CÕI DƯƠNG THẾ BAO LA SẦU
Đặng Công Hanh
Hầu hết các tôn giáo đều cho rằng có một đấng tối cao hay Thượng đế bằng các danh xưng: Chúa Trời, Thánh Allah, Brahma, v.v… đã sáng tạo nên vũ trụ và các loài, trong đó có loài người. Trong khi Phật giáo nói: “Tất cả các pháp đều vô ngã.” Vô ngã là giáo lý độc đáo của Phật giáo, chưa từng có trong hệ thống tư tưởng của nhân loại. Vì vậy người đời xem Đức Phật là một Đạo sư vô ngã. Giáo lý của Phật phủ nhận thực thể của “cái ta” trong sinh hoạt tâm linh, thậm chí còn lên án cái ta (tôi) bởi vì đạo Phật còn nhìn thấy nó là nguồn gốc của thói ích kỷ, thói bám chấp vào cái gì mà cái ta sở hữu, nguồn gốc của đố kỵ và của tranh chấp. Từ những xung đột giữa các cá thể tới những cuộc chiến hủy diệt giữa các dân tộc, giữa các bộ tộc, các phe đảng đều bắt nguồn từ ảo giác “cái ta”, cái cảm giác cho “cái ta” là người riêng biệt, đặc thù. Nền văn minh của chúng ta đang dựa vào ý niệm “cái ta” và chủ nghĩa cá nhân đang xô đẩy con người về hướng tìm hạnh phúc cho “cái ta” chật hẹp này.
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta. Chúng sinh trôi nổi trong sinh tử luân hồi cũng vì “cái ta”. Bởi vì nếu không có cái ta thì ai sinh, ai lão, ai bệnh, ai tử, v.v..?
Trong đời sống thường nhật, ai cũng muốn được sung sướng, được hạnh phúc trước nhất cho riêng mình (cho cái ta) và đôi khi quên cái hạnh phúc của người khác, mới dẫn đến tính ích kỷ, tranh chấp, giành giựt, tham ô, nhũng nhiễu. Khi cái ta được thỏa mãn thì vui vẻ, khi không được thì u sầu, tức giận, thù ghét, bạo lực.
Ta là ai? Ta là gì?
Những câu hỏi này gần như những công án nền tảng, quan trọng đối với con người và chúng ta chỉ trả lời từ chính đời sống của chúng ta mà thôi.
Có thể trả lời ngắn gọn, đơn giản và rất gần với thực tại: “cái ta” là con người, con người gồm có hai phần thân và tâm. Thân là phần vật chất có hình tướng và tâm là phần phi vật chất biểu hiện các khả năng: hiểu biết, suy nghĩ, tưởng nhớ, tính toán, lo âu, yêu thương, ghét bỏ và có vai trò điều khiển thân thể đi, đứng, hoạt động, v.v… Trong đạo Phật gọi chung thân tâm là ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Đây là một đề tài muôn thuở trong đạo Phật bởi vì giáo lý của Ngài dựa trên tuệ giác gọi là vô ngã. Đức Phật đã dạy cho thầy La Hầu La: Thân này không phải là ta, không phải là của ta, cũng không phải ở trong ta mà ta cũng không phải đang ở trong thân (theo Thầy Nhất Hạnh). Trong khi người đời nói tới bản thân (cái ta) như là một cái ngã và có nhiều quan điểm về ngã:
+ Cho rằng năm uẩn là ta (là ngã)
+ Cho rằng năm uẩn không phải là ta mà là vật sở hữu của ta.
+ Cho rằng năm uẩn này không phải là ta nhưng ta có trong năm uẩn đó và năm uẩn này có trong ta.
Rất khó suy tư nếu cho là không có ta. Trong các kinh sách của đạo Phật cũng không tránh khỏi sự mâu thuẫn trong ngôn ngữ khi nói: ta trôi lăn trong sinh tử luân hồi vì chấp năm uẩn là ta – Vì vô minh nên chấp danh sắc là ta, v.v.. Nếu nói rằng vô ngã (không có cái ta) thì sự trôi lăn trong sinh tử luân hồi là ai? Chấp ngũ uẩn là ai? Vì thế cho nên đã sinh ra một quan niệm rất vi tế về cái ta. Trường phái Trung Quán tách ra hai cái ta:
– Cái ta bẩm sinh, bản năng (còn gọi là cái ta tương đối).
– Cái ta khái niệm huân tập theo thói quen và được con người gắn cho nhiều tính chất mà mỗi người tự cho đó là cốt lõi của mình, độc lập và trường tồn (gọi khác là cái ta tuyệt đối).
Cái ta bẩm sinh, bản năng, tương đối là một danh từ giả lập để chỉ cái thân năm uẩn; nó có tính quy ước trong việc xưng hô và chỉ định sự khác biệt giữa từng cá nhân trong xã hội. Chẳng hạn khi đi làm thì nói “Tôi đi làm” – cái tôi (ta) này thuộc loại giả lập vì thực tế có cái thân này đi chứ không phải cái thân người khác đi.
Cái ta khái niệm chỉ là một ảo tưởng, một lầm chấp, chúng sinh vô minh nên lầm tưởng là cái ta tuyệt đối, thật có. Từ khi chào đời cho đến lúc ra đi, thân thể của con người phải chịu đựng bao thay đổi liên tục và tâm thức là một sân khấu của vô số những trải nghiệm về nhận thức và về tình cảm. Đau xót hơn là con người vẫn lầm chấp gán cho cái ta đó những tính chất thường hằng, đặc thù và tự chủ.
Theo Trung Quán, giáo lý vô ngã phủ định cái ta khái niệm, cái ta tuyệt đối này. Vì vậy đức Phật giảng pháp môn vô ngã có mục đích giúp chúng sinh phá trừ cái gốc rễ chấp ngã (cái ta) hầu giải thoát khỏi luân hồi. Chúng ta suy ngẫm được rằng mọi kinh nghiệm sống chính là nội dung của dòng chảy tâm thức, của dòng ý thức liên tục và chúng ta đã lầm gắn nhãn hiệu “cái ta” vào dòng chảy tâm thức, đồng hóa luôn với “cái ta” đó: nhà cửa, xe cộ này “của tôi”, tư tưởng “của tôi”, buồn vui “của tôi”, v.v.. dẫn dắt đến lòng ham muốn chiếm hữu và từ đó kết tinh những khái niệm về mình, về người trong dòng tâm thức của chúng ta.
Chúng ta quan sát và nhìn nhận thế giới qua một màn sương vọng tưởng của mình nên liên tục bất đồng với bản chất chân thực của hiện hữu và đưa đẩy ta đến khổ đau sầu muộn. Một cách hiểu thông thường, sự khổ đau xảy ra trên hai phương diện: thể chất và tinh thần (thân và tâm): bệnh tật, đói rét cũng là khổ, những điều bất toại, trái ý, không hợp lòng cũng là khổ và những biến dịch âm thầm trong thế giới vô thường, tất cả đều sẽ trôi đi theo lớp sóng phế hưng cũng là khổ.
“Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
(Bà Huyện Thanh Quan)
“Đời hưng vong bao thành quách lâu đài
Tự thiên cổ đứng buồn soi đáy nước”
(Đinh Hùng)
Sự cảm nhận
+ Bạn đang ngắm một bức tượng pha lê tuyệt mỹ tại một cửa hàng lưu niệm, bỗng người bán hàng sơ ý làm rơi xuống đất, tượng pha lê đó vỡ toang. Bạn có hơi tiếc nuối một đôi chút và ra đi – Trái lại nếu giả sử bạn mua tượng đó về nhà để trên tủ và nó bị rơi vỡ, bạn sẽ thốt lên: tượng “của tôi” đã vỡ, sau đó là nỗi buồn. Sự khác nhau giữa 2 trạng thái của bạn là bạn đã gắn “cái tôi” vào bức tượng.
+ Một ví dụ khác, giả sử có ai đó đã đánh một tát vào má của bạn thì cơn đau đớn chóng hết nhưng điều duy nhất khiến bạn đau khổ chính là “cái ta” bị xúc phạm và bị tổn thương.
Trong cách thế giáo dục đối với một con người từ lúc còn thơ ấu cho đến khi cắp sách đến trường, gia đình và kể cả nhà trường đã bắt đầu xem cá thể như một nhân cách, nhân cách này đã được củng cố và ổn định dọc theo thời gian trên nền tảng là tin rằng có tồn tại một “cái ta”. Có thể khẳng định rằng niềm tin vào một “cái ta” được xác lập là một trong những nét nổi trội của nền văn minh.
Và chính niềm tin đó đã kết tinh dần dần trong con người những thuộc tính mong manh phù du như quyền lực, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, sự thành công, v.v.. Tất cả các thứ đó lại trở thành các yếu tố làm nên bản sắc của ta, của người khác và chính các yếu tố đó khi bất toại, thay đổi, không thuận lợi, không phù hợp với cái ta thì ta trở nên đau khổ.
Chúng ta có thể tìm thấy sự thật này rất phổ biến trong văn học (thi ca và âm nhạc). Nhà thơ nổi tiếng Chế Lan Viên đã có lần tâm sự “ta là ai” và sau đó ông đã thừa nhận như là “ngọn gió siêu hình”. Đối với họ niềm tin xác định cái tôi (cái ta) là hết sức quan trọng trong việc sáng tạo và cho rằng cái tôi trữ tình trong thơ là tiền đề cho sự độc đáo và sự suy ngẫm đến hạnh phúc, bất hạnh, đau khổ, được thua, thất bại, mất còn đã làm cho tác phẩm (đứa con tinh thần) thật hơn, lắng đọng hơn, giàu suy tưởng hơn và vì vậy mang nhiều ý nghĩa triết lý nhân sinh hơn. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trầm tư sâu sắc trong dấu chấm hỏi.
“Ta là ai, là ai mà trần gian thế
Ta là ai, là ai mà yêu quá đời này”
Cái ta trong ông hiện thân của sự âm thầm lê từng bước chân hành hương về nơi “chốn cô liêu” hay giam mình trên “căn gác đìu hiu”, đối diện với “tường trắng lặng căm”, trong nỗi đời riêng.
“Một mình tôi đi
Đời như vô tận
Một mình tôi về
Một mình tôi về với tôi”
Các bậc danh sĩ, vai cha ông của chúng ta sống trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử, dù đang ở chốn quan trường hay rũ áo từ quan, vẫn cùng ru một “điệu buồn” trong “vũ trụ chật hẹp” của “cái ta”.
“Mặc ai tỉnh, mặc ai say
Chí ta ta biết, lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp, ơ hờ thỉ
Hà tất cùng sầu với cỏ cây”
(Nguyễn Bá Trác)
Hoặc như:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
(Nguyễn Công Trứ)
Nhà thơ Trần Nhuận Minh cũng không giấu được trong lòng cái hiện hữu mong manh:
“Hư ảo hỡi, giữa vô cùng còn mất
Ta là ai? Thăm thẳm có ta không?”
Nhà thơ Thu Bồn đau xót hơn, trầm lặng hơn trong “cái tôi” ẩn hiện khi giả từ hoàng hôn của một vùng trời kỷ niệm.
“Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia…”
Tìm đâu thấy cái ta?
Khuynh hướng phổ biến con người tưởng rằng có một chủ thể (cái ta) ở trong não bộ nắm quyền và ra lệnh, điều hành mọi hoạt động của con người, nghĩa là có một trung tâm chỉ huy ở trong đầu. Cái ta này ở trong não bộ nhìn thế giới bên ngoài thông qua 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) con mắt để nhìn, lắng nghe bằng tai và tiếp nhận các biến cố thế giới bên ngoài và tự xây dựng mô phỏng hình ảnh của thế giới đó cho mình.
Ngày nay với sự phát triển của ngành khoa học thần kinh não bộ (neuroscience), người ta đã nghiên cứu não bộ và cho biết: não bộ gồm nhiều phần khác nhau, mỗi phần có một chức năng riêng và nếu các phần này không liên kết hợp tác, không thông tin nhau thì ý thức không thể phát sinh được. Vì vậy ý thức không phải là một cái gì có sẵn bên trong bộ não, mà nó là sự truyền thông giữa các tế bào não với nhau.
Trong Duy Thức học, đức Phật dạy cho các đệ tử của ngài rằng: thức cũng như sắc, thọ, tưởng và hành chỉ là 1 trong 5 uẩn mà thôi. Không có uẩn nào quyết định, tự mình biểu hiện mà phải dựa trên các uẩn khác.
Thức không thể từ đâu đến mà cũng không đi về đâu cả. Trong các bộ sách Duy Thức học có liệt kê 51 tâm sở trong đó có 4 tâm sở bất tịnh: hối, miên, tầm, tư: hối là hối hận; miên là buồn ngủ, dật dờ; tầm là nghĩ và tư là đi sâu vào suy nghĩ. Tất cả 51 tâm sở nằm trong tàng thức ở dạng hạt giống. Mỗi khi một hạt giống có điều kiện vun tưới thì nó sẽ biểu hiện trên ý thức lúc đó, được gọi là “tâm hành”. Vì vậy khi ở dạng hạt giống thì ta không thấy nó ở đâu nhưng không phải là không có mặt, không có mặt là vì chưa biểu hiện. Ta có thể lấy ví dụ như trong cuộc sống hiện tại có những quan chức tham ô vơ vét tài sản của nhân dân đó là tâm hành biểu hiện của “hạt giống tham”, bên cạnh cũng có những người liêm khiết bởi vì hạt giống tham đã được tu tập giảm trừ hoặc chưa có điều kiện vun tưới. Tâm hành gồm có 2 phần: kiến phần (chủ thể) và tướng phần (đối tượng) nên “tâm hành tham” có chủ thể “tham” và đối tượng “tham”.
Tất cả 51 tâm sở đều hoạt động theo cách thức như vậy và khi biểu hiện trên tâm thức thì nó trở thành “tâm hành” nhưng khi nhìn vào “tâm hành” thì nó có cả kiến phần và tướng phần và tuyệt đối không thấy “cái ta” (cái ngã) nào cả.
Quan niệm của Phật giáo “cái ngã” là một thuật ngữ chỉ ra một dòng liên tục trong thời gian giúp ta kết nối chính mình từ quá khứ và phóng chiếu liên quan đến tương lai. Chúng ta đã lầm lẫn xem “cái ngã” chính là hiện thân con người như một tổng thể vô hình không thể tiếp xúc được nhưng luôn luôn có mặt và biểu hiện được qua các đặc tính của chúng ta từ thuở ấu thơ cho đến lúc lìa đời. Cũng trong cách thức trải nghiệm này mà nhà Triết học Descartes khẳng định “tôi tư duy nên tôi tồn tại” (je pense, donc je suis). Với cách nhìn của Duy Thức học thì khi nói về tư duy thì có tư duy (tầm – tư) mà không cần có chủ thể của tư duy hay nói cách khác: nhận ra hay suy nghĩ về một điều gì đó không đủ để điều đó tồn tại và không chứng tỏ được rằng có một con người đang suy nghĩ, tức là không tồn tại “cái tôi” bởi vì “cái tôi” chỉ là một nội dung hiện hữu một dòng tâm thức đang vận hành liên tục. “Cái tôi” chỉ còn là ý niệm mà thôi.
Chọn con đường nào?
Trong đoạn kết thúc kinh Kim Cương, Phật đã dạy:
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán”
Các luận sư Phật học giảng giải bốn câu kinh như sau: Ở đây Phật muốn nói rằng những gì chúng ta thấy không phải là tự thân của sự vật, tưởng rằng mình đã nắm được thực tại, kỳ thực mình đang nắm những hình bóng huyễn mộng của nó. Phải quán chiếu sâu sắc như thế để thoát khỏi ảo giác về thực tại, Phật cũng là con người nhưng với tuệ giác siêu phàm đã thấy được các hiện hữu như mộng, huyễn, bào, ảnh. Đức Phật vẫn sống, vẫn ăn và uống nước như chúng ta, nhưng Phật sống với tinh thần vô chấp và vô tướng. Còn chúng ta thì không như thế.
Vạn vật tồn tại không phải như ta tưởng, cũng không phải là không tồn tại, “cái tôi” cũng như tất cả các hiện tượng có vẻ như tồn tại nhưng thực ra chỉ là ảo ảnh. Thái độ bám chấp vào cái ngã (cái ta) là đi liền với khổ đau cho mình và cho cả người khác. Buông xả định kiến về hình ảnh riêng tư không cho “cái ta” là quan trọng sẽ giúp chúng ta tạo dựng một không gian nội tâm tự do và rộng rãi như Thánh Gandhi đã sống và đã nói: “Tôi tự giảm trừ bản thân cho tới mức số không” (je me réduis à zéro). Có lẽ như thế và chỉ như thế mới giảm trừ được nỗi ám ảnh của một “dương thế bao la sầu” như nhạc sĩ Đặng Thế Phong đã ngậm ngùi trong các tác phẩm: Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, trong khi tuổi đời của ông còn rất trẻ.