Yo vo, ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca
desito paññatto, so vo mamaccayena satthā.
I. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHIÊN DỊCH
Trước khi nhập Niết-bàn,
đức Phật có
di giáo tối hậu cho các chúng
đệ tử:
“Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.” Phụng hành di giáo của
đức Thế Tôn, các vị
Trưởng lão A-la-hán đã
thực hiện cuộc
kiết tập lần thứ nhất tại thành
Vương Xá, cùng hòa hiệp
phúng tụng tất cả những điều đã được Phật giảng dạy
trong suốt bốn mươi lăm năm
giáo hóa; nền tảng của
văn hiến Phật giáo mà về sau được gọi là
Tam tạng được
thành lập từ đó.
Kể từ đó,
giáo pháp của đức Thích Tôn theo bước chân
du hóa của các Thánh
đệ tử lan tỏa khắp bốn phương. Nơi nào
Giáo pháp được truyền đến, nơi đó
bốn chúng đệ tử học tập và
hành trì theo
phương ngôn của
bản địa, như điều đã được
đức Phật chỉ giáo:
anujānāmi, bhikkhave, sakāya niruttiyā buddhavacanaṃ pariyāpuṇitun’ti. “Này các
Tỳ kheo, Ta
cho phép các ngươi học Phật ngôn bằng chính phương ngữ của mình.”
Y cứ theo lời dạy này, ngay từ khởi thủy Phật ngôn đã được chuyển thể qua nhiều phương ngữ khác nhau.
Khi các
bộ phái Phật giáo phát triển, mỗi
bộ phái cố gắng thành lập Tam tạng Thánh điển theo phương ngữ của địa phương được xem là căn cứ địa. Khi mà
hệ thống văn tự tại Cổ
Ấn Độ chưa
phổ biến, sự
lưu truyền Thánh điển bằng
khẩu truyền là
phương tiện chính. Do
khẩu truyền, những biến âm do khẩu âm của từng địa phương khác nhau
thỉnh thoảng cũng
ảnh hưởng đến một vài thay đổi nhỏ trong các văn bản. Những
biến thiên âm vận ấy trong nhiều
trường hợp dẫn đến những
giải thích khác nhau về một điểm
giáo nghĩa giữa các
bộ phái.
Tuy nhiên, nhìn từ đại thể, các
giáo nghĩa trọng yếu vẫn được hiểu và
hành trì như nhau giữa tất cả các
truyền thống,
Nam phương cũng như Bắc phương. Điều có thể được khẳng định qua các
công trình nghiên cứu tỉ giảo về văn bản trong hai nguồn văn hệ
Phật giáo hiện tại: Pali và Hán tạng. Các bản Hán dịch
xuất xứ từ A-hàm, và các bản văn Pali hiện đọc được, đại bộ phận đều
nhất trí. Do đó, những điều được cho là dị biệt giữa hai
truyền thống Nam và Bắc phương, mà
thường hiểu lệch lạc là
Tiểu thừa và
Đại thừa, chỉ là sự khác biệt bởi môi trường
lịch sử văn minh theo các địa phương và dân tộc. Đó là sự khác biệt giữa
nguyên thủy và phát triển.
Phật pháp truyền sang phương Nam, đến các nước Nam Á, nơi đó sự phát triển
văn minh và các định chế
xã hội chưa đến mức
phức tạp, nên
giáo pháp của Phật được hiểu và hành gần với
nguyên thủy. Về phương Bắc, tại các vùng Đông Bắc Ấn, và Tây Bắc
Trung Quốc, nhiều
chủng tộc dị biệt, nhiều nền
văn hóa khác nhau, và cũng do đó cũng
xuất hiện nhiều định chế
xã hội khác nhau.
Phật pháp được truyền vào đó, một thời đã
trở thành quốc giáo của nhiều nước.
Thích ứng theo sự phát triển của đất nước ấy, từ
ngôn ngữ, phong tục, định chế
xã hội,
giáo pháp của
đức Phật cũng
dần dần được
bản địa hóa.
Thánh điển Tam tạng là nguồn suối cho tất cả
nhận thức về
Phật pháp, để học tập và
hành trì, cũng như để
nghiên cứu.
Kinh tạng và
Luật tạng là tập
đại thành Pháp và Luật do chính
đức Phật giảng dạy và
quy định, là
sở y cho
tri thức và
hành trì của Thánh
đệ tử để
tiến tới thành tựu cứu cánh Minh và Hành. Kinh và Luật cũng
bao gồm những
diễn giải của các Thánh
đệ tử được thân truyền từ
kim khẩu của
đức Phật.
Luận tạng, theo
truyền thống Thượng tọa bộ Nam phương, và cũng theo
truyền thống Hữu bộ, do chính
đức Phật thuyết. Nhưng các
đại luận sư như
Thế Thân (Vasubandhu), cũng như hầu hết các nhà
nghiên cứu Phật học trên
thế giới hiện đại, đều không
công nhận truyền thuyết này, mà cho rằng đó là tập
đại thành các
công trình phân tích, quảng diễn, và
hệ thống hóa những điều đã được
Phật thuyết trong Pháp và Luật. Kinh và
Luật tạng được
thành lập trong một khoảng
thời gian nhất định, trực tiếp hoặc
gián tiếp từ
kim khẩu của Phật, và là
sở y chung cho tất cả các
bộ phái Phật giáo,
bao gồm cả
Phật giáo Đại thừa, mặc dù có những
sai biệt do
vấn đề truyền khẩu với các khẩu âm và phương ngữ khác nhau, theo
thời gian và địa vức.
Luận tạng là bộ phận
Thánh điển phản ánh
lịch sử phát triển của
Phật giáo,
bao gồm các
phương diện tín ngưỡng tôn giáo,
tư duy triết học,
nghiên cứu khoa học, định chế và tổ chức
xã hội chính trị. Tổng quát mà nói, đó không chỉ là phản ánh
lịch sử phát triển của nội bộ
Phật giáo, mà trong đó cũng phản ánh
toàn bộ văn minh tại những nơi
đạo Phật được truyền đến. Điều này cũng được
chứng minh cụ thể bởi
lịch sử Việt nam.
Mỗi
bộ phái Phật giáo tự
xây dựng cho mình một nền
văn hiến Luận tạng riêng biệt, tập hợp các
luận giải giáo nghĩa,
bảo vệ kiến giải Phật pháp của mình,
bài trừ các
quan điểm dị học. Đây là nền
văn hiến đồ sộ,
liên tục phát triển trên nhiều khu vực địa lý khác nhau.
Cho đến khi
Hồi giáo bành trướng tại
Ấn độ,
Phật giáo bị
đào thải. Một bộ phận
văn hiến Phật giáo được chuyển sang
Tây Tạng, qua các bản dịch Phạn Tạng, và một số lớn nguyên bản Phạn văn được
bảo trì. Một bộ phận khác, lớn nhất, gần như hoàn chỉnh nhất,
văn hiến Phật giáo được chuyển dịch sang Hán tạng,
bao gồm hầu hết mọi
xu hướng tư tưởng dị biệt của
Phật giáo phát triển
trong lịch sử Ấn Độ, từ
Nguyên thủy,
Bộ phái,
Đại thừa,
cho đến Mật giáo.
Truyền thuyết ghi rằng
Phật giáo được truyền vào Trung Hoa dưới đời Hán
Minh đế, niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (tl. 65), và
bản kinh Phật đầu tiên được dịch sang Hán văn là kinh
Tứ thập nhị chương, do Ca-diếp Ma-đằng và
Trúc Pháp Lan. Nhưng
truyền thuyết này không được
nhất trí hoàn toàn giữa các nhà
nghiên cứu lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Điều chắc chắn là
Khang Tăng Hội, quê quánViệt nam,
xuất phát từ Giao Chỉ (
Việt Nam), đã đưa
Phật giáo vào
Giang Tây, miền Nam Trung Hoa. Các
công trình phiên dịch và
chú giải của
Khang Tăng Hội đã
chứng tỏ rằng trước đó,
tức từ năm thứ 247 kỷ nguyên tây lịch,
thời gian được nói là Tăng Hội vào đất Kiến Nghiệp,
quy y cho
Tôn Quyền,
Phật giáo đã phát triển đến một hình thái
nhất định tại
Việt Nam, cùng một số kinh Phật được
phiên dịch. Điều này cũng được
củng cố thêm bởi những điều được ghi chép trong
Mâu Tử Lý hoặc luận. Có lẽ do
hậu quả của
thời kỳ Bắc thuộc, hầu hết những điều được
tìm thấy trong
hành trạng của
Khang Tăng Hội và trong ghi chép của
Mâu Tử đều bị xóa sạch. Chỉ
tồn tại những gì được
ghi nhận là truyền từ
Trung Quốc.
Dịch giả Phạn Hán đầu tiên tại
Trung Quốc được khẳng định là
An Thế Cao (đến
Trung quốc trong khoảng tl. 147 – 167). Tất nhiên trước đó hẳn cũng có các dịch giả khác mà
tên tuổi không được
ghi nhận. Lương
Tăng Hựu căn cứ trên
bản Kinh lục xưa nhất của
Đạo An (tl. 312 – 385)
ghi nhận có chừng 134 kinh không rõ dịch giả; và do đó cũng không xác định trước hay sau
An Thế Cao.
Sự nghiệp phiên dịch Phật kinh Phạn Hán
liên tục từ
An Thế Cao,
cho đến các đời Minh, Thanh được tập thành trong 32 tập của Đại chính,
bao gồm Thánh điển nguyên thủy,
Bộ phái,
Đại thừa,
Mật giáo, 1692 bộ. Những trước tác của Trung Hoa, từ sớ giải,
luận giải,
cho đến sử truyện, du ký, v.v., tập thành từ tập 33 đến 55 trong Đại chính, gồm 1492
tác phẩm. Số
tác phẩm được
ấn hành trong Tục tạng chữ Vạn còn nhiều hơn thế nữa. Đây là hai bản Hán tạng
tương đối đầy đủ nhất, trong đó tạng Đại chính được
sử dụng rộng rãi trên quy mô
thế giới.
Sự nghiệp phiên dịch Kinh điển ở nước ta được bắt đầu rất sớm, có thể trước cả thời
Khang Tăng Hội, mà dấu vết có thể
tìm thấy trong
Lục độ tập kinh.
Ngôn ngữ phiên dịch của
Khang Tăng Hội là Hán văn. Hiện chưa có phát hiện nào về các bản
dịch Kinh Phật bằng tiếng quốc âm. Suốt trong
thời kỳ Bắc thuộc, do nhu cầu
tinh thông Hán văn như là sách lược
cấp thời để
đối phó sự
đồng hóa của phương Bắc, Hán văn
trở thành ngôn ngữ thống trị.
Vì vậy công trình phiên dịch Kinh điển thành quốc âm không thể
thực hiện. Bởi vì,
công trình phiên dịch Tam tạng tại Trung
Hoa thành tựu đồ sộ được thấy ngày nay chủ yếu do sự
bảo trợ của triều đình. Quốc âm chỉ được dùng như là
phương tiện hoằng pháp trong
nhân gian.
Cho đến thời Pháp thuộc, trước
tình trạng vong quốc và sự
đe dọa bởi
văn hóa xâm lược,
văn hóa dân tộc có nguy cơ mất gốc, cho nên
sơn môn phát động
phong trào chấn hưng Phật giáo,
phổ biến kinh điển bằng tiếng quốc âm qua ký tự La-tinh. Từ đó,
lần lượt các
Kinh điển quan trọng từ Hán tạng được
phiên dịch theo nhu cầu học và tu của
Tăng già và
Phật tử tại gia. Phần lớn các
Kinh điển này đều thuộc
Đại thừa, chỉ một số rất ít được
trích dịch từ các A-hàm. Dù
Đại thừa hay A-hàm, các
Kinh Luận được
phiên dịch đều không theo một
hệ thống nào cả. Do đó sự
nghiên cứu Phật học Việt Nam vẫn chưa có cơ sở
chắc chắn. Mặt khác, do
ảnh hưởng ngữ pháp Phạn, các bản dịch Hán hàm chứa một số
vấn đề ngữ pháp Phạn Hán khiến cho ngay cả các nhà
chú giải Kinh điển lớn như
Cát Tạng,
Trí Khải cũng phạm phải rất nhiều
sai lầm. Chính
Ngạn Tông, người tổ chức dịch trường theo lệnh của Tùy Dạng đế đã nêu lên một số
sai lầm này.
Cho đến Huyền Trang, vì phát hiện nhiều
sai lầm trong các bản Hán dịch nên
quyết tâm nhập Trúc cầu pháp, bất chấp lệnh cấm của triều đình và các nguy hiểm trên lộ trình.
Ngày nay, do sự phát hiện nhiều
bản Kinh Luận quan trọng bằng tiếng Sanskrit, cũng như sự
phổ biến ngôn ngữ Tây Tạng, mà phần lớn
Kinh điển Sanskrit được
phiên dịch, nên nhiều
công trình chỉnh lý được
thực hiện cho các bản dịch Phạn Hán. Thêm vào đó, do sự
phổ biến ngôn ngữ Pali, vốn được xem là
ngôn ngữ Thánh điển gần với nguyên thuyết nhất, một số
sai lầm trong các bản dịch A-hàm cũng được chỉnh lý, và tỉ giảo, khiến cho lời dạy của Đức Thích Tôn được
thọ trì một cách
trong sáng hơn.
Trên đây là những
nhận thức cơ bản để Ban
phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam y theo đó mà
thực hiện các bản dịch. Trước hết, là bản dịch các kinh A-hàm đang được
giới thiệu ở đây. Các kinh thuộc bộ A-hàm được dịch sang Hán rất sớm, kể từ thời Hậu Hán với
An Thế Cao. Nhưng phần lớn các truyền bản này đều phát xuất từ
Tây vực, từ các nước
Phật giáo thịnh hành thời đó như Quy-tư, Vu-điền. Do khẩu âm và phương ngữ nên trong các truyền bản được nói là Phạn văn đã hàm chứa khá nhiều
sai lạc. Điều này có thể thấy rõ qua sự
so sánh các đoạn tương đương Pali, hay các
dẫn chứng trong Đại Tì-bà-sa,
Du-già sư địa. Thêm vào đó, các dịch giả hầu hết đều học Phật và học tiếng Sanskrit tại các nước
Tây vực chứ không trực tiếp tại
Ấn Độ như La-thập và
Huyền Trang, nên
trình độ ngôn ngữ Phạn có
hạn chế. Các vị ấy khi vừa đặt chân lên Trung Hoa, do khát vọng thâm thiết của các
Phật tử Trung Hoa, muốn có thêm kinh Phật để học và tu, cho nên trong khi chưa
tinh thông tiếng Hán, mà
công trình phiên dịch lại được
thôi thúc cần
thực hiện. Vì không
tinh thông Hán ngữ nên công tác
phiên dịch luôn luôn qua
trung gian một người
chuyển ngữ. Quá trình
phiên dịch đi qua nhiều giai đoạn mà chính người chủ dịch không thể
quán triệt, cho nên trong các bản dịch hàm chứa những đoạn văn rất tối nghĩa, và nhiều khi nhầm lẫn. Trong
tình hình như vậy, một bản dịch Việt từ Hán đòi hỏi rất nhiều
tham khảo để
hy vọng tiếp cận với nguyên bản Sanskrit đã thất lạc, và cũng từ đó mà
hy vọng có thể tiếp cận với
lời Phật dạy hơn, điều mà các bản Hán dịch do trở ngại
ngôn ngữ đã không thể
thực hiện được.
Đại Tạng kinh Việt Nam chủ yếu căn cứ trên Đại chánh
Đại tạng kinh,
Nhật Bản, gồm 100 tập, được
biên tập khởi đầu từ niên hiệu Đại chánh (Taisho) thứ 11 (tl. 1922),
cho đến niên hiệu Chiêu hòa (Showa) thứ 9 (tl. 1934), tập hợp trên 100 nhà
nghiên cứu Phật học hàng đầu của
Nhật Bản, dưới sự chủ trì của
Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakusu Junjiro) và
Độ Biên Hải Húc (Watanabe Kaigyoku). Để bản
sử dụng là bản in của Chùa
Hải Ấn,
Triều Tiên, được gọi là bản Cao-lệ.
Công trình chỉnh lý văn bản căn cứ các khắc bản Tống, Nguyên, Minh, cùng một số khắc bản và
thủ bản tại Hoa và Nhật khác như tả bản
Thiên Bình, bản Liêu của Cung nội sảnh, bản
chùa Đại Đức, bản chùa
Vạn Đức, v.v…Một số bản văn được phát
hiện tại các vùng trong
Tây vực như Vu-điền,
Đôn Hoàng, Quy-tư,
Cao Xương, cũng được dùng làm
tham khảo. Nhiều đoạn
văn từ Pali và Sanskrit cũng được dẫn dưới cước chú để
đối chiếu đoạn Hán dịch mà người
biên tập nghi ngờ là không
chính xác hoặc thuộc về dị bản nào đó.
Nội dung
Đại tạng Đại chánh được phân làm ba phần chính: phần thứ nhất, gồm 32 tập, là các bản dịch Phạn Hán
bao gồm Kinh, Luật, Luận, được thuyết bởi chính
kim khẩu của Phật, hay được
kiết tập bởi các Thánh
đệ tử, hoặc được trước tác bởi các
Luận sư. Phần thứ hai, từ Đại chánh tập 33 đến tập 55, trước tác của Trung Hoa,
bao gồm các sớ giải Kinh, Luật, Luận, và
luận thuyết riêng biệt cúa các
tông phái Phật giáo Trung Hoa, các sử truyện, truyện ký, du ký, truyền kỳ; các bản Hán dịch thuộc
ngoại giáo như
Thắng luận,
Số luận, Ba tư giáo,
Thiên chúa giáo, các tập ngữ vựng Phạn Hán, giáo khoa Phạn Hán, các Kinh lục. Phần thứ ba, từ tập 56 đến 85, tập họp các trước tác của
Nhật Bản, gồm các sớ giải Kinh, Luật, Luận, phần lớn căn cứ trên các bản sớ giải Trung Hoa mà
giải nghĩa rộng thêm, và các
luận thuyết của các
tông phái tại
Nhật Bản. Còn lại 12 tập sưu tập các
đồ tượng, tranh ảnh, phần lớn là các đồ hình mạn-đà-la của
Mật tông. Ba tập cuối, tổng
mục lục,
liệt kê nội dung các bản
Đại tạng lưu hành.
II. ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM là một tập hợp các bản dịch Việt
Đại tạng kinh Phật giáo từ truyền bản tiếng
Trung Quốc, có
tham cứu các truyền bản tiếng Phạn, Pali và
Tây Tạng. Do đó, nó
bao gồm toàn bộ các
kinh điển Phật giáo đã được dịch ra tiếng Việt đã và đang
lưu hành từ trước tới nay.
Chúng ta đều biết, ngay từ
thời kỳ Phật giáo truyền vào
Việt Nam dưới
triều đại Hùng Vương, đã có một số
kinh điển được dịch ra tiếng Việt từ các truyền bản tiếng Phạn hay Pali. Những
bản kinh tiếng Việt đầu tiên này tuy ngày nay đã tán thất qua
thời gian, nhưng một số cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt vẫn còn
tồn tại trong các
bản kinh tiếng
Trung Quốc được dịch từ các văn bản tiếng Việt này, như
Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, v.v… Những thế kỷ
tiếp theo,
truyền thống dịch kinh ra tiếng Việt này vẫn được
tiếp tục mà dấu vết có thể
tìm thấy qua một bài thơ ngũ ngôn của nhà thơ
nổi tiếng thời Đường là Trương Tịch (750-820). Nhưng do
thiên tai lẫn địch họa,
bản kinh tiếng Việt đầu tiên hiện còn lại là một bản dịch vào thế kỷ 15, được biết dưới tên
Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, của
thiền sư Viên Thái (1380-1440).
Qua thế kỷ 16 ta có bản dịch
Quan Âm chân kinh, thường được biết dưới tên
Truyện Phật Bà Quan Âm (khoảng 1585- ?). Đến thế kỷ 17 ta có một loạt các bản dịch giải của
Minh Châu Hương Hải mà
chúng ta hiện đã
tìm thấy, như
Diệu pháp liên hoa kinh, A-di-đà kinh, Ma-ha-bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh v.v…
Thế kỷ 18
chứng kiến sự
xuất hiện các bản dịch
Luật tạng như
Sa-di quốc âm thập giới của Như Trừng (1690-1780),
Oai nghi diễn âm của
Như Thị (1680-1740?), v.v…
Qua thế kỷ 19 ta có bản dịch
Pháp hoa quốc ngữ kinh do Pháp Liên
thực hiện năm 1852 (hay 1856?). Từ đây trở đi
kinh điển Phật giáo bằng tiếng Việt càng ngày
xuất hiện càng nhiều. Cho nên,
Đại tạng kinh Việt Nam là một tập hợp những
bản kinh đã được dịch ra tiếng nước ta từ các truyền bản tiếng
Trung Quốc và một số tiếng khác như Phạn,
Tây Tạng. Riêng bản dịch tiếng Việt của
kinh điển Phật giáo từ các truyền bản tiếng Pali thì
chúng tôi cho in riêng, theo
tiêu chuẩn quốc tế, và được đặt tên là
Đại tạng kinh Nam truyền. Do đó
ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM không
bao gồm các
bản kinh tiếng Việt được dịch từ các truyền bản Pali.
Trên đây là
giới thiệu sơ bộ vài nét chính của
Đại tạng kinh Việt Nam, được
biên dịch và
ấn hành với
mục đích cung cấp cho các
Phật tử và người
nghiên cứu Việt Nam những
bản kinh tiếng Việt hình thành qua
lịch sử. Các
bản kinh nào chưa được dịch hoặc dịch chưa hoàn chỉnh,
chúng tôi sẽ
tuần tự cho dịch lại để in vào bộ
Đại tạng kinh này.
Bản dịch
Đại tạng kinh Việt Nam chọn
Đại chánh tạng làm để bản,
phiên dịch tất cả
tác phẩm được
ấn hành trong đó.
Phàm lệ để
thực hiện bản dịch tạm thời được
quy định như sau:
1.
Đại tạng kinh Việt Nam bao gồm tất cả các bản dịch tiếng Việt của
Tam Tạng Kinh Điển Phật giáo đã
xuất hiện ở nước ta từ trước
đến nay, qua các
thời kỳ với nhiều dịch giả khác nhau, để cho thấy quá trình hình thành
Đại tạng kinh Việt Nam qua
lịch sử.
2. Về bản đáy, bản dịch Việt căn cứ trên ấn bản Đại chánh tân tu
Đại tạng kinh 100 tập, mỗi tập trên dưới 1000 trang chữ Hán cỡ 10pt và sẽ được đánh số theo thứ tự của số ghi trong bản in Đại chính. Mỗi trang của bản in Đại chánh được chia làm ba cột: a, b, c. Số trang và cột này đều được ghi trong bản dịch để tiện
tham khảo.
3. Vì thế, một
bản kinh chữ Hán có thể có nhiều bản dịch tiếng Việt, nên sau số thứ tự của Đại chính, sẽ đánh thêm các mẫu tự A, B, C… để
phân biệt các bản dịch tiếng Việt khác nhau của cùng một
bản kinh chữ Hán đó.
4. Về xử lý văn bản trong khi
phiên dịch, phần lớn căn cứ
công trình hiệu đính và
đối chiếu của bản Đại chánh.
Ngoài ra,
tham khảo thêm các
công trình hiệu đính và
đối chiếu khác.
5. Giữa các ấn bản có những điểm khác nhau, bản Việt sẽ
lựa chọn hoặc
hiệu đính theo
nhận thức của người dịch.
6. Trong bản Hán, nếu chỗ nào xét thấy văn dịch hay
từ ngữ không
phù hợp với
giáo nghĩa truyền thống phổ biến, người dịch sẽ
tham khảo các Kinh, Luật, Luận
cần thiết để hiệu chính. Những hiệu chính này được
giải thích ở phần cước chú.
7. Bản Hán dịch
thực hiện căn cứ phần lớn trên sự
truyền khẩu. Do đó những từ
phát âm tương tự dễ đưa đến
ngộ nhận, như
sam Pāli hay
sama và
samyak;
cala và
jala;
muti và
muṭṭhi, v.v… Trong những
trường hợp này, người dịch sẽ
tham chiếu các kinh tương đương, các bản Hán biệt dịch,
suy đoán tự dạng
nguyên thủy có thể có trong Phạn bản để hiệu chính. Những hiệu chính này đều được ghi ở phần cước chú.
8. Do các truyền bản khác nhau giữa các
bộ phái, để có
nhận thức về
giáo nghĩa nguyên thủy, chung cho tất cả, cần có những
nghiên cứu đối chiếu sâu rộng. Công việc này ngoài khả năng
hiện tại của các dịch giả.
Tuy nhiên, trong
trường hợp có thể, những điểm dị biệt giữa các truyền bản sẽ được
ghi nhận và
đối chiếu. Những
ghi nhận này được nêu ở phần cước chú.
9. Bản Hán dịch được phân thành số quyển. Bản dịch Việt không chia số quyển như vậy, nhưng sẽ ghi ở phần cước chú mỗi khi bắt đầu một quyển khác.
10. Các từ
Phật học trong một số bản Hán dịch
nếu không phổ biến, do đó có thể gây khó khăn cho việc đọc và
nghiên cứu, trong các
trường hợp như vậy, tuy vẫn giữ nguyên dịch ngữ của bản Hán, nhưng dịch ngữ tương đương
thông dụng hơn sẽ được ghi trong phần cước chú. Trong
trường hợp có thể, sẽ ghi luôn dịch giả của những dịch ngữ này và
xuất xứ của chúng từ bản dịch nào để tiện việc
tham khảo.
11. Các kinh sách
tham khảo trong cước chú đều được viết tắt theo qui định
phổ thông của giới
nghiên cứu quốc tế; xem qui định về viết tắt ở cuối mỗi tập của
Đại tạng kinh ViệtNam.
III. PHƯƠNG ÁN THỰC HIỆN
Dự án thực hiện bao gồm các
công trình phiên dịch,
biên tập, và
ấn hành, một
Hội Đồng phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam được
thành lập, được điều phối bởi Tổng
biên tập, với các
nhiệm vụ được phân phối như sau:
1. Ủy ban Phiên dịch. Để
hoàn tất một bản dịch, các công tác sau đây cần được
thực hiện: