HỌC PHẬT
TRONG MÙA ĐẠI DỊCH
Nhật Duyệt LKTH
Học Hiểu và Hành Kinh Phổ Môn
( 1 )
Như đã trình bày ban đầu, chương trình Học Phật Trong Mùa Đại Dịch là phần ôn lại một loạt kinh được tụng và giảng vào lúc Dịch Covid 19 bùng phát và lan tràn khắp thế giới, tức vào đầu tháng Hai năm 2020, do chùa chiền bị đóng cửa hoặc hạn chế sinh hoạt nên Đạo Tràng của chúng ta đành phải sinh hoạt qua mạng internet, với lập trình Zoom. Cho đến sau Hè 2022 chúng ta mới trở lại sinh hoạt bình thường ở chùa. Để mở đầu cho chương trình ôn tập này, chúng ta đã học xong bài Kinh Châu Báu, tiếp đến là bài Kinh Phổ Môn mà Nhật Duyệt hân hạnh xin trình bày lại cùng các bạn đồng tu trong Đạo Tràng An Lạc, chùa Trúc Lâm Paris, cũng như toàn thể các độc giả bốn phương.
1.Kinh Phổ Môn. Xuất Xứ :
Chúng ta thường quá quen với ba từ Kinh Phổ Môn nhưng thật ra chỉ là một Phẩm, phẩm thứ 25 trong cuốn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, gồm 28 phẩm, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa. Vậy muốn Học, Hiểu và Hành Phẩm Phổ Môn này thì chúng ta cũng cần phải Học, Hiểu và Hành Kinh Pháp Hoa, cho dù chỉ nêu ra những điểm chính yếu mà thôi.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa :
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tiếng Phạn là Saddharma Puṇḍarīka Sūtra, theo kinh tạng của Bắc Truyền, đã được Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng trên đỉnh núi Linh Thứu trước khi ngài nhập Niết Bàn. Đại sư Trí Giả hay Trí Khải (538-597) đã dựa theo kinh Pháp Hoa, sáng lập tông Thiên Thai, một tông phái Phật giáo lớn ở Trung Quốc, mà chúng ta có sự phân chia thành Ngũ Thời Giáo như sau : Hoa Nghiêm, A-hàm, Phương Quảng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn.
Kinh điển của Bắc Truyền, được dịch từ tiếng Phạn, Sanskrit, hoàn toàn khác với Ngũ Bộ Kinh của Phật Giáo Nam Truyền, kinh tạng bằng tiếng Pali, được gọi là Nikaya, gồm có :
Tương đương với tạng Nikaya, chúng ta có thêm bộ A Hàm (Agama), Hán tạng, gồm Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Tạp A Hàm.
Ôn lại về sự xuất hiện kinh điển Phật Giáo thì chúng ta biết là những lời dạy của Đức Phật chỉ được truyền miệng. Ba tháng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, các vị đại đệ tử, đứng đầu là ngài Ca Diếp (Kasyapa) đã kết hợp với năm trăm vị A La Hán để trùng tuyên lại những lời dạy của Đức Phật. Chính nhờ tôn giả Anan (Ananda) là người có trí nhớ xuất phàm được mệnh danh là Đa Văn bậc nhất, lập lại lời Phật mà chính tôn giả đã nghe và với sự chấp thuận của các vị A La Hán khác trong buổi trùng tuyên này, lời Kinh hay Giới Luật, được phê chuẩn đúng lời Phật dạy mới được công nhận. Đây là cuộc Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ nhất, hơn một trăm năm sau thì lại có cuộc Kết Tập lần thứ nhì và tuần tự như thế, trải dài qua nhiều thế kỷ cho đến Sáu lần Kết Tập, kết thúc vào năm 1956, Phật Lịch 2500, tại thủ đô Rangoon, Miến Điện.
Những lời Phật dạy từ khẩu truyền cho tới khi được ghi chép, viết lại cũng phải trải qua nhiều thế kỷ, có tài liệu ghi là khoảng vào thời vua Asoka tức là vào Đại Hội Kết Tập lần thứ Ba. Các trụ đá mà vua Asoka cho dựng lên và khắc ghi lời Phật dạy là một di tích lịch sử. Song cũng có tài liệu ghi là sau cuộc Kết Tập lần thứ Tư, kinh điển mới được ghi chép trên lá bối tại Tích Lan. Như vậy có thể xem trong khoảng từ 300 năm cho đến 500 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn thì lời Phật dạy mới được ghi chép thành kinh điển và lưu trữ dưới ba tạng Kinh, Luật và Luận. Các tạng Kinh, Luật và Chú Giải sớm nhất được ghi chép lại bằng tiếng Pali, từ lần Kết Tập thứ III trở đi và Phật Giáo từ Ấn Độ được truyền sang phía Nam, vào các nước như Tích Lan, Miến Điện, Cao Miên, Lào, Thái Lan chịu ảnh hưởng Phật Giáo của hệ thống kinh tạng này. Từ đó chúng ta có tên gọi Phật Giáo Nam Truyền hay Phật Giáo Nguyên Thủy. Phải chờ vào khoảng đầu thế kỷ Thứ II Tây Lịch mới xuất hiện các kinh tạng dịch từ tiếng Phạn hay Sanskrit, từ miền Bắc Ấn Độ, không được trùng tụng và ghi chép qua các cuộc Kết Tập của hệ thống kinh điển tiếng Pali và được truyền qua các nước Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản, Viết Nam, Đại Hàn...Từ đây chúng ta có hệ thống kinh điển Bắc Truyền.
Tham khảo thêm :https://thuvienhoasen.org/a21469/7-lich-su-ket-tap-kinh-dien-va-truyen-giao-ty-kheo-thien-minh
Như vậy để hiểu vì sao chúng ta không tìm thấy Kinh Pháp Hoa trong tạng Nikaya hay A Hàm, do Kinh Pháp Hoa thuộc tạng Bắc Truyền, được ghi chép bằng tiếng Sankrit và được người Trung Quốc thỉnh từ Ấn Độ và dịch sang Hán văn, vào khoảng thế kỷ thứ III Tây Lịch. Có nhiều bản dịch, song bản của chúng ta thường dùng là của Ngài Cưu Ma La Thập, do cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch sang tiếng Việt.
Chúng ta đã hiểu về sự phân chia Phật Giáo Nam Truyền còn được gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy, tuy có quan điểm cho rằng không thực sự là Nguyên Thủy vì từ khẩu truyền cho đến khi lời Phật được ghi chép đã trải qua nhiều thế kỷ thì cũng khó lòng giữ được tánh chất nguyên sơ, sơ khai ban đầu từ kim khẩu Phật thốt ra. Lần Kết Tập thứ nhất là sau ba tháng khi Đức Phật nhập diệt, lúc ấy còn có những vị đại đệ tử như Ca Diếp, Anan, Ưu Bà Li…Nhưng qua đến lần Kết Tập thứ Hai, khoảng một trăm năm sau thì đâu còn những vị đại đệ tử này nữa. Do đó tính chất thật nguyên sơ, sơ khởi thời Phật còn tại thế khó lòng trọn vẹn. Vậy, cũng nên hiểu Phật Giáo Nguyên Thủy ám chỉ giai đoạn từ khi Đức Phật Chuyển Pháp Luân cho đến khi có cuộc Kết Tập lần thứ Nhất, thời kỳ Phật Giáo chưa chia thành Bộ Phái.
Phật Giáo Bắc Truyền còn được gọi là Phật Giáo Phát Triển, tuy căn bản vẫn là Giáo Lý mà Đức Phật Thích Ca đã giảng dạy nhưng với thời gian, Phật Giáo được truyền bá khắp nơi, lan rộng trong nước cũng như ngoài nước Ấn Độ, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều triều đại vua chúa, thể chế chính trị, hoàn cảnh xã hội đổi khác từ vùng, từ miền, từ các quốc độ, từ nhiều tầng lớp giai cấp, tùy phong tục, tập quán mỗi nơi mỗi khác, ngôn ngữ cũng khác biệt, cách diễn đạt cũng phải khác biệt, chắc chắn để tồn tại, Giáo Lý Nguyên Thủy ban đầu cũng phải được trình bày một cách uyển chuyển, linh hoạt, cần thích nghi với môi trường sống của người dân bản địa, tôn trọng những tập tục, thói quen của họ, còn mang nặng bản sắc dân tộc, thành kiến giai cấp hay cúng kiến, thờ bái thần linh, đối mặt với ngoại đạo, muốn truyền Giáo Pháp Phật cần phải dùng nhiều phương tiện để gieo duyên, dẫn dắt, giáo hóa, như vậy mới giúp cho sự tiếp thu được dễ dàng, và tất nhiên sẽ phong phú hơn. Tinh thần này được tìm thấy trong Mười Hạnh Nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, Hạnh Nguyện thứ Chín là Hằng Thuận Chúng Sinh. Phật Giáo tuy phát triển nhưng không hề xa rời những lời Phật dạy, vẫn mạch lạc, liên hệ chặt chẽ với Giáo Lý Nguyên Thủy.
Tuy vậy, có sự mâu thuẫn về Giới luật đã xảy ra trong Tăng đoàn sau khi Đức Phật diệt độ khoảng một trăm năm, vào kỳ Kết Tập kinh điển lần thứ II. Và cũng từ Đại Hội Kết Tập này mà chính thức có sự phân chia thành hai bộ phái : Trưởng Lão Bộ và Đại Chúng Bộ.
Trưởng Lão Bộ nghiêng về tinh thần bảo thủ, không thay đổi, thêm bớt một Giới luật nào đã được Đức Phật nói ra. Cho dù vào kỳ Kết Tập lần thứ Nhất, Tôn giả Anan có nhắc lại lời Phật trước khi nhập Niết Bàn là có thể bỏ bớt một số giới nhỏ, không cần thiết, hãy đọc lại một đoạn trong tài liệu của Tỳ Kheo Thiện Minh :
Sau cuộc kết tập, Đại Đức Ananda có bạch với Chư Thánh Tăng rằng lúc Như Lai sắp sửa viên tịch, Ngài có dạy: "Khi ta viên tịch các vị có thể bỏ bớt những giới học nào không quan trọng". Ngài Mahakassapa hỏi Đại Đức Ananda học giới nào là không quan trọng, ngài Ananda trả lời vì lúc Đạo sư Niết-bàn, Đại Đức quá bận rộn nên không hỏi điều đó. Ngài Mahakassapa với tư cách là chủ tọa liền tụng tuyên trước Chư Thánh Tăng như vầy: "Kính bạch Chư Tăng, vấn đề giới luật rất quan trọng, nó liên quan đến đời sống của sa môn, nhưng Thế Tôn trước khi viên tịch không nói rõ điều nào không quan trọng. Vì vậy cho nên kính xin Chư Thánh hiền Tăng từ nay về sau Chư vị đừng thêm mà cũng đừng bớt học giới nào mà Thế Tôn đã chế định, cứ vậy mà thực hành".
Trưởng Lão Bộ (Theravada), với tinh thần bảo thủ, chú trọng vào sự tu tập ở tu viện, nghiêm trì giới luật, trụ ở miền Nam, Đại Chúng Bộ (Mahasamghika) phát triển phía Bắc Ấn Độ, tiếp cận, hòa đồng với dân gian, trực tiếp truyền bá Giáo Pháp và cũng thực hiện các cuộc Kết Tập kinh điển riêng. Với thời gian, Trưởng Lão Bộ cũng như Đại Chúng Bộ đều lại phân phái ra thành nhiều nhánh do sự khác biệt về quan điểm, quan kiến. Cũng là một lời Phật nói ra nhưng sự hiểu biết, nhận biết, tiếp thu và diển đạt cũng như sự truyền bá của người này không thể nào giống người kia vậy.
Chúng ta lại nghe đến các danh xưng như Tiểu Thừa, Đại Thừa. Vậy cũng nên hiểu rõ nghĩa và xuất xứ của các danh xưng đó.
Nhắc lại Trưởng Lão Bộ và Đại Chúng Bộ được phân chia từ cuộc kết Tập lần thứ Hai, được xếp vào thời kỳ Phật Giáo Bộ Phái. Các danh xưng Tiểu Thừa và Đại Thừa chưa xuất hiện nên không thể gán cho Trưởng Lão Bộ là Tiểu Thừa và Đại Chúng Bộ là Đại Thừa. Có sự nhầm lẫn cũng dễ hiểu vì Tăng chúng phía Trưởng Lão Bộ không đông bằng phía Đại Chúng Bộ, và do nghĩa của Tiểu Thừa là cỗ xe nhỏ, chở ít người, đại Thừa là cỗ xe lớn, chở được nhiều người thì cũng dễ dàng kết luận Trưởng Lão bộ hay Thượng Tọa Bộ là Tiểu Thừa và Đại Chúng Bộ là Đại Thừa vậy. Cách lý luận này không đúng. Tuy rằng không thể phủ nhận khi tư tưởng Đại Thừa thực sự được biết đến vào nhiều thế kỷ sau khi Phật diệt độ, đã xuất hiện từ các khu vực mà Đại Chúng Bộ đã phát triển, do vậy cũng có thể suy đoán tư tưởng Đại Thừa đã manh nha từ Đại Chúng Bộ và vội kết luận Đại Chúng Bộ là tiền thân của Đại Thừa.
Các danh xưng Tiểu Thừa, Đại Thừa và cả Tam Thừa, Nhất Thừa đều không tìm thấy trong tạng kinh Nikaya, mà tìm thấy trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tạng Sanskrit, xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II Tây Lịch, được dịch sang Hán văn vào thế kỷ thứ III Tây Lịch. Tuy nhiên Kinh Pháp Hoa không phải là kinh xuất hiện sớm nhất trong các kinh mang tư tưởng Đại Thừa. Trước Pháp Hoa đã có kinh Bát Nhã, Bảo Tích, Hoa Nghiêm, Duy Ma Cật, Đại Trí Độ Luận của ngài Long Thọ…
Ngoài ý nghĩa là cỗ xe nhỏ chở ít người, Tiểu Thừa còn được hiểu là cỗ xe chở những ai tu hành chỉ cốt lo cho chính bản thân mình hay Tự Độ là chính, mục đích là được Giác Ngộ, Giải Thoát, đạt Niết Bàn, thoát ly sanh tử luân hồi. Ngược lại, tinh thần của Đại Thừa là Tự Độ và Độ Tha, tu hành cho mình cũng là tu cho người khác, mình hướng đến Giác Ngộ, Giải Thoát thì cũng tìm mọi cách, mọi phương tiện, tạo nhân duyên, chỉ dẫn, dìu dắt, từ thấp đến cao, từ người ít học, đến người trí cao học rộng, không trừ ai, giáo hóa mọi người cùng Giác Ngộ, Giải Thoát như mình. Đôi khi cũng còn phải hi sinh cả tánh mạng cũng không màng. Tinh thần này được thể hiện qua Bồ Tát Đạo hay Bồ Tát Hạnh. Tuy Bồ Tát vẫn còn trên con đường tu tập nhưng việc độ tha vẫn song hành, không phải chờ giác ngộ, đạt đạo quả rồi mới giúp người khác, Bồ Tát cũng không giới hạn phải là bậc xuất gia, tại gia, cư sĩ đều có thể trở thành Bồ Tát. Bồ Tát không lấy sự giải thoát của mình là hàng đầu, chừng nào còn chúng sinh trầm luân khổ đau là Bồ Tát phát nguyện đồng hành để cứu vớt.
Tuy nhiên tư tưởng Đại Thừa không chỉ giới hạn nơi sự tu hành của Bồ Tát mà còn được hiểu qua các khái niệm như Tánh Không, Chân Không Diệu Hữu, Nhứt Thiết Duy Tâm Tạo, Niết Bàn Vô Trụ, Sinh Tử tức Niết Bàn, Phiền Não tức Bồ Đề, Tam Thân của Phật và các cảnh giới Tịnh Độ. Và theo Kinh Pháp Hoa thì khái niệm nổi bậc là Phật Tánh cần được liễu ngộ. Tiếp thu tư tưởng Đại Thừa đòi hỏi một lòng tin vững chắc, Tín Tâm kiên cố, mạnh mẽ vì không dễ dàng tiếp thu nếu chỉ dùng cái trí hạn hẹp và tâm lượng chấp trước của phàm phu. Có những điều gọi là Bất Khả Tư Nghì vì ngôn ngữ không thể nào diển tả hết được cũng như con mắt trần không thể nhìn thấy. Nếu đòi hỏi một sự chứng minh cụ thể thì cũng khó lòng, có thể nói là bất khả thi. Cũng như nói Niết Bàn, Phật Tánh thì ai tu nấy chứng, làm sao…cầm Niết bàn hay Phật Tánh trong tay đưa ra cho mọi người thấy hoặc lấy ngón tay chỉ chỗ này là Niết Bàn, chỗ kia là Phật Tánh được ?!
Chúng ta cần nắm rõ tư tưởng Đại Thừa để hiểu Kinh Pháp Hoa vì kinh này thuộc hệ thống kinh điển Đại Thừa.
Tham Khảo thêm https://thuvienhoasen.org/a1460/gioi-thieu-kinh-phap-hoa
Kinh là lời Phật dạy, và cũng có thể hiểu là quyển sách ghi chép lại lời Phật dạy, là quyển Kinh, cuốn Kinh, bài Kinh, bản Kinh được nói gọn là Kinh.
Diệu là mầu nhiệm, huyền diệu, vi diệu, thù diệu, thù thắng, và cũng hàm chứa cái ý vượt ra khỏi tầm hiểu biết, siêu việt, khó nghĩ, khó lường, khó cắt nghĩa, diển tả cho chính xác với ngôn từ, với hình ảnh, cho dù cụ thể hay trừu tượng, với cái trí giới hạn của phàm nhân vẫn không thể nào diển tả rốt ráo được. Diệu cũng đồng nghĩa với Bất Khả Tư Nghì.
Pháp là Giáo Pháp, Giáo Lý mà Phật đã nói ra, cũng có thể hiểu là phương pháp hay pháp môn tu tập mà Phật dạy. Pháp trong kinh Pháp Hoa đồng nghĩa với Chân lý vi diệu, thù thắng. Chân Lý đó là Tri Kiến Phật, là Phật Trí, cái Thấy, sự Hiểu thông suốt thật tướng của các pháp, đúng như thật, không thêm bớt, không sai lệch, không bị ngăn ngại, che mờ bởi vô minh, phiền não, nghiệp chướng, và hạn hẹp như cái thấy Nhị Nguyên của phàm phu, mang nặng Kiến chấp, Ngã chấp và Tà Kiến. Chư Phật đã chứng đắc Chân Lý vì không chỉ có cái nhận biết, hiểu biết qua tri thức mà còn có sự chứng ngộ, vượt ngoài tri thức, và Chân Lý này bất kỳ ai cũng có thể chứng, có thể đạt tới bằng sự tự nổ lực, tinh tấn tu tập đúng như Chánh Pháp. Chân Lý đó không hề mất, vẫn hiển hiện nhưng chúng sanh chưa nhận ra mà thôi. Chân Lý đó là Phật Tánh. Mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh. Đồng nghĩa mỗi chúng sanh đều có thể trở thành một vị Phật cũng như đã là một vị Phật vì mang sẳn Phật Tánh trong mình.
Liên Hoa là hoa sen, biểu tượng cho cái gì thanh khiết, từ nơi đất bùn, ao đầm lầy lội mà sen vẫn mọc lên thật đẹp, tỏa hương thơm ngát, không chút bợn nhơ. Hoa có tàn, lá có héo, có rụng mà gương sen dường như vẫn còn đầy đặn, dường như không tàn không úa. Hình ảnh Hoa Sen nói lên cái Chân Lý mà Phật muốn truyền dạy, có hoa sen là có gương sen giống như có cái thân ô uế này là có cái bản tánh thanh tịnh, gọi là Phật Tánh. Chân Lý này nó không ở đâu xa, sẳn có nơi mỗi hữu tình, cho dù vẫn còn ở nơi cõi Ta Bà, Ngũ Trược Ác Thế, cho dù vẫn còn mang cái thân Ngũ Uẩn, cho dù cái thân Ngũ Uẩn có bị hoại diệt, như lá sen rơi rụng mà gương sen vẫn còn, thì cái bản tánh thanh tịnh, Phật Tánh ấy vẫn mãi thường còn.
Đề Kinh đã nói lên đại ý của Kinh rồi : chúng sanh hãy nhận ra bản tánh thanh tịnh này, Phật Tánh có sẳn nơi mình, đừng quên, đừng tìm tòi đâu xa hay kỳ vọng vào một cảnh giới nào đó.
Quyển Kinh gồm 28 Phẩm cũng chỉ muốn nói lên điều này, thức tỉnh chúng sinh, giúp chúng sinh phát khởi tín tâm với tinh thần lạc quan, sống trong cảnh ô trược mà thực ra là không ô trược, sống trong cảnh khổ nhưng thực ra là không khổ. Vì nơi chúng sanh có sẳn bản tánh không ô trược, không đau khổ. Vậy hãy nhận ra, đừng khước từ, đừng chối bỏ nó ! Để Khai Thị Ngộ Nhập cho chúng sinh cái Tri Kiến của Phật, tức là cái Thấy, sự Hiểu đúng Chân Lý hay Thật Tướng của các Pháp và cũng chỉ vì một mục đích này, nhơn duyên lớn này mà chư Phật ra đời.
Nơi bản kinh Pháp Hoa, Đức Phật và các vị đại đệ tử, các Bồ Tát, đều nói lên những Phương Tiện và Thí Dụ qua đó mà Phật Tri Kiến được chỉ bày, được nhận ra, được hiểu rõ và rồi chứng nhập vào Tri Kiến đó.
Phương tiện là nói Tam Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát) nhưng thực ra cũng chỉ nói Nhất Thừa hay Phật Thừa. Giáo lý mà Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy từ ban sơ mới ngộ đạo là Tứ Thánh Đế, Vô Ngã, Vô Thường, Duyên Khởi Pháp, Niết Bàn… tất cả đều thiết yếu, là sự thật, không mảy mai sai trái, là nền tảng theo đó tu tập nhưng chưa thể ngừng ở đó, qua Kinh Pháp Hoa, Đức Phật thuyết Nhất Thừa để mọi người cùng vươn lên đỉnh cao là thành Phật. Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh. Tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Tất nhiên phần tu tập từ các pháp căn bản nêu trên cho Thanh Văn, Duyên Giác, cùng với các Pháp Ba La Mật của Bồ Tát đều cần thiết chứ không phải là không cần tu, vô bổ, vô ích. Nếu chỉ lý luận tôi có Phật Tánh sẳn rồi, tôi là Phật sẽ thành, tôi chẳng cần tu hành gì nữa cả thì không đúng. Một khi mà vẫn còn ích kỷ, ngã mạn, ngã chấp, tham sân si, phiền não đủ thứ thì Phật Tánh cũng không thể nào hiển lộ. Không thể nào vỗ ngực tự xưng với mọi người tôi là Phật được !
Nhiều Thí Dụ như gã say, được bạn cột trong chéo áo một viên ngọc quí mà không biết, cứ lây lất cùng khổ, cho đến khi người bạn chỉ cho biết mới lấy viên ngọc đem đổi chác, nhờ vậy mà hết thiếu thốn. Thí dụ về một cùng tử khác, gã này có cha là trưởng giả giàu có nhưng lại bỏ cha đi lang thang vất vả kiếm sống, về sau được người cha giàu có dùng mưu chước đem về lại, giúp công ăn việc làm và cho hưởng gia tài đồ sộ. Thí dụ về một Hóa Thành được dựng lên để làm chỗ nghỉ chân cho đoàn người đi tìm trân bảo, vì đường xa hiểm trở, nên thối chí, nhờ được tạm dừng chân nơi Hóa Thành rồi thì sẽ được khuyến khích đi tiếp cho đến nơi có trân bảo. Dược Thảo Dụ đưa ra một trận mưa lớn đổ xuống, cây lớn, cây nhỏ đều thấm ướt như nhau. Thí dụ vị trưởng giả cứu các người con ra khỏi nhà lửa, bằng cách dụ dỗ, hứa cho các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu để ngoải cửa và khi các con đã ra khỏi nhà lửa, chỗ hiểm nguy rồi thì lại cho đồng một thứ xe lớn hơn, quí báu hơn các loại xe như đã hứa.
Dùng nhiều phương tiện, thí dụ như vậy vì căn tánh, trình độ, cao thấp, chậm lẹ, mức hiểu biết, khả năng thâm nhập giáo lý, giáo pháp, lời dạy của Phật thì không ai giống ai, cũng như trong thiên nhiên, có cây lớn, cây nhỏ và tùy theo hoàn cảnh, các điều kiện chung quanh, đất đai, chỗ mọc lên, có bị che khuất hay không, mà trận mưa dội xuống thì thấm ướt nhiều ít như thế nào, không thể đồng đều được vậy.
Các thí dụ về gã say, gã cùng tử, trưởng giả cứu các con trong nhà lửa, Phật dựng hóa thành cũng chỉ muốn nói lên còn cái gì giá trị hơn, vượt bực hơn, đáng vươn tới, đáng đạt cho được mà chúng sanh không ngờ tới, không nghĩ ra, cũng không mong đợi và tìm cầu nên chư Phật phải gióng lên tiếng nói, cho lời khuyến dụ, khai mở, chỉ cho thấy và giúp cho đạt được cái giá trị cao quí hơn những gì đã có. Đó là bản tánh thanh tịnh sẳn có nơi chúng sanh, gọi đó là Phật Tánh và tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, như chư Phật không khác.
Phẩm thứ 20, Thường Bất Khinh Bồ Tát chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ làm một chuyện là chắp tay vái Tứ Chúng và khen ngợi : « Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài sẽ thành Phật. » Tứ Chúng là Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ là những vị đều đang tu tập theo Tứ Thánh Đế, theo Thập Nhị Nhân Duyên, theo con đường Bát Chánh có đầy đủ Giới Định Tuệ để hướng tới Niết Bàn, trình độ tuy khác nhau song dưới mắt Bồ Tát Thường Bất Khinh thì không có chút ngăn ngại, sự tu tập ấy không phải đáng xem thường, các vị ấy đều là những vị Phật sẽ thành, chỉ là chưa nhận ra điều này thôi. Sự tu tập của các vị này đều đáng kính nể, là những đọan đường cần phải có để tiến tới một nấc thang cao hơn nữa.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi thế nào là một vị Phật, Phật Tánh là tánh ra làm sao và tu theo pháp môn gì để thành Phật ?
Qua phần Phật Bảo nơi bài học về Kinh Châu Báu chúng ta đã học định nghĩa chữ Phật là tỉnh thức, giác ngộ. Đức Phật là bậc đã giác ngộ ra Chân Lý và tuyên nói Chân Lý đó cho chúng sanh được hiểu cùng với sự chỉ dạy con đường tu tập để đi đến Giác Ngộ Giải Thoát, chứng nhập Niết Bàn tịch diệt. Chân Lý đó là gì ? Là Duyên Sinh Vô Ngã. Một thực tại vắng bặt cái Tôi độc lập và thường hằng bất diệt mà chỉ do nhân duyên sanh, nhân duyên diệt. Niết Bàn thì vắng lặng, không có Ngã, không đeo níu, bám víu, chạy theo tiếng gọi của Ngã, để rơi vào cạm bẫy của Chấp Thủ, Hữu Ngã, và Ngã Kiến. Đạt Niết bàn thì cũng đạt được cái gọi là Vô Sanh. Không lấy cái Sắc thân Ngũ Uẩn làm Ta nữa, cũng không bám vào một chút Danh vi tế của tâm thức, thì sẽ không còn bị tái sanh luân hồi nữa. Con đường tu tập được dạy rõ nơi Đạo Đế hay Bát Chánh Đạo và cũng là Giới Định Tuệ.
Bậc Giác Ngộ còn được xưng là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, Samyaksambodhi., cao quí hơn các vị Độc Giác hay A La Hán và có Mười hiệu Mười Lực, Bốn Vô Sở Uý, Bốn Vô Ngại Trí, Mười Tám Pháp Bất Cộng, Đại Từ - Đại Bi...Xin tham khảo ở đây
https://quangduc.com/a74345/hoc-hieu-va-hanh-kinh-chau-bau-tiep-theo-2-
Quán Vô Lượng Thọ kinh (觀無量壽經, Amitāyurdhyāna Sūtra) là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông. Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A-Di-Đà và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ của A-Di-Đà.
Kinh này chỉ rõ quá trình phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông và thật ra đã được đức Phật lịch sử Thích-ca trình bày. Tương truyền rằng, hoàng hậu Vi-Đề-Hi, mẹ của vua A-Xà-Thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là vua Tần-Bà-Sa-La (sa., pi. bimbisāra). Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực lạc của A-Di-Đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tùy theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ.
Chúng ta thấy rõ qua các tài liệu trên thì Đức Phật đã dùng thần thông, biến hóa lên trời Đao Lợi để thuyết pháp cho thân mẫu và hiện ra trước mặt bà Vi Đề Hi để giúp cho bà thấy cảnh giới Cực Lạc mà bớt khổ và phát nguyện tái sinh vào cõi đó.
Nhắc lại, khi Đức Phật thành đạo, ngài đã chứng đủ Tam Minh và Lục Thông thì việc biến hóa thân hình, hiện chỗ này, chỗ kia là có thật. Các vị A La Hán cũng đạt được Lục Thông và tôn giả Mục Kiền Liên được xem là Đệ Nhất Thần Thông.