệ thuộc vào 3 tháng mùa hè.
Tuy nhiên, ngày nay ở
Việt Nam cũng như ngoại quốc có một vài nơi
an cư kiết đông, nhưng cũng không
tiện lợi mấy vì ít có người
tham gia,
chư Tăng phải theo học
ngoại điển, mà trường học ở ngoại quốc và
Việt Nam thời gian nghỉ hè 3 tháng nhưng nghỉ đông chỉ một tháng thôi. Do đó khó bề
thực hiện được.
Ở Âu Châu này, nhất là nước Đức, mỗi năm có 4 mùa rõ rệt.
Mùa đông bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 3.
Mùa xuân từ tháng 4 đến tháng 6.
Mùa hạ từ tháng 6 đến tháng 9 và
mùa thu từ tháng 10 đến tháng 12. Mỗi mùa như vậy khí hậu thay đổi rõ rệt. Cây cối cũng theo đó mà đâm chồi nảy lộc hay tàn tạ theo khí hậu chung quanh. Nhưng có khi
thời tiết cũng đổi thay đột ngột, đang nắng bỗng mưa, đang nóng bỗng lạnh. Có nhiều khi không có
mùa xuân, mà từ đông,
thời tiết đổi sang
mùa hạ. Đôi khi trong hạ có những ngày lạnh
kinh hồn.
Hoặc giả đã sang đông, nhưng trời vẫn còn ấm áp. Lỗi ấy có lẽ không phải tại
thiên nhiên, mà do
con người làm
ô nhiễm môi sinh nên
thiên nhiên mới
trừng phạt con người như thế.
Cách đây mấy ngàn năm về trước,
con người sống trong
sơ khai,
hoang dã, nhưng
tâm thức rất
thảnh thơi, không phải lo chống chọi với mưa nguồn thác lũ. Bây giờ đây khoa học
tiến bộ rất nhanh, đầu óc
con người cũng
tiến bộ theo, nhưng
đồng thời sự
văn minh của cơ giới và hóa học đã
trở lại làm hại
con người, nên
con người trong
hiện tại còn khổ đau hơn bao giờ hết.
Nhìn từ
quan điểm của
Phật giáo, cách
bảo vệ môi sinh hay nhất là mỗi người hãy tự có
trách nhiệm với chính mình trong mọi hành động và
cử chỉ, thì kết quả sẽ khác hẳn đi khi
trách nhiệm ấy quy về cho tập thể và bắt tập thể phải có
trách nhiệm như
nhân loại hiện nay đang kêu gào.
Tâm bình,
thế giới bình; tâm loạn,
thế giới loạn là vậy.
Trời
mùa hạ năm nay (1996) bỗng chốc mưa, bỗng chốc nắng. Khó mà lường trước được khí hậu ở chốn này. Có ngày nhiệt độ lên tới 32 độ C, nhưng có hôm chỉ còn 20 độ C.
Phật Đản 2540 năm được tổ chức vào ngày 31 tháng 5 và ngày 1, ngày 2 tháng 6 năm 1996, có cả hơn 5.000 người về
tham dự, nhưng trời vẫn không
thương xót những kẻ có lòng, cứ mưa
rả rích suốt trong 2 ngày lễ.
Mặc dầu vào chiều thứ sáu trước đó, ngày 31 tháng 5 là nhiệt độ khí hậu mùa hè, trời quang mây tạnh, nhưng đến sáng thứ bảy và chủ nhật nhìn bầu trời không khác nào
mùa đông và nhiệt độ
tự nhiên xuống rất thấp.
Ở đây đi đâu, gặp ai và ở bất cứ chốn nào, câu gặp gỡ chào hỏi đầu tiên là
sức khỏe, sau đó mới nói cho nhau nghe về
thời tiết. Từ đó
chúng ta thấy,
thời tiết và
sức khỏe của
con người gắn chặt
với nhau. Do vậy, việc chọn lựa
an cư kiết hạ hay
kiết đông của
Đức Phật và
chư Tăng ngày nay trên
thế giới cũng có một tầm vóc rất quan trọng trong cuộc sống
tâm linh của mỗi người.
Con người ai cũng muốn
tự do, nghĩa là không bị
trói buộc bởi chung quanh.
Cũng thế, tu là tự tập cho mình đi đến
sự giải thoát toàn diện.
Giải thoát có nghĩa là cởi bỏ mọi sự
ràng buộc của
thế gian, cả
vật chất lẫn
tinh thần.
Sự giải thoát ấy chỉ có đuợc, khi mình tự chọn cho mình một lối đi. Mà
giải thoát ở đây có nghĩa là
giải thoát khỏi sự khổ đau,
tục lụy, chứ không phải
giải thoát khỏi
tội lỗi. Từ điểm này tôi tự chọn cho mình một lối đi, có lợi cho chính mình và cho kẻ khác nữa. Cứ mỗi năm 3 tháng tôi có được những
thời gian riêng cho chính mình và trong
thời gian này tôi
trở về với
con người của chính mình.
Cuộc chiến đấu nào cũng cam go và
cạm bẫy cả. Riêng cuộc chiến đấu với
nội tâm, tự mình phải làm chủ lấy mình là một cuộc chiến đấu rất khó khăn và đầy đủ
giá trị thực tiễn của nó.
Năm nay quyển sách này được viết bằng hai thứ tiếng, nhan đề là:
Phật giáo Với
Con Người. Ở đây tôi sẽ
cố gắng giới thiệu đến quý
độc giả xa gần, Việt cũng như Đức, từ dễ đến khó, từ
lý thuyết đến
thực hành. Sau chương
giới thiệu tổng quát về
Phật giáo,
chúng tôi sẽ phân tích
cặn kẽ Phật giáo cho
con người Á Châu,
Phật giáo cho người
Việt Nam,
Phật giáo cho người
Âu Mỹ và những
vấn đề trong
hiện tại mà người
Phật tử cần nơi
Đạo Phật cũng
như Đạo Phật
thiết thực như thế nào đối với
con người. Một đề tài như thế có
tính cách nghiên cứu vừa tổng quát vừa
chi tiết, nhưng tôi sẽ
cố gắng trình bày trong khả năng có thể của mình để mang đạo vào đời và mong rằng
tác phẩm này sẽ góp
một phần nhỏ tri thức trong cuộc sống
tâm linh của
mọi người.
Hôm nay tôi có được cơ hội này để gởi đến quý
độc giả xa gần những điều
căn bản của
Đạo Phật là nhờ
ân đức của
Tam Bảo cũng như ơn sanh thành
dưỡng dục của mẹ cha, ơn huấn dục của Thầy Tổ và ơn
hộ trì của
Đàn Na thí chủ. Tất cả những
công đức lành nếu có được, xin
hồi hướng đến
pháp giới chúng sanh, trong ấy có những
ân đức vừa kể.
Ngược lại, nếu có điều gì khiếm khuyết đều là do sở học còn
hạn chế của
bản thân tôi, kính mong
chư tôn đức và các bậc
thiện hữu tri thức chỉ bảo cho. Điều ấy tôi rất
hân hạnh được đón nhận.
Ngoài ra cũng xin
cảm ơn tất cả những
anh chị em
công quả,
cận sự, đã giúp đỡ chùa trong tất cả các khâu đánh máy, dịch thuật, in ấn, sắp thành sách v.v... nên
tác phẩm này mới
thành hình. Xin vô vàn
đa tạ những tấm lòng vì đạo ấy và cũng nguyện
mãi mãi làm những người luôn luôn hỗ trợ, cho
Phật Pháp được
tồn tại lâu dài trên
thế gian này.
Xin nguyện cầu cho
mọi người được đầy đủ
phước huệ để
tiến tu đạo nghiệp và
con đường giải thoát đang rộng mở
thênh thang để đón mời những
tâm hồn biết
quay về bến giác.
Chùa Viên Giác vào đầu hạ năm 1996Tác giả cẩn chí: Thích Như Điển