ĐÁNH THỨC TRÁI TIM TÔI
Andrea Miller [A]
Chân Minh Văn dịch
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh. Trên con đường tâm linh, chúng ta thức tỉnh cả trí tuệ của tâm hồn rộng mở và lòng từ bi của một trái tim rộng mở. Cuối cùng, chúng ta mong muốn mở rộng trái tim mình với tất cả chúng sinh, nhưng trước tiên chúng ta phải cởi mở với những sự thật về cuộc sống của chính chúng ta và cuộc sống của những người thân thiết nhất với chúng ta. Khi đó chúng ta và họ, thông qua chúng ta, có thể chữa lành. Đây là cuộc hành trình mà Andrea Miller đã thực hiện trong một khóa tu với vị thầy Phật giáo vĩ đại Thích Nhất Hạnh.
Phòng tập thể dục Tưởng niệm Chiến tranh (The War Memorial Gym) là một biển người với hơn tám trăm người nằm trên sàn. Cuối cùng khi tìm thấy một khoảng sàn trống, tôi trải tấm thảm tập yoga của mình ra. Sau đó tôi nằm xuống trên đó, đắp chiếc chăn màu vàng phong trần mà tôi mang từ phòng ký túc xá về đây.
Đây là buổi tối trong ngày đầu tiên của khóa tu Tỉnh Thức Tâm (Awakening the Heart Retreat) của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, được tổ chức tại Đại học British Columbia thành phố Vancouver, Canada. Theo lịch trình, chúng tôi sẽ thực hành thư giãn hoàn toàn và chạm đất (địa xúc). Tôi không biết chạm vào trái đất là gì, nhưng tôi không nghĩ nhiều về nó. Tâm trí tôi đã bám vào hứa hẹn thú vị về sự thư giãn hoàn toàn. Và nó thật dễ chịu. Sư cô Chân Không, người đã làm việc gần gũi với Thích Nhất Hạnh hơn năm mươi năm, bảo đảm với chúng tôi rằng nếu muốn ngủ thì không cần phải chống cự. Thay vào đó, chúng tôi có thể tận hưởng cảm giác trôi đi và sau đó thức dậy sảng khoái. Cô ấy hướng dẫn chúng tôi thở, thư giãn và chú ý đến những điều kỳ diệu của cơ thể chúng ta—sự làm việc chăm chỉ của trái tim, gan, ruột của chúng ta. Sau đó cô ấy bắt đầu hát một bài hát nhẹ nhàng.
Khi tiếng chuông cuối cùng vang lên và sư cô Chân Không bắt đầu hướng dẫn thực tập chạm đất, tôi cảm thấy vô cùng thư giãn. Cô giải thích rằng tất cả chúng ta đều có ba nguồn gốc: tổ tiên huyết thống (hoặc di truyền), tổ tiên môi trường (hoặc đất đai), và tổ tiên tâm linh. Chúng là nguồn sức mạnh và lòng tốt của chúng ta, nhưng chúng cũng gieo mầm mống cho nỗi đau và những dạng thức tiêu cực của chúng ta. Chúng ta sẽ tập trung vào những hạt giống tốt trong mỗi gốc rễ của chúng ta, sau đó chúng ta sẽ thừa nhận những hạt giống tiêu cực. Sau đó, chúng ta sẽ chạm vào trái đất bằng cách chạm trán vào sàn nhà, và chúng ta sẽ để sự tiêu cực này ra đi - hãy để nó đi vào trái đất. Cô Chân Không cũng giải thích rằng cô sẽ nói về những tình huống khác nhau và có thể không phải tất cả đều áp dụng cho chúng ta, nhưng chúng ta có thể dùng những gì cô nói làm điểm xuất phát để suy nghĩ về cuộc sống của chính mình.
Chúng ta bắt đầu từ tổ tiên huyết thống của mình—đầu tiên là mẹ của chúng ta. Mối quan hệ của tôi với mẹ tôi đặc biệt không phức tạp; bà ấy là một người bạn thực sự và đã ủng hộ tôi suốt cuộc đời. Vì thế tôi không đồng cảm khi sư cô Chân Không nói về những thử thách khi có một người mẹ hay chỉ trích, phàn nàn. Nhưng khi cô ấy bảo chúng tôi hãy tưởng tượng về mẹ mình khi bà còn trẻ và nghĩ về sự tổn thương cũng như nỗi đau của bà, tôi liền bật khóc. Giống như cô Chân Không đã nhấn một cái nút mà tôi không biết là mình đã nhấn. Tôi đang hình dung mẹ tôi năm mười bốn tuổi, khi bà mất em trai trong một vụ tai nạn. Bà đã rửa máu của cậu ấy nơi hiên nhà, bà đã nói với tôi một lần, và bà cảm thấy như đang đùa cậu ấy xuống cống.
Trên bức tường đối diện với tôi, treo bảng niêm yết của phòng tập, hai bên là hình đầu cách điệu của hai con chim sấm. Tôi nhắm mắt lại và để nước mắt rơi xuống lớp bọt màu hồng của tấm thảm tập yoga.
Rồi Sư Cô Chân Không bảo chúng tôi hãy nghĩ đến cha.
Trong một bữa ăn sáng năm tôi 11 tuổi, tôi hỏi cha tôi có tin vào ma quỷ không. “Hãy xem bình cà phê này,” ông nói, giơ nó ra ánh sáng buổi sáng. “Tôi tin vào bình cà phê này vì tôi có thể nhìn thấy nó. Tôi không tin vào những gì tôi không thể nhìn thấy.”
Tôi cắn một góc bánh mì nướng có mứt. “Vậy cha nghĩ rằng khi chúng ta chết thì chỉ thế thôi à?”
“Không hề,” ông nói. “Chúng ta sống qua con cái của mình.”
Tôi nheo mắt nhìn cha tôi, vẫn đang mặc áo choàng tắm, và quyết định rằng việc sống tiếp nhờ các con của chúng ta chỉ là một cách nói hoa mỹ rằng khi bạn chết, bạn đã chết. Đây là một niềm tin đơn giản mà tôi không thể chia sẻ, bởi vì tôi tin vào hầu hết mọi thứ khác - thiên đường và Chúa, sự tái sinh và mặt phẳng thiên văn (cõi trung giới), ma quỷ, chiêm tinh và sức mạnh tâm linh. Với nhiều tầng lớp bí ẩn, thế giới mười một tuổi của tôi vừa ly kỳ vừa đáng sợ. Tầng gác mái có nhiều bí ẩn quá; Tôi ngủ với chăn trùm kín đầu; Tôi đã đi xem bói. Dù là xem chỉ tay, xem lá trà hay xem bài tarot, những người phụ nữ trung niên phù thủy đi dép lê đã dự đoán những điều tuyệt vời cho tôi. Điều họ không bao giờ dự đoán được là sự nghi ngờ. Tuy nhiên, sau khi tôi quá mười một tuổi—sau nhiều năm trôi qua—niềm tin của tôi ngày càng giống cha tôi hơn. Thực dụng. Dựa trên bằng chứng. Tôi là con gái của cha tôi mà.
“Bạn không thể lấy cha mình ra khỏi mình; bạn không thể lấy mẹ của bạn ra khỏi bạn,” Thầy Thích Nhất Hạnh nói trong buổi pháp thoại tại Phòng tập Tưởng niệm Chiến tranh. “Bạn là sự tiếp nối của cha bạn; bạn là sự tiếp nối của mẹ bạn. Thực ra, cha bạn vừa ở trong vừa ở ngoài. Người cha bên trong trẻ hơn, và bạn mang người cha bên trong đến tương lai ”.
Thích Nhất Hạnh (được gọi trìu mến là Thầy) bước lên sân khấu cùng với những chậu lan. Đây, phần đầu tiên trong bài nói chuyện của ông, dành riêng cho những đứa trẻ đang tham gia khóa tu và chúng đang ngồi trên sàn ngay trước sân khấu. Tôi cũng ở trên sàn, nhưng ở xa hơn, phía sau tôi có nhiều người ngồi trên ghế. Thầy nói: “Hãy mang một hạt ngô về nhà trồng vào chậu nhỏ và nhớ tưới nước hàng ngày.“ Sau đó, khi hạt ngô đã trở thành một cây ngô non có hai hoặc ba lá, hãy hỏi cây câu hỏi này: Cây ngô thân yêu của tôi, bạn có nhớ ngày xưa mình còn là một hạt giống nhỏ bé không?”
Thầy mỉm cười thật tươi khi hướng dẫn các em những điều này, và điều này khiến tất cả những người khác cũng mỉm cười—cả trẻ em lẫn người lớn. Ông nói: “Nếu bạn lắng nghe thật kỹ, bạn có thể nghe thấy câu trả lời. “Cây ngô non sẽ nói những điều như: 'Tôi? Một hạt giống nhỏ à? Tôi không tin điều đó!'” Một Thiền sư mặc áo choàng nâu nói đùa một cách ngây thơ—điều này khiến mọi người cười khúc khích.
Thầy nói: “Cây ngô non mới ở đó được hai tuần nhưng nó đã quên mất mình là một hạt giống, một hạt ngô rất nhỏ nên bạn phải giúp cây ghi nhớ. Hãy nói với nó thế này: 'Cây ngô nhỏ thân yêu của tôi, chính tôi đã trồng hạt ngô vào chậu này và tôi đã tưới nước cho nó hàng ngày. Bạn đến từ hạt giống đó. Có thể lúc đầu cây không tin bạn, nhưng hãy kiên nhẫn và nó sẽ chấp nhận rằng nó đã từng là hạt giống.”
Tôi đã quen thuộc với lời dạy hạt ngô của Thích Nhất Hạnh—Tôi đã đọc nó trong sách của ông—nhưng bây giờ nó nghe có vẻ mới mẻ. Ông ấy đang truyền đạt nó như thể trước đây ông ấy chưa bao giờ truyền đạt nó và tôi đang nghe thấy điều đó. Thầy nói rằng người hành thiền có thể nhìn thấy hạt ngô khi nhìn vào cái cây - thiền cho phép họ làm được điều này. Vì vậy, có lẽ chính khóa tu này, với các phương pháp thiền định và chánh niệm, đã cho phép tôi nhìn thấy nhiều tầng lớp hơn và sống khác đi. Rất nhiều điều nhỏ nhặt cảm thấy khác biệt kể từ khi khóa tu bắt đầu. Chẳng hạn như đêm qua, khi tôi trở về ký túc xá của mình, tôi đã mở gói bánh hạnh nhân sô cô la bơ đậu phộng thuần chay mà tôi đã quá no để ăn vào bữa trưa. Tôi ngồi trên giường và vừa ăn, vừa tập trung vào lớp kem phủ mềm mại, ngọt ngào, vị bùi bùi của hạt dẻ. Trở lại thế giới ngoài khóa tu, tôi không bao giờ chỉ ăn; Tôi đang quá vội vàng cho việc đó. Tôi vừa đọc vừa nói chuyện hoặc dọn dẹp nhà bếp. Cuộc sống chậm lại này cảm thấy tốt hơn rất nhiều. Nó cũng ngon hơn. “Hạt ngô chưa chết,” Thầy nói tiếp. “Bạn không còn nhìn thấy hạt ngô nữa, nhưng bạn biết rằng nó chưa chết. Nếu nó chết đi thì sẽ không có cây ngô. Bạn không thể lấy hạt ngô ra khỏi cây ngô.”
Thầy nói với chúng tôi: “Chúng ta là sự tiếp nối của cha mẹ, giống như cây ngô là sự tiếp nối của hạt ngô”. “Lúc đầu, mỗi người chúng ta còn nhỏ hơn cả hạt ngô rất nhiều. Nhưng chúng ta không nhớ, nên chúng ta cần một người bạn đạo nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã từng là hạt giống rất nhỏ này trong bụng mẹ - một nửa hạt giống từ cha và nửa còn lại từ mẹ. Cha của bạn ở trong mọi tế bào của cơ thể bạn; mẹ bạn ở trong mọi tế bào của cơ thể bạn. Vì vậy, khi cha bạn chết, ông ấy không thực sự chết. Ông ấy sống trong bạn và bạn đưa ông ấy vào tương lai.”
Tháng 10 năm 2008, tôi vừa ngủ quên ở nhà bà nội thì cô Peggy lay tôi dậy. “Không,” tôi nói, ngồi thẳng dậy. “Dậy mau,” cô nói. "Nhanh lên." Tôi đã mặc quần áo sẵn nên tôi tung chăn ra và chạy xuống cầu thang tối tăm theo cô ấy. Nhưng tôi không hiểu: Nếu có việc gì thì tại sao lại vội vàng như vậy? Chưa kết thúc sao? Chẳng phải cái chết trông giống như đang chìm vào giấc ngủ sao? Tôi tưởng tượng sự chuyển tiếp giống như một con diều biến mất trên bầu trời. Con diều sẽ bay cao hơn nữa - sâu hơn nữa vào những giấc mơ - rồi sợi dây buộc nó với trái đất sẽ bung ra, tất cả những màu sắc của con diều đều yên bình nuốt chửng trong màu xanh lơ.
Nhưng không có cánh diều nào, không có bầu trời rộng mở—trong phòng xem TV đã trở thành nhà tế bần, cha tôi đang thở hổn hển, cố gắng tìm không khí cho cơ thể sưng tấy vì ung thư của ông. Có năm người phụ nữ tụ tập xung quanh giường bệnh của ông - tôi, hai cô tôi, bà tôi và người vợ thứ ba của cha tôi - và mỗi người chúng tôi đều hét lên những tin nhắn vào phút cuối cho ông ấy. “Buông ra, Stephen,” cô Valerie của tôi thúc giục, khiến nó nghe giống như “rặn đi” (push) trong phòng sinh. “Không có gì phải lo lắng ở đây cả.” Những tiếng thở hổn hển ngày càng xa hơn và đôi mắt ông đờ đẫn. Cô Peggy kiểm tra mạch của ông. “Anh ấy đi rồi,” cô nói.
Trời vẫn chưa sáng; chúng tôi có nhiều giờ trước khi nhân viên nhà tang lễ mang theo chiếc túi màu đen đến. Vì vậy, tôi vẫn ngồi trên giường bệnh - giữa bức tường và cha tôi đang dần lạnh đi. Tôi muốn khóc nhưng phải kìm lại vì không muốn làm cho bà tôi và những người khác thêm đau đớn. Bà tôi, tôi khá chắc chắn, cũng muốn khóc nhưng đã kìm lại vì tôi và những người khác. Có lẽ đây là cách gia đình luôn hỗ trợ lẫn nhau; các cá nhân gắn bó với nhau vì lợi ích của tất cả mọi người. Tôi thủ thỉ nói chuyện với anh chị em họ, cô dì chú bác.
“Nhân viên nhà quàn sẽ đến đây trong nửa giờ nữa,” cô Peggy cuối cùng cũng nói, và tim tôi thắt lại. Tôi có thể khóc nức nở sau này, một mình. Điều duy nhất có thể xảy ra bây giờ là chen mình vào vòng tay của cha tôi. Tôi cố gắng kéo khuỷu tay của ông ấy sang một bên, và tôi cảm thấy như bị dội nước đá vào mặt khi nhận ra mình không thể - ông ấy đã cứng đờ. Tôi úp mặt vào giữa cánh tay và ngực ông ấy - khoảng không gian nhỏ bé, cứng nhắc đó vẫn như cũ - và ở đó tôi thở cho cả hai chúng tôi, theo hơi thở.
Đây là khoảnh khắc hiếm hoi trong đời tôi—tôi chỉ có cha tôi cho riêng mình trong nửa giờ.
Thích Nhất Hạnh nói: “Một số người trẻ giận cha mình. “Họ không thể nói chuyện với cha mình. Có sự căm ghét.” Sau đó Thầy kể cho chúng tôi nghe bằng giọng nói nhẹ nhàng về một thanh niên mà Thầy từng biết rất giận cha mình đến mức không muốn dính líu gì đến ông ấy.
Những đứa trẻ, với đôi chân trần nhỏ xíu, vẫn đang ở trong phòng tập thể dục trở thành thiền đường cùng với người lớn, và tôi ngạc nhiên trước sự im lặng và chăm chú của chúng. Ngồi bên một trong những chiếc loa phóng thanh là Alison, bạn cùng phòng tĩnh tâm của tôi, tay đặt trên cái bụng tròn nhỏ nhắn của mình.
Thầy tiếp tục: “Nếu nhìn sâu vào chàng trai, bạn sẽ thấy cha anh ấy hiện diện trọn vẹn trong từng tế bào của cơ thể anh ấy và anh ấy không thể lấy cha ra khỏi mình. Vì vậy, khi bạn giận cha mình, bạn tức giận với chính mình. Hãu hình dung cây ngô nổi giận với hạt ngô.”
Tôi chưa bao giờ giống như chàng trai trẻ mà Thầy kể. Cha tôi và tôi luôn có mối quan hệ tốt, nhưng - mặc dù tôi chưa bao giờ nói với ông điều này - nhưng điều đó đã khơi dậy sự tức giận trong tôi khi ông bị bệnh.
Cha tôi bỏ đi khi tôi lên bốn. Một ngày nọ, tôi và mẹ về nhà và thấy trên bàn bếp có một tờ giấy nhắn. Ngoài ra còn có một chiếc đĩa đựng vỏ bánh sandwich - phần còn thừa của bữa trưa ông đã ăn trước khi lên máy bay tới Calgary, một thành phố xa xôi nơi có một người phụ nữ đang đợi ông. Tôi đã không gặp cha tôi trong hai năm. Sau đó, tôi gặp ông ấy vài tuần vào mỗi mùa hè khi tôi đến thăm ông ấy và gia đình mới của ông. Người bảo mẫu sẽ cho tôi và các anh chị em cùng cha khác mẹ của tôi ăn bữa tối và sau đó tôi sẽ được đưa đi ngủ cùng lúc với họ. Họ nhỏ hơn tôi bảy và chín tuổi, nên giờ đi ngủ thường đến khi trời còn sáng và tôi nhìn chằm chằm lên trần nhà, không ngủ được. Sau này, khi bố và người vợ thứ hai bắt đầu nảy sinh vấn đề, ông đã ngừng mua vé máy bay cho tôi đi Calgary. Thay vào đó, ông ấy đến thăm và chúng tôi chơi trò Trivial Pursuit và ông ấy đưa tôi ra ngoài để tập lái xe. Tuy nhiên, tôi không có cảm giác rằng ông ấy thực sự đến gặp tôi. Ông ở nhà mẹ ông và dành phần lớn thời gian để uống rượu chát và whisky với anh chị em họ hàng của mình.
Khi lớn lên, tôi thừa hưởng tính hoài nghi của cha tôi nhưng không thừa hưởng nền tảng triết lý khác của ông - niềm tin rằng chúng ta tiếp tục thông qua con cái mình. Với khoảng cách quá rộng giữa chúng tôi, tôi không thể coi mình là sự tiếp nối của ông ấy. Tất nhiên, tôi không phủ nhận sinh học; Tôi hiểu rằng 50% thông tin di truyền của tôi đến từ ông ấy. Nhưng cái gì cơ? Di truyền có thể giải thích chiếc cằm chẻ của tôi chứ không phải tôi là ai. Suy cho cùng, cha tôi còn có ba đứa con nữa với người vợ thứ hai và một đứa nữa với người vợ thứ ba, và tất cả chúng tôi đều là dòng dõi lạ đời. Một trong những người em gái cùng cha khác mẹ của tôi giận cha tôi đến mức từ chối liên lạc với ông.
Theo Thầy, nếu chúng ta giận cha mẹ thì chúng ta phải thở vào thở ra để tìm sự hòa giải. Đây là con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc, và nếu chúng ta sống một cuộc sống hạnh phúc, tươi đẹp thì cha mẹ trong chúng ta cũng sẽ đẹp hơn. Thầy nói: “Trong lúc ngồi thiền, tôi thích nói chuyện với cha tôi ở trong tôi. Một ngày nọ tôi nói với ông ấy, 'Bố ơi, chúng con đã thành công.' Sáng hôm đó, khi ngồi thiền, tôi cảm thấy mình thật tự do, thật nhẹ nhàng, không còn ham muốn, thèm muốn gì nữa. Tôi muốn chia sẻ điều đó với bố nên tôi đã nói chuyện với bố ở trong tôi: 'Bố ơi, chúng con được tự do.'” “Tôi cũng nói chuyện với mẹ tôi,” Thầy tiếp tục, “vì tôi biết rằng mẹ tôi chưa thực sự chết— mẹ luôn tiếp tục trong tôi. Khi tôi thực tập thiền hành ở Ấn Độ với một nhóm vài nghìn người trên đại lộ lớn nhất New Delhi, tôi đã mời mẹ tôi đi bộ cùng tôi. Tôi nói: 'Mẹ ơi, chúng ta hãy đi cùng nhau. Hãy sử dụng đôi chân của con, nhưng cũng là của mẹ. Đôi chân của con là sự tiếp nối của đôi chân mẹ.' Vì vậy, hai mẹ con chúng tôi rất thích đi dạo ở New Delhi. Tôi cũng mời bố tôi đi dạo cùng tôi. Sau đó, tôi đã mời anh trai tôi, bà tôi, Đức Phật và thầy tôi. Chuyến đi bộ thật tuyệt vời.” Phòng tập thể dục của trường đại học có ánh sáng xanh – sàn xanh, ghế ngồi xanh trên khán đài, rèm xanh đóng kín để lọc ánh sáng ban mai. Thầy cũng có một nụ cười rạng rỡ - một nụ cười ấm áp. Ông nói: “Khi chúng ta bước một bước vui vẻ, tất cả tổ tiên của chúng ta đều thích thú khi bước đi và thực hiện những bước đi vui vẻ”. “Nếu anh em bước đi trong Nước Thiên Chúa thì tất cả mọi người đều bước đi trong Vương quốc Thiên Chúa. Nếu bạn bước vào Địa ngục—trong tuyệt vọng, giận dữ và căm ghét—tổ tiên của bạn phải tham gia cùng bạn. Chúng ta hãy chọn bước đi trong Nước Trời, trong Tịnh Độ của Đức Phật.”
Tương tức: Đây là thuật ngữ của Thích Nhất Hạnh về nguồn gốc phụ thuộc (duyên sinh), một khái niệm then chốt trong Phật giáo, trong đó nói rằng tất cả các hiện tượng cùng phát sinh trong một mạng lưới nhân quả phụ thuộc lẫn nhau. Trong văn học Phật giáo truyền thống, đây là một học thuyết có thể được coi là triết học và trí tuệ. Tuy nhiên, Thầy Thích Nhất Hạnh có tài trình bày giáo lý Phật giáo bằng những ngôn từ rất nhân văn, rất cá nhân. Tại khóa tu, ông ấy sử dụng hoa lan trên sân khấu để giải thích về sự tương tức. Để tồn tại một bông hoa cần có mặt trời, mây, mưa, đất, khoáng chất và người làm vườn. Nhiều yếu tố không phải hoa kết hợp với nhau để giúp bông hoa biểu hiện, và nếu chúng ta loại bỏ những yếu tố không phải hoa này thì không còn bông hoa nào nữa.
Tương tự như vậy, những cái gọi là đối lập luôn biểu hiện cùng nhau, không thể tách rời. Không có bóng tối mà không có ánh sáng, không có trái mà không có phải, không có trên mà không có dưới, không có cha mẹ mà không có con cái. Thầy giải thích: “Trước khi con trai hay con gái biểu hiện, con không thể gọi cha là cha được”. “Ông ấy sẽ là cha của ai?” Nói cách khác, cha tôi và tôi tương hỗ nhau. Tất cả chúng ta đều tương tức.
Tôi từng tin rằng cha tôi không có lý do gì bào chữa cho hành vi của ông - sự không chung thủy kinh niên, việc ông sẵn sàng bỏ cuộc. Suy cho cùng, cha của ông, Buddy, không như vậy. Có lẽ Buddy chưa bao giờ nghe nói đến Linh mục Theodore M. Hesburgh, chủ tịch lâu năm của Notre Dame. Tuy nhiên, ông đã sống theo câu nói nổi tiếng của Hesburgh: “Điều quan trọng nhất mà một người cha có thể làm cho con mình là yêu thương mẹ của chúng”. Khóa tu “Đánh thức trái tim” đang giúp tôi nhìn sâu hơn vào mọi thứ. Để thấy mưa trong bông hoa hay trên mảnh giấy. Để thấy rằng cha tôi là sản phẩm của nhiều nhân duyên.
Giống như tôi, giống như tất cả chúng tôi, cha tôi cũng bị thương. Tôi không biết nguồn gốc nỗi đau khổ của ông ấy và có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết. Nhưng tôi hiểu nỗi đau. Cha tôi đang cố gắng lấp đầy mình bằng sự bận rộn, đàn bà và rượu chè. Không ai làm điều đó trừ khi họ bị tổn thương.
Nếu Thích Nhất Hạnh nói đúng và quả thật có cha trong tôi thì tôi có thể chữa lành vết thương cho ông. Khi tôi chữa lành vết thương của mình, nó cũng chữa lành vết thương của ông ấy và chữa lành vết thương của thế hệ tương lai. Với sự đau khổ của tôi đã được chuyển hóa, tôi sẽ không chuyển nỗi đau khổ thêm nữa. Chu kỳ dừng lại.
Chạm đất là hoạt động cuối cùng của buổi tối, vì vậy sau đó tôi chìm vào sự im lặng cao quý cùng với những thiền sinh khác và xếp hàng ra khỏi phòng tập thể dục. Đó là một cảm giác đặc biệt khi bước đi mà không nói lời nào với hàng trăm người. Những âm thanh nhỏ có kết cấu mới. Có tiếng bước chân trên nền bê tông cứng, rồi tiếng bước chân trên nền đất mềm hơn, xào xạc trên cỏ. Thầy Thích Nhất Hạnh đã hướng dẫn chúng tôi đi thiền hành theo nhịp bước bình thường. Bằng cách này, chúng ta có thể làm điều đó mọi lúc, mọi nơi. Hít vào, tôi bước ba bước; thở ra, năm. Hít vào. Thở ra. Đồi thông tối sầm phía trên tôi, và một cây đoan lá màu bạc đang rũ nước tỏa hương thơm. Rễ, cành, lá—Tôi cảm nhận được mối liên hệ của mình với những cái cây này, cách chúng lấy hơi thở của tôi và hơi thở của tất cả chúng ta, rồi trả lại cho chúng ta dưới dạng oxy. Tôi cũng cảm thấy được kết nối với các thiền sinh khác, hòa hợp trong việc thực hành, trong việc hít vào và thở ra. Và tôi cảm thấy được kết nối với cha tôi. Tôi mắc nợ ông ấy - nợ kiếp này. Tôi từng tin rằng cha tôi đã bỏ tôi hai lần - một lần để ở với người vợ thứ hai và một lần qua đời. Nhưng ông ấy không hề rời đi. Thầy nói đúng—cha tôi đang đi cùng tôi bây giờ.
Ghi chú của người dịch
[A] Bài dịch từ một chương của Tuyển tập “Những bài viết về Phật giáo hay nhất trong năm 2012” (The Best Buddhist Writing 2012) do Melvin McLeod biên tập.
Tác giả ANDREA MILLER là phó tổng biên tập của tờ Shambhala Sun và là biên tập viên của tuyển tập “Ngay đây với bạn: Đưa nhận thức chánh niệm vào các mối quan hệ của chúng ta’ (Right Here with You: Bringing Mindful Awareness into Our Relationships.)