Sn 4.2 -- GUHATTHAKA SUTTA:
KINH VỀ THÂN GIAM TRONG HANG ĐỘNG
Kinh này nói về chúng sinh bị giam trong hang động của si mê, tham dục. Hầu hết các dịch giả đều dịch là “hang,” trong khi Gil Fronsdal dịch là “nơi ẩn núp” -- hiding place. Nói trong hang, còn có nghĩa là không thấy ánh sáng của mặt trời trí tuệ. Xa lìa tham dục nơi đây có nghĩa là chớ nuối tiếc hoan lạc quá khứ, và chớ mong đợi niềm vui tương lai; còn có nghĩa là chớ tham gì trong cõi này hay cõi tương lai.
Chính tham dục là vui với chạm xúc của sáu căn, là khởi tâm chấp rằng có một cái tôi đã là, một cái tôi đang là và một cái tôi sẽ là. Do vậy, tham dục nơi đây còn có nghĩa là tham muốn cái cõi Hữu (hiện hữu) hoặc tham muốn cái cõi Vô (phi hiện hữu) – becoming và nonbecoming (bhava và abhava). Đó là lý do tại sao ngài Trần Nhân Tông viết là “chớ dựng lập có, không” (hữu vô câu bất lập). Đức Phật dạy trong kinh này rằng hãy tỉnh giác, chớ trụ vào bất cứ những gì thấy nghe, chớ mong muốn gì trong hiện tại và tương lai.
Đoạn cuối kinh này, Đức Phật dạy phải “hiểu tận tường các tưởng, các khái niệm” (bản dịch Bodhi: having fully understood perceptions; bản dịch Fronsdal: fully understanding concepts; bản dịch Mills: the sage has known perception) – nơi đây có nghĩa là tỉnh thức, nhận diện các tập khởi và biến diệt trong tâm. Nơi đây là sự tỉnh thức (mindfulness) thường trực không đối tượng, không thấy có tôi hay của tôi, không dính mắc gì dù có hay không, dù đã qua hay sẽ tới, dù thấy hay nghe, dù niệm khởi hay diệt. Ngắn gọn, là vô sở trụ.
Tóm lược ý kinh: Tỉnh thức, lìa tham dục, chớ tiếc quá khứ, chớ vọng tương lai, không dính mắc gì ở thấy, nghe, chạm xúc, khởi tưởng…
Kinh này gồm các bài kệ từ 772 tới 779.
772
Người thích ẩn trong hang, chìm vào si mê đắm say
sẽ thấy rất xa bờ tịch lặng.
Tham dục thế giới này, không dễ gì xả buông.
773-774
Người vương vào ước muốn, bị buộc vào niềm vui của hiện hữu
sẽ không giải thoát nổi, vì không ai cứu được mình.
Người nuối tiếc quá khứ, hay mong đợi tương lai
người ưa tìm hoan lạc dù đã qua hay sẽ tới
bám chặt vào tham dục, lo săn tìm niềm vui
trong mê mờ và ích kỷ tằn tiện
là đã rơi vào lối gian nan
Khi gặp khổ đau, mới than thở:
Mình sẽ là gì, khi mãn kiếp này.
775
Do vậy ngay trong thế giới này, hãy tự rèn luyện
với những gì mình biết là sai trái,
chớ làm những điều sai trái
Vì người trí nói, đời sống ngắn ngủi.
776
Ta thấy chúng sinh cõi này
cựa quậy, tham muốn các cảnh giới của hiện hữu
không thoát nổi ước muốn tái sinh (Hữu) và ước muốn không tái sinh (Vô)
Người thấp kém than khóc trước hàm răng tử thần.
777
Hãy nhìn họ kìa
cựa quậy trong tài sản “những cái của tôi”
như cá trong vũng nước cạn.
Thấy như thế
hãy sống với xa lìa “những cái của tôi”
và chớ dính mắc những gì trong cõi hiện sinh.
778
Chớ tham muốn bất cứ những gì ở cả hai phía (dù đã qua hay sẽ tới)
hãy hiểu các xúc chạm của [sáu] căn
hãy xa lìa tham muốn
và không làm những gì sau này sẽ ân hận.
Người trí không dính mắc vào những gì được thấy, được nghe.
779
Hiểu được tận tường các tưởng
người trí có thể vượt qua trận lụt
không vương vào tài sản “những cái của tôi”
Gỡ bỏ mũi tên sầu khổ, sống tỉnh giác
người trí không muốn gì trong cõi này hay cõi mai sau.
Hết Kinh Sn 4.2