Thư Viện Hoa Sen

Từ Ngài Huyền Trang Đến Hành Giả Minh Tuệ

04/02/20254:11 SA(Xem: 582)
Từ Ngài Huyền Trang Đến Hành Giả Minh Tuệ
TỪ NGÀI HUYỀN TRANG ĐẾN HÀNH GIẢ MINH TUỆ
Nam Phương Nghiêm Thủy

 

           huyen-trang-phap-suLà những người con Phật đã từng đến viếng thăm những Thánh tích ở đất nước Ấn Độ, nơi còn ghi lại dấu tích của đấng Từ phụ Thích ca Mâu ni cách đây hơn 2500 năm và cũng tại nơi đây người con Phật đã từng rơi lệ cảm xúc động lòng khi nhìn thấy những cảnh động tâm này thì chắc hẳn không thể nào không cảm thông thấu hiểu trước những lời trần tình bi ai thống thiết của Ngài Huyền Trang khi đặt chân đến Bồ đề đạo tràng :

              “Phật tại thế thời ngã trầm luân

               Kim đắc nhân thân Phật nhập diệt

               Áo não thử thân đa nghiệp chướng

               Bất kiến Như Lai kim sắc thân”.

Tạm dịch

               Phật tại thế, con chìm đắm mãi

               Được thân người, Phật lại Niết bàn

               Nghĩ mình nghiệp chướng đa mang

               Nên không thấy được thân vàng Như Lai.

          Lời trần tình thống thiết ấy xuất phát từ tấm lòng thương kính nhiệt thành đối với Đức Phật, cũng như để hiểu rõ tường tận những lời giáo huấn của Ngài mà Huyền trang một nhân vật lỗi lạc vào thế kỷ thứ bảy đã bất chấp những điều cấm đoán của triều đình nhà Đường lúc bấy giờ không cho phép ai được đi ra khỏi đất nước. Vậy mà Ngài Huyền Trang đã quyết tâm trốn thoát để đi về hướng Tây đảnh lễ thánh tích, tìm hiểu thu thập kinh sách từ nơi cội nguồn, từ nơi bắt đầu cho sự hình thành của Đạo Phật.

         Xuyên suốt cuộc đời của Ngài Huyền Trang mới thấy quả thật Ngài là một con người phi thường với một tố chất thông minhcương quyết Ngài đã rời quê hương Trung Hoa vào năm 629 chỉ với một mình cùng con ngựa làm phương tiện di chuyển trong thời kỳ còn sơ khai hoang hóa, mọi thứ hoàn toàn không phải như bây giờ. Không có đường xá mở mang hay thông tin liên lạc, Ngài chỉ biết nhắm về hưóng Tây mà đi tới, phải dấn thân lặn lội đi xuyên qua 128 quốc gia với không biết bao nhiêu là điều hiểm nguy chực chờ trước mặt. Phải trải qua không biết bao nhiêu là gian nan khó nhọc trên những sa mạc khô cằn, những núi non hiểm trở, những mùa đông băng giá tuyết lạnh. Ngài phải mất 2 năm mới đến được Ấn Độ, với những khó khăn cùng cực, có lúc đã làm Ngài nản chí gần như tuyệt vọng muốn quay trở lại, nhưng rồi Ngài nghĩ đến ý nguyện ban đầu “Nếu không đến được Ấn Độ quyết không trở về Đông, thà đi về hướng Tây mà chết, lẽ nào về Đông sống hèn” thế là Ngài quyết chí quay lại tiếp tục cuộc hành trình trong lặng lẽ gian nan.

        Ngài Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh là có thật đã khiến cho Ngô Thừa Ân mượn câu chuyện này để viết ra Tây du ký diễn nghĩa với đủ màu sắc thái làm cho người người mê mẩn, nhưng trên thực tế Ngài Huyền Trang chỉ lặng lẽ một mình mà làm nên việc lớn.

    Ngài ở lại Ấn Độ 13 năm, đến Đại học Nalanda tu học 6 năm và tôn Pháp sư Giới Hiền là Viện trưởng của học viện Nalanda lúc bấy giờ làm thầy. Ngài Huyền Trang đã để lại rất nhiều công trình khảo cứu dịch thuật, trong đó Đại đường Tây vực ký là bộ sách gồm 12 quyển ghi lại đầy đủ lịch sử, địa lý, phong tục tập quán v.v.. của 128 quốc gia mà Ngài đi qua rất đầy đủ chính xác đã giúp ích rất nhiều cho các nhà khảo cổ, mà sau này nhà du khảo phương Tây là Ariel Stein cũng đã sử dụng bộ sách này trong phần nghiên cứu của mình.

       Ngài Huyền Trang được xem như chìa khóa trong việc mang tư tưởng Phật giáo vào tinh thần văn hóa của người Trung Hoa. Ngài cũng là người tiên phong là dịch giả hàng đầu trong giới văn học của Trung Quốc. Trong sách khảo cứu bằng tiếng Pháp đã viết lời ca ngợi Ngài Huyền Trang như là một nhà sư đạo đức, một học già uyên thâm, một nhà du thám kỳ tài, một nhà sử học uyên bác, một nhà địa lý học chơn tài, một nhà ngôn ngữ học xuất chúng và hơn thế nữa là một dịch giả đại tài.

      Thật sự không thể nói hết những việc làm tốt đẹp của Ngài Huyền Trang đã để lại cho đời với những lời tán thán bao nhiêu cũng vẫn không đủ, nhưng bên cạnh đó trên hết vẫn là sự thông minh, dũng cảm, tinh thần vược khó tìm cầu học pháp của ngài mới thật sự là điều đáng tôn kính và ngưỡng mộ. Vào ngày 5 tháng 2 năm 664 Ngài đã gác bút ngàn thu tại chùa Ngọc Hoa  thọ 69 tuổi, để lại vô vàn thương tiếc cho bao người.

       Với tinh thần cầu học pháp mạnh mẽ của Ngài Huyền Trang thì chắc rằng không có ai trước hay sau Ngài có thể so bì được. Tuy nhiên trong câu chuyện của hành giả Minh Tuê hiện nay như một hiện tượng vẫn còn đang tiếp diễn khiến cả thế giới phải quan tâm theo nhiều góc nhìn khác nhau, duy chỉ có đúng ở mỗi một điểm cùng đi về hướng Tây Ấn Độ, nhưng với hành giả Minh Tuệ thì chuyến đi về Tây hoàn toàn khác hẳn về ý nghĩa và cả mục đích.

       Thật sự mà nói hành giả Minh Tuệ đã chọn đường lối tu tập khó khăn là thực hành 13 pháp đầu đà khiến cho người đời thán phục là lẽ đương nhiên vì khó có ai kham nỗi. Nhưng thực chất đó cũng chỉ là một phương pháp tu như 84 ngàn pháp môn khác nhau mà Đức Phật đã dạy. Đức Phật không khuyến khích thực hành khổ hạnh cũng không chối bỏ hạnh đầu đà vì vậy đã có ngài Ma ha Ca Diếp đệ tử Phật thực hành triệt để được gọi là vị đệ nhất đầu đà trong giáo đoàn của Đức Phật.

        Hạnh đầu đà là hạnh buông xả những thứ mà ai có thể buông xả được sẽ dễ dàng đi vào các tầng thiền định trong tu tập mà không bị vướng mắc, nhưng đầu đà cũng chưa phải là khổ hạnh triệt để. Bởi vì sau khi từ bỏ đời sống lợi dưỡng trong cung vàng điện ngọc Bồ tát Thái từ Sĩ Đạt Ta đã trải qua 6 năm dài khổ hạnh cùng cực, hơi tàn lực kiệt đến nỗi gần như đang đứng kề bên cái chết. Cho đến lúc đó Thái tử Sĩ đạt Ta mới nhận ra rằng khổ hạnh không phải là con đường dẫn đến ánh sáng giác ngộ.

       Trở lại trường hợp của hành giả Minh Tuệ, quả thật là không may mắn cho ông, khi đang trải qua mấy năm trời đi bộ hành từ Bắc vào Nam bình yên thì bỗng dưng bị nhiều người biết đến làm cho ý nguyện bộ hành của ông đã không còn bình yên nữa khi đi đến Thành phố Huế, giữa lúc trời mưa tầm tả với cả ngàn người dân cùng công an cảnh sát nháo nhào mất trật tự đi theo. Để rồi từ đó cứ mỗi lần có ông xuất hiện là người dân lại ùn ùn xô tới khiến cho việc tu tập của ông thật sự bị phiền toái và trở ngại. Cuối cùng ông chỉ còn cách phải rời khỏi Việt Nam (có thể do một gợi ý nào đó) thì may ra mới có cơ hội được tự do thực hành những điều mình mong muốn.

       Con đường sang Ấn Độ của ông cũng còn khá dài nhưng chắc chắn không cô đơnvất vả như Ngài Huyền Trang, bởi vì ông đi đến đâu cũng có rất nhiều người đi theo như hộ tống hay áp giải tùy theo cách nhìn của mỗi người, thực phẩm thức ăn thì ê hề không thiếu. Không những vậy còn có rất nhiều người Việt Nam từ khắp nơi cũng bay sang Lào sang Thái để được diện kiến, cúng dường ông vì sự tin và sùng bái quá mức của họ. Thật là tội nghiệp cho ông bởi chính những người ngưỡng mộ ông vì họ không hiểu rằng nên “ Kính nhi viễn chi”, hãy tôn kính, tôn trọng tất cả những ai đang thực hành, tập học những lời dạy của Đức Phật cho dù theo pháp môn nào mà không nhất thiết phải sùng bái quá mức, vô tình làm tổn hại sự thanh tịnh an tu của chính người mình ngưỡng mộ. Nói chung tất cả những sự thực hành tu tập sẽ chỉ mang lại phước báu thiết thực cho chính những người hành trì chứ không phải cho những người ngưỡng mộ. Biết rõ được điều này hãy để cho hành giả Minh Tuệ được tự do tu tập theo ý muốn của ông đó là sự tôn trọng tốt đẹp nhất.

      Thật sự hãy suy nghĩ chân thật rằng cách đây hơn 2500 năm chúng ta chỉ có một nhân vật duy nhất mà cả chư thiênnhân loại đều kính ngưỡng đó là Đức Phật Thích ca Mâu ni, bởi sự viễn ly xả bỏ hoàn toàn mọi thứ đã đem đến cho Ngài một sự chứng ngộ tuyệt đối, một trí tuệ vượt  bậc vô song với 10 danh hiệu Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn.

      Bởi vậy mà trong tâm của những người con Phật chân chính đều có Phật, cũng như Đức Phật có mặt ở khắp mọi nơi, mỗi khi chúng ta bắt gặp đều nhìn thấy hình ảnh nhẹ nhàng từ bi thương yêu của Ngài luôn đem đến cho mọi người một sự bình yên thanh thoát như hai câu trong bài kinh Thiền môn Nhật tụng ở Làng Mai của Thiền sư Nhật hạnh

                   …   “Vừa thấy dung nhan điều ngự

                          Trăm nghìn phiền não sạch không…”

 

                                                                   California, Xuân Ất Tỵ 2025

                                                                   NAM PHƯƠNG  (Nghiêm Thủy)

Tạo bài viết
21/01/2018(Xem: 21714)
12/10/2016(Xem: 19672)
26/01/2020(Xem: 12346)
12/04/2018(Xem: 20661)
06/01/2020(Xem: 11412)
24/08/2018(Xem: 9771)
12/01/2023(Xem: 4281)
28/09/2016(Xem: 25423)
Tết cổ truyền của dân tộc lại về trên đất nước thân yêu. Trong không khí hân hoan đón chào Xuân Ất Tỵ - 2025, thay mặt Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi gởi lời chúc mừng năm mới đến tất cả các cấp Giáo hội, tới chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; thân chúc quý vị một năm mới thân khỏe tâm an, cát tường như ý.
QUẬN CAM (VB/PTH) --- Có gì dị biệt giữa Tết Quận Cam và Tết Sài Gòn? Dĩ nhiên là nhiều dị biệt. Và cũng dĩ nhiên là rất nhiều tương đồng. Bởi vì rất nhiều truyền thống đón Tết vẫn còn lưu truyền nơi thủ đô người Việt Hải ngoại.