19. PHẨM THÁNH HẠNH THỨ MƯỜI CHÍN
(Hán bộ trọn quyển 11, 12 và 13)
Phật bảo ca-Diếp Bồ-Diếp : “Đại Bồ-Tát phải nên ở nơi kinh Đại-Niết- Bàn nầy
chuyên tâm tư duy năm thứ hạnh : Một là
thánh hạnh, hai là
phạm hạnh, ba là
thiên hạnh, bốn là anh-nhi-hạnh, năm là bịnh hạnh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát thường nên
tu tập năm thứ hạnh nầy. Lại có một hạnh, chính là Như-Lai hạnh, cũng chính là kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Đại Bồ-Tát tu
thánh hạnh thế nào ? Đại Bồ-Tát hoặc từ Thanh-Văn, hoặc từ đức Như-Lai đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn như vậy, nghe xong sanh
lòng tin, tin xong nên
suy nghĩ như vầy : Chư Phật Thế-Tôn có đạo
vô thượng, có
chánh pháp lớn, có
chánh hạnh cho
đại chúng, lại có
kinh điển Phương-đẳng Đại-thừa, nay ta nên vì
ưa thích mong
cầu kinh Đại-thừa mà bỏ lìa
vợ con,
quyến thuộc, nhà cửa,
vàng bạc,
châu báu,
chuỗi ngọc tốt đẹp,
hương hoa,
kỹ nhạc, tôi trai, tớ gái, voi ngựa, xe cộ, trâu dê, gà chó, heo lợn. Lại nghĩ thế này, ở nhà
ràng buộc như lao ngục, do đó mà sanh tất cả
phiền não.
Xuất gia khoảng khoát như
hư không, tất cả pháp lành nhơn đây được
tăng trưởng. Nếu ở nhà chẳng đặng
trọn đời tu
phạm hạnh, nay ta phải nên cạo bỏ râu tóc,
xuất gia học đạo vô thượng.
Lúc Bồ-Tát muốn
xuất gia như vậy, Thiên-ma Ba-tuần rất lo khổ, nói rằng : Bồ- Tát nầy lại sẽ cùng ta sanh sự chiến tranh lớn.
Nấy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát nầy ở nơi chỗ nào lại sẽ cùng người chiến tranh ? Bồ-Tát nầy qua đến
tăng phường nếu thấy Như-Lai và hàng
đệ tử oai nghi đầy đủ,
thân tâm tịch tịnh, lòng liền nhu hòa
thanh tịnh mà cầu
xuất gia, cạo bỏ râu tóc mặc ba
pháp y.
Xuất gia xong tuân
giữ giới cấm,
oai nghi chẳng thiếu,
cử chỉ an lành không có sai phạm, nhẫn đến tội nhỏ cũng sanh lòng sợ sệt, tâm hộ giới như
kim cương.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người đeo trái nổi muốn lội qua biển lớn. Trong biển có quỉ La-sát theo người đó để xin trái nổi. Người đó nghĩ rằng : Nếu ta cho nó
quyết định phải chìm chết. Nghĩ rồi đáp rằng : Nầy La-Sát, thà ngươi giết ta, chớ ta không thể cho trái nổi được.
La-Sát lại nói : Nếu ông chẳng cho hết, thời cho ta phân nửa. Người ấy vẫn không cho. La-Sát lại xin một phần ba, không được, lại xin một mãnh bằng bàn tay, nhẫn đến xin chừng bằng hột bụi. Người nầy đáp rằng : Nhà ngươi dầu xin rất ít, nhưng hiện nay ta
cần phải lội qua biển, chẳng biết đường còn xa hay gần. Nếu ta cho ngươi một ít, trái nổi sẽ xì hơi, làm sao qua được biển lớn, có thể sẽ bị chìm chết giữa đường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát
hộ trì cấm giới cũng như vậy. Lúc Bồ-Tát hộ giới,
thường có phiền não bảo Bồ-Tát rằng : Ông nên tin tôi trọn chẳng dối nhau, chỉ phá bốn giới trọng,
giữ gìn những giới khác sẽ được
an ổn nhập Niết-bàn. Lúc đó Bồ-Tát nên nghĩ rằng : Thà ta
giữ gìn giới cấm mà đọa A-tỳ địa-ngục, quyết chẳng hủy phạm mà sanh trên
cõi trời.
Phiền não lại nói : Ông nếu chẳng phá bốn giới trọng, thời nên
phá tăng tàng, sẽ được
an ổn nhập Niết-bàn. Bồ- Tát không bằng lòng.
Phiền não lại bảo : Ông nếu chẳng
phạm tăng tàng, cũng nên
phạm tội thâu-lan- giá, thời đặng
an ổn nhập Niết-bàn.
Bồ-Tát cũng chẳng nghe theo.
Phiền não lại bảo : Ông nếu chẳng thể phạm thâu-lan-giá, nên phạm xả- đọa thời nên
an ổn nhập Niết-bàn.
Bồ-Tát cũng chẳng nghe theo.
Phiền não lại bảo : Ông nếu chẳng thể phạm xả-đọa nên phạm ba-dật-đề sẽ đặng
an ổn nhập Niết-bàn.
Bồ-Tát cũng chẳng nghe theo.
Phiền não lại bảo : Ông nếu chẳng thể phạm ba-dật-đề, thời nên phạm đột kiết- la, do đây được
an ổn nhập Niết-bàn.
Bồ-Tát vẫn không nghe theo, tự nghĩ rằng : Nay nếu ta
phạm tội đột-kiết-la, mà chẳng phát-lồ, thời không thể qua khỏi biển
sanh tử đến bờ Niết-Bàn được. Bồ- Tát đối với tội rất nhỏ trong
giới luật,
giữ gìn bền chắc, tâm như
kim cương. Bồ- Tát đối với bốn giới trọng cùng đột-kiết-la,
giữ gìn kính trọng như nhau không khác.
Bồ-Tát
nếu có thể bền
giữ giới luật như vậy, thời là đầy đủ năm chi giới : Một là đầy đủ giới nghiệp
thanh tịnh căn bổn của Bồ-Tát; hai là những
giới thanh tịnh khác,
quyến thuộc của giới trước giới sau; ba là giới
giác quán thanh tịnh, chẳng phải những
ác giác; bốn là giới niệm
thanh tịnh hộ trì chánh niệm; năm là giới
hồi hướng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát đây lại có hai thứ giới : Một là giới thọ thế- giáo; hai là giới đặng
chánh pháp. Bồ-Tát nếu
thọ giới chánh pháp thời trọn chẳng làm ác. Nếu
thọ giới thế giáo, thời
bạch tứ Yết-Ma, rồi sau mới đặng.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lại có hai thứ giới : Một là giới-tánh-trọng, hai là giới dứt sự cơ- hiềm
thế gian. Giới-tánh-trọng tức là bốn giới trọng. Giới dứt cơ-hiềm
thế gian là chẳng buôn bán, cân thiếu, giạ non, khi dối người,
cậy thế lực người để lấy tài vật của kẻ khác,
ác tâm trói buộc người,
phá hoại sự
thành công của người, thắp đèn sáng mà nằm, ruộng nương gieo trồng,
gia nghiệp buôn bán. Chẳng chứa voi ngựa, xe cộ, trâu, dê, đà, lừa, gà, chó, khỉ , vượn, chim công, chim két, chim
cộng mạng, cùng chim câu-chỉ-la, cọp, beo, chó sói, mèo, chồn, heo lợn, và những
ác thú khác. Chẳng chứa đồng nam,
đồng nữ, đại nam, đại nữ, tôi tớ, vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê, chơn châu,
xa cừ,
mã não,
san hô, bích ngọc, kha bối, các thứ
châu báu, đồng cỏ, thiếc nhôm, thau, chì, những thứ chén bát to lớn. Chẳng chứa áo lông, áo cừu, áo da, tất cả lúa, gạo nếp, mè, bắp, đậu, những đồ đựng món
ăn sống, đồ đựng món ăn chín. Thường ăn một bữa, chẳng từng ăn hai lần. Thường đi
khất thực và thọ thực trong
chúng Tăng, thường biết
vừa đủ. Chẳng thọ thỉnh riêng, chẳng
ăn thịt, chẳng uống rượu, loại
ngũ tân tánh nồng đều chẳng ăn, vì thế nên thân Bồ-Tát chẳng có hôi hám. Thường được
chư Thiên tất cả người
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
tán thán. Ăn
vừa đủ trọn chẳng
lãnh thọ của dư. Nhận lấy
y phục vừa đủ che thân.
Thường dùng ba y, bát,
tọa cụ, trọn chẳng
xa lìa như hai cánh chim. Chẳng chứa các thứ củ, cọng, mắt, hột, trái,
các loại hột. Chẳng chứa
của báu hoặc vàng, hoặc bạc, kho bếp chứa đồ ăn, áo xiêm thêu vẽ, giường rộng, cao lớn giừơng ngà, giường vàng, mùng màn nhiều màu, đều chẳng ngồi nằm. Chẳng chứa tất cả thứ chiếu, mềm nhuyễn. Chẳng
ngồi yên voi, yên ngựa. Chẳng dùng áo xiêm mịn nhuyễn
tốt đẹp để trải giường nằm. Trên giường ngủ nghỉ chẳng để hai gối, cũng chẳng nhận chứa gối đỏ
tốt đẹp, gối cây lộng chạm. Trọn chẳng nhìn xem đua voi, đua ngựa, đua xe, diễn binh, cũng chẳng coi xem hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, dê, gà, chim trĩ, chim két, đánh đá nhau. Cũng chẳng
cố ý đi xem binh trận. Cũng chẳng
cố ý nghe thổi ốc , thổi sừng, tiếng đờn cầm, đờn sắt, đờn tranh, ống địch,
không hầu,
ca ngâm, các thứ
kỹ nhạc, trừ khi
cúng dường Phật. Trọn chẳng xem chẳng làm tất cã những sự chơi đùa cờ bạc. Chẳng coi tướng tay chân mặt mắt, chẳng bói quẻ, xủ quẻ. Chẳng ngước xem
hư không tinh tú, trừ khi muốn giải sự
buồn ngủ. Chẳng làm
sứ mạng cho nhà vua. Cũng chẳng đem lời người nầy truyền đến người kia, lời người kia truyền đến người nầy. Chẳng
dua nịnh tà mạn để nuôi sống. Chẳng tuyên nói những việc của vua của quan, của
kẻ trộm cướp, việc
kiện cáo, việc uống ăn trong nước, trong xứ thất mùa
đói khát, những việc
khủng bố, những việc đặng mùa
an ổn. Đây gọi là giới dứt sự cơ hiềm
trong đời của Đại-Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát
giữ gìn kỹ những điều giới ngăn chế như vậy đồng như
giữ gìn những giới tánh trọng.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát
thọ trì những
giới cấm như vậy rồi lại nguyện rằng : Thà đem thân nầy nhảy vào trong hầm lửa, trọn chẳng hủy
phạm giới cấm của chư Phật
ba đời mà cùng tất cả người nữ làm điều
bất tịnh. Lại nguyền thà lấy sắt nóng vấn nơi thân, trọn chẳng dám đem thân
phá giới để
thọ y phục của
tín tâm đàn việt. Lại nguyện thà nuốt hòn sắt cháy đỏ, trọn chẳng dám đem thân
phá giới ăn các
thực vật của
tín tâm đàn việt. Lại nguyện thà đem thân nầy nằm trên sắt nóng trọn chẳng đem thân nầy thọ giừơng chiếu của
tín tâm đàn việt. Lại nguyện thà đem thân nầy chịu ba trăm mũi mâu đâm, trọn chẳng dám đem thân
phá giới thọ thuốc men của
tín tâm đàn việt. Lại nguyện thà đem thân nầy nhảy vào vạc sắt nóng, chẳng dám đem thân
phá giới thọ phòng nhà của
tín tâm đàn việt. Lại nguyện thà dùng chùy sắt đập nát thân nầy từ đầu đến chân nát như tro bụi, chẳng đem thân
phá giới thọ sự cung kính của
mọi người. Lại nguyện thà dùng sắt nóng khoét đôi mắt, chẳng dùng
nhiễm tâm nhìn sắc đẹp của người. Lại nguyện thà dùng dùi sắt đâm thủng lỗ tai, chẳng dùng
nhiễm tâm nghe tiếng hay giọng tốt. Lại nguyện thà dùng dao bén cắt bỏ lỗ mũi, chẳng dùng
nhiễm tâm tham ngữi những
mùi thơm. Lại nguyện thà dùng dao bén cắt rách lưỡi mình, chẳng dùng
nhiễm tâm tham vị ngon ngọt. Lại nguyện rằng thà dùng búa bén chặt chém
thân thể, chẳng dùng
nhiễm tâm tham chạm xúc êm dịu. Vì những sự trên đây có thể làm cho
nhà tu hành đọa
địa ngục,
súc sanh, ngả-quỉ. Đây gọi là Đại-Bồ-Tát
hộ trì cấm giới.
Đại Bồ-Tát
hộ trì những
cấm giới như vậy rồi, đều đem
bố thí cho tất cả
chúng sanh, nguyện cho
chúng sanh hộ trì cấm giới, đặng
giới thanh tịnh,
giới thiện, giới chẳng thiếu, giới chẳng phân tích, giới đại-thừa, giới
bất thối, giới
tùy thuận, giới
rốt ráo,
thành tựu đầy đủ
giới ba-la-mật.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát lúc
tu trì giới thanh tịnh như vậy liền đặng trụ bậc sơ-bất-động. Thế nào gọi là bậc bất-động ? Bồ-Tát trụ trong bậc bất-động nầy thời chẳng động, chẳng đọa, chẳng thối, chẳng tán.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như núi Tu-di, gió trốt gió bão, không thể làm lay động sụp đổ tan nát được. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát trụ trong bậc nầy, chẳng bị sắc, thinh, hương, vị, xúc, làm động, chẳng đọa
địa ngục,
súc sanh, ngạ quỹ, chẳng lui xuống bậc Thanh-Văn,
Bích-Chi Phật, chẳng bị dị-kiến tà phong làm tan, mà theo
tà mạn để nuôi sống.
Lại
bất động là chẳng bị
tham dục,
sân khuể,
ngu si làm động. Lại bất đọa là chẳng đọa bốn tội trọng. Lại
bất thối là chẳng lui bỏ giới để
hoàn tục. Lại bất tán là chẳng bị người trái nghịch kinh Đại-thừa làm tan hoại.
Đại Bồ-Tát cũng chẳng bị các ma
phiền não làm lay động, chẵng bị ma
ngũ ấm làm đọa. Nhẫn đến ngồi nơi cội cây bồ-đề
đạo tràng dầu có Thiên-ma chẳng thể làm Bồ-Tát thối bỏ
vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng chẳng bị ma chết làm tan.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đây gọi là Bồ-Tát
tu tập Thánh-hạnh. Thế nào gọi là Thánh- hạnh ? Vì là chổ thật hành của Phật và Bồ-tát nên gọi là Thánh-hạnh. Do cớ
chi Phật và Bồ-Tát gọi là Thánh- nhơn ? Vì những bậc nầy có Thánh-pháp, vì thường quán các
pháp thể tánh không tịch, do nghĩa nầy nên gọi là Thánh- nhơn. Lại vì có
thánh giới, thánh định,
thánh huệ, nên gọi là thánh nhơn. Lại vì có bảy thánh tài : Tín, giới, tàm, quí,
đa văn,
trí huệ, xả ly, nên gọi là thánh nhơn. Lại vì có
bảy thánh giác nên gọi là thánh nhơn. Do nghĩa nầy nên lại gọi là
thánh hạnh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát
thực hành thánh hạnh,
quán sát thân nầy từ đầu đến chân trong đó chỉ có tóc, lông, móng, răng, hôi dơ chẳng sạch, da, thịt, gân, xương, tỳ, thận, tâm, phế, gan, mật, bao tử, ruột non, ruột già,
tiểu tiện, đại tiện, nước mũi, nước miếng, nước mắt, óc, tũy, mủ, máu, mạch lạc. Lúc Bồ- Tát
chuyên tâm quán sát như vậy : Cái gì là ngã, ngã thuộc về cái gì ? Ngã ở chổ nào ? Cái gì thuộc về ngã ? Lại nghĩ rằng : Xương có phải là ngã chăng ? Hay rời xương là ngã ? Lúc đó Bồ-Tát trừ bỏ
da thịt chỉ quán sát xương trắng lại
suy xét sắc tướng của xương sai khác, là xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh đen, xương như vậy cũng chẳng phải ngã, vì ngã chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng và xanh đen. Lúc Bồ-Tát
chuyên tâm quán sát như vậy, liền dứt trừ đặng tất cả
sắc dục. Lại nghĩ rằng : Những xương như vậy đều từ
nhơn duyên mà sanh. Nhờ xương bàn chân để gắn xương mắt cá do xương mắt ca để gắn xương ống quyển, nhơn xương ống quyển dùng gắn xương đầu gối, nhơn xương đầu gối để gắn xương đùi, do xương đùi kết với xương mông, nhờ xương mông dựng xương sống, nhờ xương sống kết xương sườn, trên xương sống có xương cổ, nhơn xương cổ gắn xương hàm, nơi xương hàm cặm răng nanh, trên đó có xương sọ. Lại nhơn xương cổ kết xương vai, nhơn xương vai gắn xương cánh tay, đầu xương cánh tay gắn xương bắp tay, do xương bắp tay kết xương bàn tay, nhơn xương bàn tay có xương ngón tay. Lúc Bồ-Tát
quán sát như vậy, tất cả xương trong thân đều chia lìa.
Quán sát như vậy rồi, liền dứt đặng ba thứ
dục nhiễm : Một là sự
dục nhiễm về
hình mạo, hai là sự
dục nhiễm về tư thái, ba là sự
dục nhiễm về chạm xúc mịn màng.
Đại Bồ-Tát lúc
quán sát xương màu xanh, thấy cõi đất khắp
mười phương Đông, Tây, Nam, Bắc,
bốn hướng trên, dưới thảy đều màu xanh cả. Lúc quán xương màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu xanh đen cũng như vậy.
Lúc Bồ-Tát
quán sát như trên đây giữa chặn mày liền chiếu ra ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh đen. Trong mỗi ánh sáng nầy Bồ-tát thấy có
tượng Phật, liền hỏi : Thân nầy do
nhơn duyên bất tịnh hòa hợp chung lại mà thành, sao lại đặng ngồi, nằm, đi, đứng, co duỗi, cúi, ngước xem, nháy, thở, buồn, khóc, vui, cười, trong thân nầy không
chủ tể, ai sai sử có những việc như vậy ? Vừa hỏi xong, chư Phật trong ánh sáng liền ẩn mất.
Bồ-Tát lại
suy nghĩ : Hoặc
thức tâm là ngã, nên chư Phật chẳng vì tôi mà nói. Lại
quán sát thức tâm nầy
thứ đệ sanh diệt dường như nước chảy cũng chẳng phải là ngã. Lại
suy nghĩ nếu
thức tâm chẳng phải là ngã, thời
hơi thở ra vào hoặc có thể là ngã chăng ? Lại
suy nghĩ :
Hơi thở ra vào chỉ là tánh gió, mà tánh gió là
tứ đại, trong
tứ đại, đại nào là ngã ?
Tánh địa đại chẳng phải ngã, tánh thủy, tánh hỏa, tánh phong cũng chẳng phải ngã. Lại
suy nghĩ : Tất cả trong thân nầy đều không có ngã, chỉ có
tâm niệm do
nhơn duyên hòa hiệp mà
hiện ra có những
tác dụng.
Ví như sức bùa chú,
ảo thuật làm ra. Cũng như ống
không hầu tùy ý thổi ra tiếng. Thế nên thân nầy là
bất tịnh, nhờ những
nhơn duyên hòa hiệp chung lại mà thành, thế thì sẽ ở chỗ nào mà sanh
tham dục. Lại ở chỗ nào mà sanh giận hờn nếu bị người mắng nhục. Thân nầy của ta do ba mươi sáu vật hội hiệp, hôi nhơ
bất tịnh, chỗ nào mà có người
lãnh thọ sự mắng nhục. Nếu nghe tiếng mắng, bèn
suy nghĩ, do
tiếng tăm gì mà thành
mắng nhiếc ? Riêng mỗi mỗi tiếng chẳng thể thành
mắng nhiếc. Nếu một tiếng chẳng thành, thời nhiều tiếng cũng chẳng thành. Do nghĩa nầy nên chẳng nên sanh lòng giận hờn.
Nếu có người đến đánh, cũng nên
suy nghĩ, sự đánh đập nầy từ đâu mà có. Lại
suy nghĩ : Nhơn tay, dao, gậy, cùng với thân của ta nên gọi là đánh. Nay ta cớ sao lại giận hờn nơi người, bèn là thân ta tự chác lấy lỗi nầy, vì ta thọ thân
ngũ ấm.
Ví như nhơn cái đích thời có mũi tên bắn trúng. Cũng vậy, do có thân ta, mới có sự đánh. Ta nếu chẳng có nhẫn, thời
tâm tán loạn, tâm nếu
tán loạn thời mất
chánh niệm, nếu mất
chánh niệm thời chẳng thể
quan sát nghĩa lành cùng chẳng lành. Nếu chẳng thể
quan sát nghĩa lành cùng chẳng lành thời phạm việc ác. Đã phạm việc ác tất phải đọa
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ.
Lúc Bồ-Tát
quán sát như vậy rồi, thời đặng
tứ niệm xứ. Đặng
tứ niệm xứ rồi thời đặng trụ nơi trong bậc
kham nhẫn. Đại-Bồ-Tát trụ nơi bậc nầy thời có thể
kham nhẫn những sự
tham dục,
sân khuể,
ngu si. Cũng có thể
kham nhẫn những sự lạnh, nóng,
đói khát, muỗi mòng, rận, rệp, gió dữ, đụng chạm, thô cứng, các thứ tật dịch,
chửi rủa mắng nhiếc, đánh đập khổ sở tất cả những sự
khổ não nơi thân, nơi tâm đều có thể nhẫn. Vì thế nên gọi là trụ bậc
kham nhẫn.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Bồ-Tát chưa trụ đặng bậc
bất động, lúc trì
tịnh giới, có
nhơn duyên gì đặng
phá giới chăng ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát chưa đặng trụ bậc
bất động, vì có
nhơn duyên thời có thể đặng
phá giới.
_ Bạch Thế-Tôn !
Nhơn duyên như thế nào ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu Bồ-Tát biết rằng do
nhơn duyên phá giới, thời có thể làm cho người
ưa thích thọ trì kinh điển đại-thừa, lại có thể làm cho người
đọc tụng thông thuộc, biên chép quyển kinh,
giảng thuyết rộng ra, chẳng
thối chuyển nơi
vô thượng chánh giác. Vì cớ như vậy nên đặng
phá giới. Lúc đó Bồ- Tát nên nghĩ rằng : Ta thà
chịu tội đọa nơi
A-Tỳ địa ngục, một kiếp hoặc dưới một kiếp,
cần phải làm cho người như vậy chẳng
thối chuyển nơi
vô thượng chánh giác. Do
nhơn duyên nầy Bồ-Tát đặng phá
tịnh giới.
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát
bạch Phật : Thế-Tôn ! Nếu có Bồ-Tát
nhiếp thủ hộ trì người như vậy, làm cho chẳng
thối chuyển tâm Bồ-Đề, quyết không vì
duyên cớ ấy
phá giới mà bị đọa A-Tỳ.
Phật khen Văn-Thù Sư-Lợi : “Lành thay !
Lành thay ! Đúng như lời ông vừa nói. Ta nhớ thuở xưa, nơi Diêm-Phù-Đề nầy, ta làm Đại Quốc-Vương, tên là Tiên- Dư. Nhà vua mến ưa
kính trọng kinh điển Đại-thừa, tâm vua thuần thiện, không có tật ác, tật đố, san lẫn, miệng vua thường nói
lời dịu dàng, lời lành, thân vua thường
nhiếp hộ kẻ nghèo cùng
cô độc.
Bố thí,
tinh tấn, không ngừng nghỉ.
Thuở đó không có Phật ra đời, cũng không Thanh-Văn,
Duyên Giác. Nhà vua
ưa thích kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng, trong mười hai năm
phụng thờ Bà-La- Môn,
cung cấp những đồ
cần dùng. Qua khỏi mười hai năm, nhà vua bảo Bà-La- Môn các ngài nay phải
phát tâm vô thượng bồ-đề. Bà-La-Môn đáp : Tâu Đại- vương tánh bồ-đề là không chỗ có,
kinh điển Đại-thừa cũng như vậy. Sao Đại- vương muốn cho người cùng vật đồng như
hư không.
Nhà vua lúc đó tâm
tôn trọng Đại-thừa, nghe Bà-La-Môn hủy báng Phương- đẳng Đại-thừa, bèn giết Bà-La-Môn.
Nầy thiện-nam-tử ! Do
nhơn duyên trên đây, từ đó trở đi, ta chẳng bị đọa
địa ngục.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ủng hộ nhiếp trì
kinh điển Đại-thừa, bèn có
vô lượng thế lực như vậy.
Phật lại bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Có
thánh hạnh là
tứ thánh đế : Khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là tướng
bức bách. Tập là tướng có thể sanh trưởng. Diệt là tướng
tịch diệt,. Đạo là tướng đại-thừa. Lại khổ là
hiện tướng. Tập là
chuyển tướng . Diệt là trừ tướng. Đạo là năng trừ tướng. Lại khổ có
ba tướng : Tướng
khổ khổ, tướng
hành khổ, tướng
hoại khổ. Tập là hai mươi lăm cõi. Diệt là diệt dứt hai mươi lăm cõi. Đạo là
tu tập giới, định, huệ.
Nầy Thiện-nam-tử !
Pháp hữu lậu có hai thứ : Có nhơn, có quả. Pháp
vô lậu cũng có hai thứ : Có nhơn, có quả.
Quả
hữu lậu thời gọi là khổ. Nhơn
hữu lậu thời gọi là tập. Quả
vô lậu thời gọi là diệt.
Nhôn
vô lậu thời gọi là đạo.
Nầy Thiện-nam-tử ! Có tám tướng gọi là khổ :
Sanh khổ,
lão khổ,
bệnh khổ,
tử khổ,
ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ,
cầu bất đắc khổ,
ngũ ấm thạnh khổ. Có thể sanh ra tám thứ khổ như vậy gọi đó là “Tập”. Nơi không có tám thứ khổ như vậy đây gọi là “Diệt”.
Mười trí lực, bốn vô-sở-úy ba
niệm xứ, đại-bi, đây gọi là “Đạo”.
Sanh là tướng sanh ra có năm : Một là mới sanh ra, hai là đến rốt sau, ba là
tăng trưởng, bốn là
xuất thai, năm là chủng loại sanh.
Lão có hai thứ : Một là
niệm niệm lão, hai là
chung thân lão. Lại có hai : Một là
tăng trưởng lão, hai là diệt hoại lão.
Bệnh là nói
tứ đại chẳng điều thích lẫn nhau cũng có hai : Một là
thân bịnh, hai là tâm bệnh.
Thân bịnh có năm : Một là nhơn nơi nước, hai là nhơn nơi gió, bà là nhơn nơi nhiệt, bốn là tạp bịnh, năm là khách bịnh. Khách bịnh có bốn : Một là chẳng phải phận sự gắng gỗ làm, hai là vì quên lầm mà té ngã, ba là dao gậy ngói đá, bốn là
quỉ mị dựa. Tâm bệnh cũng có bốn : Một là hớn hở, hai là sợ sệt, ba là lo rầu, bốn là
ngu si.
Nầy Thiện-nam-tử !
Thân bịnh, tâm bịnh phàm có ba thứ : Một là
nghiệp báo, hai là
xa lìa chẳng đặng ác-đối, ba là
thời tiết thay đổi. Sanh ra các thứ
nhơn duyên danh tự thọ bịnh sai khác như vậy.
Nhơn duyên là những bịnh phong v.v…,
danh tự là buồn nôn, phổi sưng, hơi lên, ho hen, tim nhảy, chảy kiết. Thọ sai khác là : Nhức đầu, đau mắt, đau tay, đau chưn, v.v… , đây gọi là bịnh.
Tử là bỏ thân đã thọ. Bỏ thân cũng có hai : Một là căn mạng hết mà chết, hai là do duyên ngoài là chất mạng hết mà chết. Mạng hết mà chết có ba : Một là mạng hết chẳng phải phước hết, hai là phước hết chẳng phải mạng hết , ba là phước mạng đều hết. Duyên ngoài chết cũng có ba : Một là chẳng phải phần tự hại mà chết, hai là bị kẻ khác hại chết, ba là do mình và kẻ khác mà chết. Lại có ba thứ chết : Một là
phóng dật mà chết, hai là
phá giới mà chết, ba là
mạng căn hư hoại mà chết. Những gì gọi là
phóng dật mà chết ? Nếu có hủy báng Đại- thừa Phương-đẳng bát-nhã-ba-la-mật, đây gọi là
phóng dật mà chết. Những gì gọi là
phá giới mà chết ? Hủy
phạm giới cấm của chư Phật
ba đời, đây gọi là
phá giới mà chết. Những gì gọi là
mạng căn hư hoại mà chết ? Bỏ thân
ngũ ấm, đây gọi là
mạng căn hư hoại mà chết. Do đây nên gọi rằng chết là rất khổ.
Những gì gọi là
ái biệt ly khổ ? Những vật mến yêu bị hư hoại lìa tan. Vật mến yêu hư hoại lìa tan đó cũng có hai thứ : Một là
ngũ ấm trong
loài người hư hoại, hai là
ngũ ấm trong
cõi trời hư hoại.
Ngũ ấm mến yêu trong
cõi người cỏi trời
phân biệt tính đếm có
vô lượng thứ. Đây gọi là
ái biệt ly khổ.
Những gì gọi oán-tằng-hội khổ ? Tức là chẳng
yêu thương mà hội họp cùng nhau, chẳng
yêu thương hội họp nầy cũng có ba :
Địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh. Ba
ác thú như vậy
phân biệt tính đếm có
vô lượng thứ. Đây gọi là oán tằng hội khổ.
Những gì gọi là cầu bất-đắc khổ ? Cũng có hai thứ : Một là chỗ trông mong được mà cầu chẳng được, hai là tốn nhiều
công lực mà chẳng đặng kết quả,. Đây gọi là
cầu bất đắc khổ.
Những gì gọi là ngũ-ấm thạnh khổ ? Chính là
sanh khổ,
lão khổ,
bịnh khổ,
tử khổ, ái-biệt-ly khổ, oán-tằng-hội khổ, cầu-bất-đắc khổ. Đây gọi là
ngũ ấm thạnh khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Sanh làm cội gốc có ra
lão khổ nhẫn đến
ngũ ấm thạnh khổ, bảy khổ như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Luận về sự già suy, chẳng phải tất cả đều có. Phật cùng
Chư Thiên một bề
quyết định không, trong
loài người thời chẳng nhứt định, hoặc có hoặc không.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thọ thân trong
ba cõi không ai chẳng có sanh, cho nên sanh là cội gốc của tất cả thân. Còn già thời chẳng
quyết định.
Chúng sanh trong
thế gian, do
điên đảo che mờ
tâm tánh, nên tham đắm nơi sanh mà nhàm lo già chết. Bồ-Tát chẳng như vậy. Bồ-Tát
quán sát thân mới sanh đã thấy nỗi khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như có người nữ vào nhà người khác. Người nữ nầy
xinh đẹp chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân. Chủ nhà hỏi rằng : Nàng tên là gì, thuộc nơi ai ? Người nữ đáp rằng : Thân tôi tức là
Công Đức Đại-Thiên.
Chủ nhà hỏi : Nàng đến để làm gì ?
Người nữ đáp : Chỗ nào tôi đến, tôi có thể cho các thứ vàng, bạc, lưu-ly,
pha lê, chơn châu,
san hô,
hổ phách,
xa cừ,
mã não, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ.
Chủ nhà nghe rồi
vui mừng hớn hở : Nay ta
phước đức, nên khiến nàng nầy đến nhà ta. Liền bèn
đốt hương,
rải hoa cúng dường,
cung kính lễ bái.
Lại thấy ngoài cửa có một người nữ hình dạng
xấu xa, áo xiêm rách nát, do thứa nức nẻ, sắc mặt xám trắng, dơ dáy hôi hám. Chủ nhà hỏi : Nàng tên gì , thuộc về ai ?
Cô gái đáp : Tôi tên Hắc-ám.
_ Tại sao tên Hắc-ám ?
_ Tôi đi đến chỗ nào có thể làm cho nhà đó hao tài,
tốn của.
Chủ nhà nghe xong bèn cầm dao bén bảo rằng : Nàng nếu chẳng đi, ta sẽ chém chết.
Cô gái nói : Ông
ngu si lắm, không có
trí huệ.
Chủ nhà hỏi : Tại sao nói ta là
ngu si không có
trí huệ.
Cô gái đáp : Người đẹp đứng trong nhà ông chính là chị của tôi. Tôi thường đi chung với chị, nếu ông đuổi tôi cũng phải đuổi chị tôi.
Chủ nhà trở vô hỏi Công-Đức-Thiên : Ngòai cửa có cô gái nói là em của nàng có phải vậy chăng ?
Công-Đức-Thiên nói : Thiệt là em gái tôi, tôi cùng đi chung với nó, chưa có lúc nào lìa nhau. Tùy ở chỗ nào tôi thường làm việc tốt, còn nó thường làm việc xấu. Tôi thường làm việc
lợi ích, còn nó luôn làm sự suy hao. Nếu ai yêu tôi cũng phải yêu nó. Nếu
cung kính tôi, cũng phải
cung kính nó.
Chủ nhà liền nói : Nếu có cả sự tốt lẫn sự xấu như vậy, thời ta chẳng cần, hai nàng nên
tùy ý đi đi.
Lúc đó hai người nữ cùng dắt nhau
trở về. Chủ nhà thấy cả hai đi rồi, trong lòng rất
vui mừng hớn hở.
Bây giờ hai người nữ lại cùng dắt nhau đến một nhà nghèo. Người nghèo nầy lòng rất
vui mừng mời rằng : Từ nay trở đi, xin hai nàng ở luôn nhà tôi.
Công-Đức-Thiên nói :
Chúng tôi vừa bị người
xua đuổi, cớ sao ông lại mời
chúng tôi ở ?
Người nghèo nói : Nay nàng tưởng đến tôi, vì nàng nên tôi phải kính cô kia, vì thế nên tôi mời cả hai ở nơi nhà tôi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sanh
cõi trời, vì sanh thời có già, bịnh, chết, thế nên đều bỏ. Không chút tâm
luyến ái. Kẻ
phàm phu chẳng biết
lỗi lầm khổ hoạn của già, bệnh, chết nên họ
tham luyến sanh tử.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như đứa trẻ dòng Bà-La-Môn đương lúc quá đói thấy trong đống phân có trái am-la, bèn lượm lên. Người trí
ngó thấy quở rằng : Người là Bà-La-Môn, giòng giống
thanh tịnh, cớ sao lại lượm trái nhơ trong đống phân.
Đồng tử nghe xong
hổ thẹn nói : “ Tôi thiệt chẳng ăn, muốn đem trái ấy rửa sạch rồi ném bỏ”. Người trí
nói : “Ngươi
ngu si quá, nếu rồi sẽ ném bỏ,
đáng lẽ chẳng nên lượm lấy.”
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát cũng như vậy, đối với
vấn đề sanh chẳng
lãnh thọ, cũng chẳng dứt bỏ, như người trí kia
quở trách đứa trẻ. Kẻ
phàm phu thích sanh ghét tử, như đứa trẻ kia lượm trái dơ rồi
trở lại bỏ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm ngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây là đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,
sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy
chư Thiên. Nhưng chỉ có một
tai hại là sẽ chết. Người khách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp,
sức mạnh, thấy
chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong hỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lại đem bán.
Người bán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ có kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trả giá đắt cho tôi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sanh
cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng
sức mạnh, thấy
chư Thiên, vì sanh
cõi trời chẳng khỏi những
khổ não. Kẻ
phàm phu ngu si sanh chỗ nào cũng đều
tham luyến vì họ chẳng thấy gìa, bệnh, chết.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể giết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đều có thể hại
chúng sanh cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả. Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười tuổi cũng đều
khổ não cả.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên miệng hầm,
bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, người nào được ăn chất
cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh tật,
an ổn , khoan khoái. Kẻ
ngu si tham chất
cam lồ, chẳng biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ trật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy hiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tát cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng diệu
cõi trời huống là tong
loài người. Kẻ
phàm phu bèn ở nơi
địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là
thức ăn thượng diệu
cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
Nầy Thiện-nam-tử ! Do những điều
thí dụ như vậy,
ngoài ra còn
vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rất khổ.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát sanh là khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát lão là khổ như thế nào ?
Sự già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm
mất sức mạnh,
trí nhớ kém, sự
tráng kiện không còn, mất sự an vui thơ thới, khoan khoái.
Tuổi già hay làm
lưng còm, mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước rất đáng
ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư nát. Cũng vậy,
tuổi già có thể
phá hoại tráng kiện, sắc đẹp.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như quốc vương có một trí thần dùng binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.
Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước nghịch mang về dưng cho
quốc vương. Cũng vậy,
tuổi già bắt được
tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho
tử vương.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào việc gì.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều
của báu : Vàng , bạc,
lưu ly,
san hô,
hổ phách,
xa cừ,
mã não. Có bọn cướp nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả. Cũng vậy, tuổi
tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc già suy cướp giựt.
Nầy thiện-nam-tử !
Ví như người nghèo tham
thức ăn ngon,
y phục mịn màng, dầu có
hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,
tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ
ngũ dục sung sướng mà chẳng thể đặng.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc
ngũ dục thuở
tráng kiện.
Nầy thiện-nam-tử ! Như
mùa thu ai cũng ưa ngắm
hoa sen nở, đến khi
hoa tàn héo,
mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự
tráng kiện, sắc đẹp
mọi người đều
ưa thích, đến khi già suy ai cũng nhàm ghét.
Nầy thiện-nam-tử !
Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không còn vị ngọt. Cũng vậy,
tráng kiện sắc đẹp đã bị già ép, thời không có ba thứ vị : Một là vị
xuất gia, hai là vị
đọc tụng, ba là vị
tọa thiền.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng, ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy,
tráng kiện thời
hình mạo nở nang
xinh đẹp, già
thời suy yếu,
thân thể và
tinh thần kém suy.
Nầy Thiện-nam-tử !
ví như có nhà vua
thường dùng chánh pháp cai trị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối,
từ bi ưa
bố thí. Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn
lưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhà vua đều
cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùng
chánh pháp trị nước chẳng uổng lạm
bá tánh, thế sao nay lại
lưu vong đến đây. Cũng vậy,
loài người đã bị già suy làm
bại hoại, thời thường
tán thán sự nghiệp đã làm thuở
tráng kiện.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ dầu sẽ hết, thế chẳng
lâu dài. Cũng vậy, thân người dầu nhờ cậy sự
tráng kiện, nhưng
tráng kiện phải
trải qua già suy, đâu còn được dùng lâu.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như con sông cạn khô không có thể
lợi ích cho ngưới, cho
phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân người bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng thể có
lợi ích.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến
tuổi già ắt phải chết, thế chẳng thể còn được.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như
trục xe đã gãy, không thể chở chuyên. Cũng vậy, già suy không thể
học hỏi tất cả pháp lành.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy, già suy thường bị người khinh hủy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng
vô lượng thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát
tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát già là khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát bịnh khổ như thế nào ?
Ví như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể
phá hoại tất cả những sự
an ổn vui vẻ.
Như người có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh thường bị
bịnh khổ, lo rầu không yên.
Ví như có người
hình dung xinh đẹp, Vương-phi
tâm dục yêu thương, sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền truyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt một tay, một chân, bấy giờ người đó
hình dung đổi khác bị người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước thời
dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị
bịnh khổ hành hạ, thời
xấu xa bị người nhờm gớm.
Như cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì chết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.
Như vua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm
tiền đạo đi trước, nhà vua
theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa ốc, chúa trâu,
thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời toàn chúng thảy đều
đi theo không rời. Cũng vậy, sự chết thường theo sát
bịnh khổ không rời.
Nầy Thiện-nam-tử !
Nhơn duyên của bịnh làm cho
khổ não, rầu lo, buồn than,
thân tâm không
an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp bức hại, trái nổi bể hư,
phá hoại cầu cống, đều cũng có thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể
phá hoại sự
tráng kiện, sắc đẹp,
thế lực, an vui,
mất lòng tàm quý, có thể làm cho
thân tâm xót xa
bức rức.
Do những điều dụ đó và
vô lượng thí dụ khác, nên biết bịnh rất là
khổ não.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát
tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát bịnh khổ.
Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát
tu hành kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn
quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốt cháy
tiêu diệt. Như
hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ
cõi trời nhị thiền trở lên, vì
thế lực của
hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể
tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-bàn vì
thế lực của sự chết không đến được.
Như lúc
thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập, chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì
thế lực của
thủy tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Như lúc
phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ cõi
tứ thiền, vì
thế lực của
phong tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể
tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì mà gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng cháy đến ?”
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạn trong thân và
ngoại cảnh.
Cõi Sơ- Thiền có quá hoạn : Trong có
giác quán, ngoài có
hỏa tai.
Cõi Nhị-Thiền có quá hoạn : Trong có
vui mừng, ngoài có
thủy tai.
Cõi Tam-Thiên có quá hoạn : Trong có
hơi thở, ngoài có
phong tai.
Cõi Tứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ
tai họa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trong ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến được.
Lại nầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thể tiêu tất cả loài rồng, cá và
châu báu, vàng, bạc
vân vân, chỉ trừ chất
kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả
chúng sanh,
chỉ không tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại nầy Thiện-nam-tử !
Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ cây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tất cả
chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại nầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể
hàng phục tất cả
lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to
vô ngại. Cũng vậy, sự chết có thể
hàng phục tất cả
chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậc nầy
vô ngại.
Lại nầy Thiện-nam-tử !
Ví như có người đối với
kẻ thù giả làm
thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi
thuận tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình
chúng sanh chờ dịp làm hại,
chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầy chẳng
phóng dật.
Lại nầy Thiện-nam-tử !
Ví như trời bỗng mưa
kim cương xối xuống tất cả cỏ cây,
núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng, bạc,
lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ
kim cương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có thể
phá hoại tất cả
chúng sanh, chỉ trừ
kim cương Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại nầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loài rồng,
chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt tất cả
chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Tát trụ ba môn
chánh định : Không,
vô tướng vô nguyện.
Lại nầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắn nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được, chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy, sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ trừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại nầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thể dùng
lời dịu dàng khéo léo, dâng
của cải châu báu mà đặng khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng
lời nói dịu dàng,
tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng
thoát khỏi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm
tối tăm, không có đèn đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không chỗ
đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách gì mà người thấy
sầu khổ, nó không phải màu sắc
xấu xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng hay biết được.
Nầy Ca-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng
vô lượng thí dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát
tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát tử khổ.
NầyThiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết- Bàn
quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làm cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói
bài kệ rằng :
Nhơn ái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.
Vì ái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho
chúng sanh có già suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly hay sanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà
phân biệt rõ ràng.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thuở
quá khứ người sống
vô lượng tuổi, có
quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muôn bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, không làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh một
đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua
vui mừng đặt tên là Đãnh-Sanh.
Thời gian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh, tồi rời bỏ cung điện
quyến thuộc vào núi
tu hành. Ngày rằm Thái-Tử Đảnh-Sanh
lên ngôi, đương ở trên lầu cao tắm gội
trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánh xe vàng đủ một ngàn cây căm
tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vua Sát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội
trai giới, có báu
kim luân đủ ngàn cây căm
tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nên thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân, tay hửu cầm
lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng : Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vua Chuyển-Luân Thánh-Vương thuở
quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa xong, thời báu kim-luân bay lên
hư không, bay khắp
mười phương, rồi
trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhà vua
vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sau đó không bao lâu, có tượng bảo
xuất hiện, mình trắng như bạch liên-hoa,
xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì muốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng
lư hương quì gối bên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu
bạch tượng nên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương
quá khứ. Phát thệ xong,
bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi
trở về cung vua. Kế đó lại có Mã-bửu
xuất hiện, lông màu xanh biếc mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu
vàng ròng. Vì muốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng
lư hương quì gối bên hữu phát thệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như của vua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở
quá khứ. Phát thệ xong, từ sáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé biển rồi
trở về cung vua.
Kế đó lại có Nữ-bảo
xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơn lông thoảng mùi
chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như
hoa sen xanh, mắt sáng nhìn xa một
do tuần, tai nghe, mũi ngữi cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, da mịn láng như lá đồng đỏ, rất
thông minh có
trí huệ,
lời nói dịu dàng đối với tất cả
mọi người. Tay người ấy lúc chạm đến áo của vua, liền
biết thân vua khỏe mạnh hay bịnh hoạn, cũng biết những
ý nghĩ của vua.
Kế đó trong cung vua
tự nhiên có Ma-ni
bảo châu lớn bằng bắp vế của người, màu thuần xanh,
trong suốt, trong
chỗ tối có thể chiếu sáng một
do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn như
trục xe,
thế lực của
bảo châu nầy có thể che một
do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau đó, lại có Chủ- tạng thần
hiện ra, cặp mắt có thể thấy thấu những kho
châu báu ở trong lòng đất,
tùy ý vua muốn đều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèn cùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạng thần : Nay ta muốn đặng
châu báu. Chủ-tạng thần liền lấy hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền
hiện ra mười kho
châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhà vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kế đó lại có chủ-binh thần
xuất hiện, thao lược
đệ nhứt, điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân lính ẩn mất. Xứ nào chưa
hàng phục chủ binh thần nầy có thể làm cho
hàng phục. Xứ nào đã
hàng phục, thời
đủ sức giữ gìn.
Lúc đó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảo các quan :
“ Cõi Diêm-Phù-Đề nầy
an ổn giàu vui, nay
bảy báu đã đủ, cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”
Các quan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,
đại vương nên đem binh qua
chinh phục.”
Vua Đảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơn dân trong châu đó đều
vui mừng qui thuận.
Các quan lại tâu nên
chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến
chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi
chinh phục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đề này cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuận ta, nay đây lại nên làm việc gì ?”
Các quan tâu : “
Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu ,
an ổn, khoái lạc, thân
chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điện nhẫn đến giường ghế toàn bằng
bảy báu, cậy phước trời chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh
đánh dẹp.”
Vua Đảnh-Sanh lại cùng
thất bảo bay lên
cõi trời Đao-Lợi, trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đó là cây gì ?
Đại-thần tâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La,
chư Thiên cõi Đao-Lợi nầy đến ngày
mùa hạ thường tựu hợp
vui chơi dưới cây đó.
Lại trông thấy màu trắng như
bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏi đại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,
chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để
bàn luận những việc
cõi trời cõi người.
Thiên-Chúa Thích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ra
tiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi. Hai vua
hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn nháy là khác nhau.
Lúc đó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúa nầy để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thích vốn
thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vì
chư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa
thông đạt hết thâm nghĩa của kinh. Do
thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đế có
oai đức hơn.
Khi vua Đảnh-Sanh khởi
ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phước liền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc
cõi trời lòng rất
khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnh chết.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là
Phật Ca-Diếp, vua Đảnh-Sanh thời là
tiền thân của ta.
Nầy Thiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là
khổ não.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những
trường hợp ái-biệt-ly khổ thuở
quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng
quán sát sự ái-biệt-ly khổ
trong đời hiện tại !
Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát
tu hành kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn
quán sát oán-tằng-hội khổ ?
Đại-Bồ-Tát nầy
quán sát địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ,
loài người,
trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.
Ví như có người
quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là rất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát
quán sát năm loài
chúng sanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.
Ví như có người thường sợ kẻ oán thù,
gông cùm, xiềng xích, nên bỏ
cha mẹ,
vợ con,
quyến thuộc, cùng
của báu sản nghiệp mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ
sanh tử, nên
tu hành sáu môn Ba-La-Mật,
chứng nhập Niết- Bàn. Đây gọi là Bồ-Tát
tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát oán-tằng-hội khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát
tu hành Đại-thừa Đại-Niết- Bàn
quán sát cầu-bất-đắc khổ ?
Cầu là mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là
cầu pháp lành, hai là
cầu pháp chẳng lành.
Cầu pháp lành mà chưa đặng thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đây là lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là
khổ đế.
Ca-diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói,
ngũ ấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước
Phật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả
chúng sanh lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng gọi là khổ. Lại như
Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ :
Khổ thọ,
lạc thọ, bất khổ
bất lạc thọ. Lại như lúc trước
đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nào có thể
tu hành pháp lành thời đặng
thọ lạc. Lại như
đức Phật nói : Ở trong đường lành sáu căn
lãnh thọ sáu cảnh vui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi,
thân nhẫn đến ý
suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như Phật từng nói kệ :
Trì giới thời là vui, Thân chẳng
thọ sự khổ. Ngủ nghỉ đặng
an ổn,
Thức dậy lòng
vui vẻ. Lúc nhận lấy y thực,
Đọc tụng và
kinh hành, Ở riêng nơi
núi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với
chúng sanh, Ngày đêm tu
lòng từ, Nhơn đây được thường vui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui,
Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán
không chấp, Cũng gọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát,
rốt ráo đến bờ kia. Những
việc làm đã xong, Đây gọi là rất vui.
Thế-Tôn ! Trong các
bộ kinh nói về tướng vui
ý nghĩa như vậy. Thế nào
tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Ông khéo có thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả
chúng sanh đối với sự khổ hạng
hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng
khổ không khác với ngày trước đã nói.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối với sự khổ hạng
hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh, tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội, ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng nên có vui.
Thế-Tôn ! Sanh hạng hạ là ba
ác thú, sanh hạng trung là
loài người, sanh hạng thượng là
trên trời.
Nếu lại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng
hạ tưởng cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không
khổ không vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời phải
trả lời thế nào ?
Thế-Tôn ! Nếu trong sự khổ hạng
hạ tưởng cho là vui, chưa thấy có người nào sẽ
bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơi trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng như lời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vì như người tội kia sẽ
bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanh lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự
không vui lầm tưởng là vui.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánh một trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòng vui.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Nam trong
ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải mâu thuẩn vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là :
Lạc thọ,
khổ thọ và bất khổ
bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,
hành khổ,
hoại khổ.
Nầy T.hiện-nam-tử !
Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,
hành khổ và
hoại khổ. Hai món thọ kia chính là
hành khổ và
hoại khổ. Do đây nên trong
sanh tử thiệt có
lạc thọ. Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìa nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Trong
sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát
tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếu
tùy theo thế tục mà nói, thời là có
hư vọng chăng ? Như Phật thường nói, người
tu hành pháp lành thời thọ
quả báo vui.
Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến
việc làm đã xong đây là rất vui.
Lời nói thọ vui trong các kinh như vậy, chừng có
hư vọng chăng . Nếu là
hư vọng, thời chư Phật Thế-tôn trong
vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếp
tu hành đạo bồ-đề đã lìa
vọng ngữ. Nay Phật nói như vậy
ý nghĩa thế nào ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Như
bài kệ nói về những sự
thọ lạc trước kia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡng
vô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước nói tướng vui như vậy.
Ví như trong
thế gian những đồ
cần dùng cho
đời sống, có thể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như
nữ sắc, rượu uống, đồ
ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được lửa,
y phục,
chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng, bạc,
lưu ly,
san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vật như vậy người đời
cần dùng có thể làm nhơn cho sự vui nên gọi là vui.
Nầy Thiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ. Nhơn nơi
nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn đến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ
ăn ngon, nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều
khổ không có tướng
rốt ráo vui.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểu rỏ là khổ nên không bị khổ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biết nhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vui nầy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết- Bàn
quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát
quán sát tập đế là
nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là
trở lại ái-luyến nơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là ái đồ
cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ
dục lạc, lúc chưa đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm trước. Lại có ba thứ :
dục ái,
sắc ái,
vô sắc ái. Lại có ba thứ : Nghiệp
nhơn duyên ái,
phiền não nhơn duyên ái, khổ
nhơn duyên ái. Người
xuất gia có bốn thứ ái :
Y phục, đồ
ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ :
Tham lam nơi
ngũ ấm, tùy chỗ
cần dùng tất cả đều
tham ái toan tính
phân biệt vô-lượng vô-biên.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là
bất thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu
bất thiện ái. Các vị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ :
Bất thiện và thiện.
Cầu pháp Nhị-thừa gọi là
bất thiện.
Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
Nầy Thiện-nam-tử ! Kẻ
phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳng gọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là
thật đế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ
chúng sanh nên
thị hiện thọ sanh, chẳng phải vì
tham ái mà thọ sanh.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác
đức Phật vì
chúng sanh mà nói nghiệp làm
nhơn duyên, hoặc nói
kiêu mạn, hoặc nói
lục xúc, hoặc nói
vô minh làm
nhơn duyên mà có
ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì
đức Phật nói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho
ngũ ấm.
Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Đúng như lời ông vừa nói, các
nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải nhơn, chỉ vì
năm ấm cần phải nhơn nơi ái.
Ví như quốc vương lúc đi tuần du các quan
quyến thuộc thảy đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các
kiết sử cũng
đi theo.
Ví như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Ví như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể sanh tất cả mầm nghiệp
phiền não.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như
thiếu nợ, hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có
rắn độc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm là như
dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như
thiếu nợ là thế nào !
Ví như người nghèo cùng thiếu
tiền của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên
bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác vì còn
tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng
vô thượng bồ-đề.
Như vợ La-Sát là thế nào ?
Ví như có người lấy gái La-Sát làm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền
ăn thịt,
ăn thịt con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người sanh
thiện căn nó liền ăn, ăn hết
thiện căn nó lại ăn luôn cả người làm cho phải đọa
địa ngục,
súc sanh ngã quỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như cọng hoa đẹp có
rắn độc vấn là thế nào ? Như có người thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có
rắn độc, liền đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả
phàm phu tham đắm
ngũ dục mà chẳng thấy
độc hại của ái, nên bị ái làm hại,
sau khi chết đọa trong
ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Vật thực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ăn vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết.
Chúng sanh trong
ngũ đạo vì
tham ái mà phải bị đọa trong
ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
dâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu
tư thông với
dâm nữ,
dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết
tiền của rồi
xua đuổi người ấy. Người ngu không có
trí tuệ bị
tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi
xua đuổi vào trong
ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như hột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩn chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây to làm cho khô chết,
tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp lành không
tăng trưởng nhẫn đến khô diệt,
sau khi chết đọa vào
ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịt thúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt, trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải
chuyên tâm chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng có thể phải chết,
ngũ ấm của
phàm phu cũng như vậy, ái sanh trong đó, phải nên siêng năng
điều trị tham ái,
nếu không điều trị sẽ phải đọa trong
ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như gió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngã cây. Cũng vậy,
tham ái sanh tâm ác đối với
cha mẹ, có thể làm ngã trốc cội cây
vô thượng Bồ- Đề của các ông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất
vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như sao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong
thiên hạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy, ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho
phàm phu cơ cùng
thiếu thốn sanh bịnh
phiền não lưu chuyển trong
sanh tử mang nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bàn
quán sát tham ái có chín thứ như vậy.
Do nghĩa trên đây, hàng
phàm phu có khổ,
không đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có
khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Tát hiểu
khổ không có khổ mà có
chơn đế. Hàng
phàm phu có tập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có
tập đế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có
chơn đế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn. Đại-Bồ-Tát có diệt có
chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có
chơn đế.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn thấy diệt cùng thấy diệt-đế ? Chính là dứt trừ tất cả
phiền não, nếu
phiền não đã dứt thời gọi là thường. Dứt lữa
phiền não thời gọi là
tịch diệt. Vì
phiền não diệt nên đặng hưởng thọ chơn lạc. Chư Phật và Bồ-Tát cho nguyện cầu nên gọi là tịnh, chẳng còn thọ thân trong hai mươi lăm cõi nên gọi là
xuất thế. Do
xuất thế nên gọi là ngã, là thường. Đối với sắc, thinh, hương, vị xúc, nam, nữ, sanh, trụ, diệt, khổ, lạc, bất khổ,
bất lạc, đều chẳng chấp lấy
tướng mạo nên gọi là
rốt ráo tịch diệt chơn đế. Đây là Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát diệt Thánh-đế.
Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát đạo Thánh-đế ?
Ví như trong tối nhơn đèn mà đặng thấy những vật lớn nhỏ. Cũng vậy, Đại- Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn nhơn bát thánh-đạo mà thấy tất cả pháp : Thường,
vô thường,
hữu vi,
vô vi,
chúng sanh, phi
chúng sanh, vật, phi vật, khổ, lạc, ngã,
vô ngã, tịnh,
bất tịnh,
phiền não, phi
phiền não, nghiệp,
phi nghiệp, thật, phi thật, thừa, phi thừa, tri, bất tri, đà-la-phiên, phi-đà-la-phiên,
cầu na, phi
cầu na, kiến, phi kiến, sắc,
phi sắc, đạo,
phi đạo, giải, phi giải. Bồ-Tát trụ nơi Đạïi- thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát đạo Thánh-đế như vậy”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Nếu tám Thánh-đạo là đạo Thánh-đế thời nghĩa chẳng
tương ứng. Như
đức Phật hoặc có lúc nói
lòng tin là đạo có thể
thoát khỏi các
phiền não. Hoặc có lúc nói chẳng
phóng dật là đạo vì chư Phật chẳng
phóng dật nên đặng
vô thượng Bồ-đề, và cũng là phép
trợ đạo của Bồ- Tát. Hoặc có lúc nói
tinh tấn là đạo, như
Phật bảo A-Nan nếu có người siêng tu
tinh tấn thời đặng thành
vô thượng Bồ-đề. Hoặc có lúc nói
quán thân niệm xứ, nếu
chuyên tu tập
thân niệm xứ nầy đặng thành
vô thượng bồ-đề. Hoặc có lúc nói
chánh định là đạo. Như
Phật bảo Ma-Ha-Ca-Diếp :
Chánh định là đạo chơn thật, nếu nhập
chánh định bèn có thể
tư duy sự
sanh diệt của
ngũ ấm, chẳng nhập thời không thể
tư duy. Hoặc có lúc nói một pháp : Nếu người
tu tập cói thề
thanh tịnh chúng sanh, dứt trừ tất cả
ưu sầu khổ não chứng đặng
chánh pháp, tức là
niệm Phật tam muội. Hoặc Phật lại nói rằng
tu quán tưởng vô thường thời gọi là đạo có thể chứng đặng
vô thượng Bồ-đề. Hoặc Phật nói
không tịch ở nơi A-Lan-Nhã, ngồi
một mình tư duy có thể mau chứng đặng
vô thượng Bồ-đề. Hoặc có lúc Phật nói : Vì người
diễn thuyết thời gọi là đạo, nếu người
nghe pháp dứt được lưới nghi thời chứng đặng
vô thượng Bồ-đề. Hoặc có lúc Phật nói
trì giới là đạo, nếu người
tinh tấn tu trì giới cấm, người nầy
thoát khỏi khổ
sanh tử. Hoặc có lúc Phật nói gần gũi Thiện-hữu gọi là đạo, như
Phật bảo A-Nan : Người gần gũi thiện-tri-thức thời đầy đủ
tịnh giới nếu có
chúng sanh nào gần gũi nơi
Phật thời đặng
phát tâm vô thượng Bồ-đề. Hoặc có lúc Phật nói tu
lòng từ là đạo, người
tu học lòng từ dứt các
phiền não thời đặng bực
bất động. Hoặc có lúc Phật nói
trí huệ là đạo, như ngày trước Phật vì Tỳ-kheo-ni Ba-Xà-Ba-Đề mà nói rằng : Nầy Tỳ-kheo-ni ! Như hàng Thanh-Văn
dùng sức trí huệ dứt được các lậu
phiền não. Hoặc có lúc Phật nói
bố thí là đạo, như ngày trước
Phật bảo vua Ba- Tư-Nặc : Nầy Đại-Vương ! Ngày trước
đức Phật làm nhiều việc
bố thí do đó mà nay đặng thành
vô thượng Bồ-đề.
Bạch Thế-Tôn ! Nếu
bát thánh đạo là
đạo đế, những kinh như vậy há chẳng phải là
hư vọng. Nếu những kinh đó chẳng phải
hư vọng thời
duyên cớ gì trong những kinh đó chẳng nói
bát thánh đạo là đạo
thánh đế. Nếu những kinh đó chẳng nói, dễ thường ngày trước đức Như-Lai có lầm lộn. Nhưng tôi
quyết định biết rằng chư Phật từ lâu đã lìa lầm lộn.
Đức Phật khen Ca-Diếp-Bồ-Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy thiện-nam-tử ! Nay ông muốn biết Kinh-diển Đại-thừa
vi diệu có những pháp
bí mật nên hỏi như vậy. Những kinh ngày trước như vậy đều vào trong đạo
thánh đế.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như ta nói
lòng tin là đạo.
Tín căn nầy có thể
tá trợ đạo bồ- đề. Vì thế nên lời Phật nói không có lầm lộn. Đức Như-Lai khéo biết
vô lượng phương tiện vì muốn
hóa độ chúng sanh nên sự
thuyết pháp có nhiều loại.
Ví như lương y biết các căn bịnh của
chúng sanh,
tùy theo bịnh mà hiệp thuốc và những thứ cấm kỵ đối với thuốc. Chỉ nước chẳng ở trong lệ cấm. Hoặc cho uống nước gừng, nước cam thảo, nước tế tân, nước đường phèn, nước trái a-ma- lặc, nước ni-ba-la, hoặc nước bát-trú-la, hoặc cho uống nước lạnh, nước nóng, nước nho, nước
thạch lựu.
Nầy Thiện-nam-tử !
Lương y ấy khéo biết căn bịnh của
chúng sanh. Dầu rằng thuốc có nhiều sự cấm kỵ, nhưng chỉ có nước là không ở trong lệ cấm.
Cũng như vậy, đức Như-Lai khéo biết
phương tiện, trong một
pháp tướng tùy theo các loài
chúng sanh mà
phân biệt diễn thuyết nhiều loại
danh tướng. Các loài
chúng sanh kia
tùy theo chỗ
lãnh thọ của họ mà
tu tập, dứt
trừ phiền não. Như người bịnh kia theo
lời dặn cũa
lương y mà bịnh được lành.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như có một người biết nhiều thứ tiếng
ở chung trong
đại chúng. Một hôm
đại chúng khát nước đều kêu rằng : Tôi muốn uống nước ! Tôi muốn uống nước ! Người đó liền đem nước mát lạnh
tùy theo từng người mà trao cho uống. Hoặc nói là ba-ni, hoặc nói là uất-đặt, hoặc nói là xa-lỵ-lam, hoặc nói là ba-lỵ, hoặc nói là ba-da, hoặc nói là cam-lồ, hoặc nói là ngu-nhũ, dùng
vô lượng tên nước như vậy để nói với
đại chúng. Cũng vậy, đức Như-Lai dùng một
thánh đạo vì hàng Thanh-Văn mà
diễn thuyết nhiều cách : Từ Tín-căn
vân vân đến bát thánh-đạo.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như thợ kim hoàn dùng một chất vàng
tùy ý tạo làm các thứ trang sức : Dây chuyền, vòng, xuyến, xoa, khoen tai, mão, ấn. Dầu làm nhiều thứ chẳng đồng nhưng chẳng rời chất vàng. Cũng vậy, đức Như-Lai dùng một
Phật đạo,
tùy theo mọi loài
chúng sanh mà
phân biệt diễn thuyết. Hoặc nói một thứ, như nói chư Phật một đạo không hai. Hoặc nói hai thứ là định và huệ. Hoặc nói ba thứ là kiến, trí và huệ. Hoặc nói bốn thứ là kiến-đạo,
tu đạo,
vô học đạo, và
Phật đạo. Hoặc nói năm thứ là tín-hành-đạo, pháp-hành-đạo, tín-giải- thoát-đạo, kiến-đáo-đạo,
thân chứng đạo. Lại nói sáu thứ là Tu-Đà-Hoàn-Đạo, Tư- Đà- Hàm-Đạo, A-Na-Hàm-Đạo, A-La-Hán-Đạo, Bích-Chi-Phật Đạo, và Phật-Đạo. Lại nói bảy thứ là niệm-giác-phần, trạch-pháp-giác-phần, tinh-tấn-giác-phần, hỷ- giác-phần, trú-giác-phần, định-giác-phần và xả-giác-phần. Lại nói tám thứ là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh- tấn, chánh-niệm, và chánh-định. Lại nói chín thứ là bát-thánh-đạo, và tín. Lại nói mười thứ là thập-lực. Lại nói mười một thứ là thập-lực và đại-từ. Lại nói mười hai thứ là thập-lực đại-từ và đại-bi. Lại nói mười ba thứ là thập-lực đại- từ, đại-bi và
niệm Phật tam-muội. Lại nói mười sáu thứ là thập-lực, đại-từ, đại-bi, niệm- Phật tam-muội và ba chánh-niệm. Lại nói hai mươi đạo là thập-lực, tứ-vô- sở- úy, đại-từ, đại-bi, niệm-Phật tam-muội và ba chánh-niệm.
Đạo-chỉ là
một thể, ngày trước đức Như-Lai vì
chúng sanh mà
phân biệt diễn nói sai khác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như một thứ lửa, nhơn nơi chỗ nó đốt cháy mà có nhiều tên sai khác, như lửa cây, lửa cỏ, lửa trấu, lửa phân bò, lửa phân ngựa. Cũng vậy,
Phật đạo chỉ là một không có hai vì
chúng sanh mà
phân biệt sai khác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như một thức
phân biệt nói có sáu, nếu đến nơi
nhãn căn, thời gọi là
nhãn thức, nhẫn đến nơi ý-căn thời gọi là ý-thức. Đạo cũng như vậy, chỉ là một không hai vì
hóa độ chúng sanh mà
phân biệt sai khác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như một
sắc pháp, mắt thấy thời gọi là sắc, tai nghe gọi là tiếng, mũi ngửi thời gọi là mùi, lưỡi nếm thời gọi là vị, thân
cảm giác thời gọi là xúc. Đạo cũng như vậy, là một không có hai, vì muốn
hóa độ chúng sanh nên đức Như-Lai
phân biệt sai khác.
Do nghĩa nầy nên bát-thánh-đạo gọi là đạo thánh-đế.
Nầy Thiện-nam-tử !Bốn
thánh đế nầy chư Phật theo thứ lớp mà giảng nói. Do đây
vô lượng chúng sanh đặng
thoát khỏi sanh tử.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Ngày trước có một lúc Phật ở trong rừng Thi-Thủ trên
bờ sông Hằng, đức Như-Lai lấy lá cây bảo các Tỳ-kheo : Lá trong tay của ta đây là nhiều hay tất cả lá trên mặt địa cầu là nhiều ? Các Tỳ- kheo
bạch Phật tất cả lá trên địa cầu rất nhiều không
thể tính đếm, lá trong tay Phật cầm rất ít không
đáng kể.
Phật bảo các Tỳ-kheo : Những pháp mà ta
giác ngộ nhiều như những lá cỏ cây trên địa cầu, còn pháp mà ta vì
chúng sanh tuyên nói như mấy chiếc lá trong bàn tay.
Bạch Thế-Tôn !
Cứ theo lời của Phật, thời đức Như-Lai rõ biết
vô lượng pháp- môn, nếu vào trong bốn thánh-đế thời như đã nói, còn nếu chẳng vào nơi bốn thánh-đế lẽ ra phải có năm đế.
Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát :
Lành thay !
Lành thay ! Lời hỏi của ông có thể
lợi ích an vui
vô lượng chúng sanh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Những
pháp môn như vậy đều đã nhiếp ở trong bốn thánh- đế.
Ca-Diếp Bồ-Tát lại
bạch Phật : Những
pháp như vậy ở trong
bốn thánh đế cớ sao đức Như-Lai xướng rằng chẳng nói ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Dầu là nhiếp trong
bốn thánh đế nhưng còn chẳng gọi là đã nói, vì người rõ biết
bốn thánh đế có hai thứ trí : Một là trí
bực trung, hai là trí bực thượng.
Bực trung là trí của Thanh-Văn Duyên-Giác. Bực thượng là trí của chư Phật và Bồ-Tát.
Biết thân ngũ ấm là khổ thời gọi là trí
bực trung,
phân biệt các ấm có
vô lượng tướng thảy đều là khổ thời chẳng phải hàng Thanh- Văn Duyên-Giác biết được, đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta trọn chẳng nói đến.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết các nhập gọi đó là môn cũng gọi là khổ, đây gọi là trí
bực trung.
Phân biệt các nhập có
vô lượng tướng thảy đều là khổ thời chẳng phải hàng Thanh-Văn Duyên-Giác biết được, đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết các giới gọi đó là phần, cũng gọi là tánh, cũng gọi là khổ, đây là trí
bực trung,.
Phân biệt các giới có
vô lượng tướng thảy đều là khổ thời chẳng phải hàng Thanh-Văn Duyên-Giác biết được đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết sắc là tướng hư-hoại, đây là trí
bực trung.
Phân biệt các sắc có
vô lượng tướng hư hoại thảy đều là khổ, thời chẳng phải hàng Thanh- Văn Duyên-Giác biết được đây lại gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết thọ là tướng
giác xúc đây gọi là trí
bực trung.
Phân biệt các thọ có
vô lượng tướng
giác xúc thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên- Giác biết được, đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết tưởng là chấp lấy tướng đây gọi là trí
bực trung.
Phân biệt nơi tưởng có
vô lượng tướng chấp lấy, thời chẳng phải hàng Thinh- Văn Duyên-Giác biết được, đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác, ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết hành là tướng tạo-tác, đây gọi là trí
bực trung.
Phân biệt nơi hành có
vô lượng tướng tạo tác thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên- Giác biết được, đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết thức là tướng
phân biệt, đây gọi là trí
bực trung.
Phân biệt nơi thức có
vô lượng trí tướng, thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên- Giác biết được, đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết ái làm
nhơn duyên có thể sanh
năm ấm đây gọi là trí
bực trung. Một người sanh ra ái
vô lượng vô biên, hàng Thinh-Văn Duyên- Giác không biết được. Có thể biết tất cả
chúng sanh khởi lên lòng có những ái như vậy đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa ấy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết dứt
phiền não đây gọi là trí
bực trung,
phân biệt phiền não chẳng
thể tính đếm, dứt diệt cũng chẳng
thể tính đếm như vậy thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết đạo có thể lìa
phiền não đây gọi là trí
bực trung.
Phân biệt đạo có
vô lượng vô biên tướng, lìa
phiền não cũng
vô lượng vô biên thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa ấy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Biết thế-đế gọi là trí
bực trung.
Phân biệt thế-đế
vô lượng vô biên chẳng
thể tính đếm thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa ấy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả hạnh
vô thường, các
pháp vô ngã, Niết-bàn
tịch diệt, đây là
đệ nhứt nghĩa, gọi là trí
bực trung. Biết
đệ nhứt nghĩa vô lượng vô biên chẳng
thể tính đếm thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được đây gọi là trí bực thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn !
Đức Phật nói thế-đế và
đệ nhứt nghĩa-đế
ý nghĩa thế nào ? Bạch Thế-Tôn trong
đệ nhứt nghĩa-đế có thế- đế chăng ? Trong thế-đế có đệ-nhứt nghĩa-đế chăng ? Nếu là có thời có một đế. Nếu là không, chừng có phải đức Như-Lai
hư vọng diễn thuyết chăng ?”
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Thế-đế chính là đệ-nhứt nghĩa-đế.
_ Bạch Thế-Tôn ! Nếu như vậy thời không có hai đế.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Có
phương tiện khéo tùy thuận chúng sanh diễn thuyết hai đế. Nếu
cứ theo ngôn thuyết thời có hai thứ : Một là
thế pháp, hai là
xuất thế pháp.
Như chỗ biết của người
xuất thế. Thời gọi là
đệ nhứt nghĩa-đế. Chỗ biết của người đời thời gọi là thế-đế.
Nầy Thiện-nam-tử !
Năm ấm hòa hiệp gọi tên
mỗ giáp.
Phàm phu chúng sanh tùy theo tên gọi đó là
thế đế.
Hiểu biết năm ấm không có tên
mỗ giáp, rời
ngũ ấm cũng không có
mỗ giáp, người
xuất thế đúng như
tánh tướng mà
hiểu biết, gọi là
đệ nhứt nghĩa đế.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hoặc có pháp có tên có sự thiệt. Lại có pháp có tên không sự thiệt. Có tên không sự thiệt chính là thế-đế. Có tên có sự thiệt là
đệ nhứt nghĩa-đế.
Như : Ngã,
chúng sanh,
thọ mạng,
tri kiến,
dưỡng dục,
sĩ phu,
tác giả,
thọ giả dương-diệm, thành Càn-Thát-Bà, lông rùa,
sừng thỏ, vòng lửa xây, các ấm, giới, nhập… Đây gọi là thế-đế. Khổ, tập, diệt, đạo, gọi là
đệ nhứt nghĩa- đế.
Thế-pháp có năm thứ : Một là danh thế, hai là cú thế, ba là phược thế, bốn là pháp thế, năm là chấp-trước-thế.
Nam, Nữ, Bình, Áo, Xe, Nhà…… Những vật nầy gọi đó là danh-thế.
Bốn câu thành một
bài kệ, những
bài kệ như vậy gọi là cú thế.
Cuốn, hiệp, trói, cột, chắp, tay… đây gọi là phược thế-đế.
Đánh kiền-chùy nhóm tăng, chiêng trống răn quân lính, thổi ốc để biết giờ… đây gọi là pháp thế.
Như trông thấy đằng xa có người mặc y
hoại sắc tưởng là Sa-Môn chẳng phải Bà-La-Môn, thấy có người gút dây đeo trên thân bèn nghĩ rằng là Bà-La- Môn chẳng phải Sa-Môn, đây là chấp-trước thế-đế.
Như trên đây gọi là năm thứ thế-pháp.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu có
chúng sanh nào đối với năm thứ
thế pháp như vậy
tâm không điên đảo biết đúng
như thật đây gọi là
đệ nhứt nghĩa-đế.
Lại như hoặc đốt, hoặc cắt, hoặc chết, hoặc hoại, đây gọi là thế-đế.
Không đốt, không cắt, không chết, không hoại, đây gọi là đệ-nhứt nghĩa- đế.
Lại có tám tướng khổ gọi là
thế đế, không sanh, không già
vân vân, đây gọi là đệ-nhứt nghĩa-đế.
Ví như một người có nhiều tài : Lúc họ chạy thời gọi là người chạy, lúc gặt cắt lại gọi là người gặt, lúc nấu nường thời gọi là người làm đồ ăn, lúc cưa đẽo cây gỗ thời gọi là thợ mộc, lúc nấu đập
vàng bạc thời gọi là thợ bạc. Chỉ có một người mà có nhiều
danh hiệu. Pháp cũng như vậy , thiệt chỉ là một mà có nhiều tên. Nhơn nơi
cha mẹ hòa hiệp mà sanh gọi là thế-đế. Mười hai
nhơn duyên hòa hiệp mà sanh gọi là đệ-nhứt nghĩa-đế.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn !
Thật đế của Phật nói
ý nghĩa thế nào ?”
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Thật-đế là pháp chơn thật. Nếu pháp chẳng phải chơn thời chẳng gọi là thật-đế. Thật-đế là không
điên đảo. Thật-đế là không
hư vọng. Thật-đế gọi là đại-thừa. Thật-đế là lời của Phật nói chẳng phải lời của ma. Thật-đế là đạo
duy nhứt thanh tịnh không có hai, có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, thời gọi là nghĩa thật-đế.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Nếu cho chơn thật là thật-đế thời pháp chơn thật tức là Như-Lai,
hư không,
Phật tánh. Nếu như vậy thời Như-Lai,
hư không và
Phật tánh không có sai khác.”
Phật bảo Văn-Thù Sư-Lợi : Có khổ, có đế, có thật. Có tập có đế có thật. Có diệt có đế có thật. Có đạo có đế có thật.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như-Lai chẳng phải khổ chẳng phải đế là “thật”.
Hư không chẳng phải khổ chẳng phải đế là “thật”.
Phật tánh chẳng phải khổ chẳng phải đế là “thật”.
Khổ là tướng
vô thường, là tướng dứt được đó là
thật đế. Như-Lai tánh chẳng phải khổ chẳng phải
vô thường chẳng phải tướng dứt được vì thế nên là thật.
Hư không và
Phật tánh cũng như vậy.
Tập là có thể làm cho
ngũ ấm hòa hiệp mà sanh, cũng gọi là khổ cũng gọi là
vô thường, là tướng dứt được, đây là
thật đế,. Như-Lai chẳng phải là tập, chẳng phải nhơn của
ngũ ấm, chẳng phải tướng dứt được vì thế nên là thật.
Hư không và
Phật tánh cũng như vậy.
Diệt là nói
phiền não dứt diệt cũng là thường, cũng là
vô thường, hàng
nhị thừa chứng đặng gọi là
vô thường, chư Phật chứng đặng thời gọi là thường, cũng gọi là pháp chứng đặng, đây là
thật đế, Như-Lai tánh chẳng gọi là diệt, có thể dứt diệt
phiền não, chẳng phải thường chẳng phải
vô thường, chẳng gọi là
chứng tri,
thường trụ không
biến đổi, vì thế nên là thật.
Hư không và
Phật tánh cũng như vậy.
Đạo là có thể dứt
phiền não cũng là thường cũng là
vô thường, là pháp có thể
tu tập, đây gọi là
thật đế. Như-Lai chẳng phải đạo có thể dứt
phiền não, chẳng phải là thường chẳng phải
vô thường, chẳng phải pháp có thể
tu tập,
thường trụ chẳng
biến đổi, vì thế nên là thật.
Hư không và
Phật tánh cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Chơn thật chính là Như-Lai. Như-Lai chính là chơn thật.
Hư không và
Phật tánh cũng như vậy.
Nầy Văn-Thù Sư-Lợi có khổ, có khổ nhơn, có khổ tận, có khổ đối. Như-Lai chẳng phải khổ nhẫn đến chẳng phải đối, vì thế nên là thật, chẳng gọi là đế.
Hư không và
Phật tánh cũng như vậy.
Khổ là hữu-vi hữu-lậu không
an lạc. Như-Lai chẳng phải hữu-vi chẳng phải hữu- lậu, đứng lặng an vui, nên là thật chẳng phải đế.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật : Thế-Tôn như lời Phật nói chẳng
điên đảo gọi là
thật đế, nếu như vậy trong
tứ đế có bốn thứ
điên đảo chăng ? Nếu là có, sao lại nói rằng không có
điên đảo gọi là
thật đế ! Tất cả
điên đảo chẳng gọi là thật.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả
điên đảo đều vào trong khổ-đế. Như
chúng sanh có tâm
điên đảo thời gọi là
điên đảo.
Ví như có người chẳng
lãnh thọ lời dạy răn của
cha mẹ tôn trưởng, hoặc dầu
lãnh thọ mà không
tùy thuận thật hành, người nầy gọi là
điên đảo.
Điên đảo như vậy chẳng phải không là khổ mà chính là khổ.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật : “ Như lời Phật nói chẳnghư vọng chính là
thật đế. Nếu như vậy thời biết rằng
hư vọng chẳng phải thật đế”.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả
hư vọng đều vào trong
khổ đế. Như có
chúng sanh khi dối người khác, do
nhơn duyên nầy đọa nơi
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỉ, đây gọi là
hư vọng, cũng chính là khổ. Những điều đó hàng Thinh-Văn Duyên- Giác cùng chư Phật đều
xa lìa chẳng thật hành, vì thế nên gọi là
hư vọng. Những điều
hư vọng như vậy là chỗ dứt trừ của
nhị thừa và chư Phật, nên gọi là
thật đế.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật : “ Như lời Phật nói Đại-thừa là
thật đế. Do đó biết rằng Thinh-Văn thừa và
Bích-Chi Phật thừa thời là chẳng thật.”
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Hàng
nhị thừa cũng là thật cũng là chẳng thật. Thinh-Văn Duyên-Giác dứt các
phiền não thời gọi là thật. Hàng
nhị thừa vô thường chẳng trụ là pháp
biến đổi nên gọi là chẳng thật.
Văn-thù Sư-Lợi
bạch Phật : “ Như lời Phật nói những pháp của
đức Phật nói gọi là thật.
Do đó biết rằng
lời nói của ma thời chẳng phải thật. Bạch Thế-Tôn !
Lời nói của ma có nhiếp trong thánh-đế chăng ?”
Nầy Thiện-nam-tử !
Lời nói của ma nhiếp trong hai đế là khổ và tập. Phàm tất cả những điều
phi pháp phi luật không thể làm cho người được
lợi ích, dầu cả ngày diễn nói cũng không có người nào thấy được khổ, dứt được tập, chứng được diệt, tu được đạo, đây gọi là
hư vọng. Những điều
hư vọng như vậy cũng đều là
lời nói của ma.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật : “ Như lời Phật nói đạo
duy nhứt thanh tịnh không có hai. Các phái
ngoại đạo cũng nói ta có đạo
duy nhứt thanh tịnh không hai. Nếu cho rằng đạo
duy nhứt là
thật đế thời cùng với
ngoại đạo kia có sai khác gì.
Nếu không sai khác thời lẽ ra chẳng nên nói rằng đạo
duy nhứt thanh tịnh.”
_Nầy Thiện-nam-tử ! Các phái
ngoại đạo có
khổ đế và
tập đế mà không
diệt đế và
đạo đế. Ở trong chẳng phải
diệt đế chẳng phải
đạo đế, mà họ tưởng là diệt là đạo. Ở trong chẳng phải quả chẳng phải nhơn, mà họ tưởng là quả là nhơn. Do nghĩa nầy nên họ không có đạo
duy nhứt thanh tịnh không hai.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật : “ Như lời Phật nói có : Thường, lạc, ngã, tịnh là thật nghĩa, thời các phái
ngoại đạo lẽ ra cũng có thật-đế mà trong
Phật pháp thời không. Vì các phái
ngoại đạo nói hạnh là thường. Thế nào là thường ? Vì
khả ý, bất
khả ý, các
nghiệp báo vân vân. Khi thọ rồi thời chẳng mất. Khả-ý là nói mười báo lành. Bất
khả ý là nói mười báo chẳng lành. Nếu cho rằng các hạnh thảy đều
vô thường, kẻ tạo nghiệp đã chết mất thời ai ở nơi kia mà thọ
quả báo. Do nghĩa nầy nên các hạnh là thường.
Sát sanh nhơn duyên gọi là thường. Nếu cho rằng
vô thường thời kẻ giết cùng
bị giết đều
vô thường cả, còn ai ở nơi
địa ngục mà
thọ tội báo. Nếu nói
quyết định có
địa ngục thọ báo, thời các hạnh thiệt chẳng phải là
vô thường.
Chuyên tâm ghi nhớ cũng gọi là thường, như chỗ nhớ biết
trải qua mười năm nhẫn đến trăm năm cũng chẳng quên mất, vì thế nên là thường. Nếu là
vô thường thời những việc đã thấy biết lấy gì để nhớ. Do cớ ấy nên tất cả các hạnh chẳng phải là
vô thường. Tất cả sự tưởng nhớ cũng là thường. Như có người ngày trước thấy tay chưn mặt mày đầu cổ của người khác, lúc sau gặp lại liền nhớ biết. Nếu là
vô thường thời những tướng thấy biết ngày trước lẽ ra đã diệt mất. Nghề nghiệp tạo tác do tập học từ lâu, hoặc ba năm hoặc năm năm rồi sau mới giỏi, nên gọi là thường.
Phương pháp tính đếm từ một, hai, ba nhẫn đến trăm ngàn, nếu là
vô thường lẽ ra một phải diệt, nếu một đã diệt thời lấy chi đến hai. Do một chẳng diệt nên được đến hai, nhẫn đến trăm ngàn, vì thế nên là thường. Như
phương pháp đọc tụng : Đọc Nhứt-A-Hàm rồi đến Nhị-A-Hàm, nhẫn đến Tam tứ A-Hàm. Nếu là
vô thường thời chỗ
đọc tụng trọn chẳng đến bốn. Do sự
đọc tụng có
tăng trưởng nên gọi là thường. Bình, y, xe cộ, như người
mang nợ,
hình tướng, địa cầu, núi, sông, cây rừng, cây cỏ, lá thuốc,
chúng sanh trị bịnh tất cả đều là thường cũng như vậy. Các phái
ngoại đạo đều nói rằng các hạnh là thường. Nếu là thường thời là
thật đế.
Bạch Thế-Tôn ! Các phái
ngoại đạo lại nói lạc. Thế nào biết rằng có ? Vì người
thọ quyết định đặng báo
khả ý. Phàm người
thọ lạc quyết định đặng đó. Như Đại-Phạm-Thiên-Vương, Đại-Tự-Tại-thiên, Thích-Đề-Hòan-Nhơn, và
chư Thiên. Do nghĩa nầy nên nói rằng
quyết định có lạc. Lại vì
chúng sanh mong cầu nên
ngoại đạo nói rằng có lạc. Như người đói cầu ăn, người khát cầu uống, người lạnh cầu ấm, người nóng cầu mát, người mệt nhọc cầu ngơi nghỉ, người bịnh cầu lành.
Nếu không có lạc thời những người kia
duyên cớ gì mà cầu. Do vì có người cầu nên biết rằng có lạc.
Các phái
ngoại đạo lại cho rằng
bố thí có thể đặng lạc. Người đời ưa
bố thí cho Sa-Môn Bà-La-Môn và kẻ nghèo cùng khốn khổ những
y phục, vật thực, giường ghế, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, hương bột, hương thoa, nhà cửa, đèn đuốc.
Bố thí những thứ như vậy vì muốn
đời sau tôi được
thọ báo khả ý. Vì thế nên biết rằng
quyết định có lạc.
Có phái
ngoại đạo nói rằng người
thọ lạc vì có
nhơn duyên nên có lạc xúc.
Nếu không lạc đâu thành có
nhơn duyên, như
sừng thỏ không có, thời không
nhơn duyên. Vì có
nhơn duyên lạc, nên biết rằng có lạc.
Ngoại đạo lại nói lạc có thượng trung và hạ.
Thọ lạc bực hạ như Thích-Đề- Hoàn-Nhơn.
Thọ lạc bực trung như Đại-Phạm-thiên-Vương.
Thọ lạc bực thượng như Đại-Tự-Tại-Thiên. Vì thế nên biết rằng có lạc.
Ngoại đạo lại nói rằng có tịnh.
Nếu không tịnh thời lẽ ra chẳng sanh lòng mong muốn. Vì có mong muốn nên biết là có tịnh. Như
vàng bạc,
châu báu,
lưu ly,
pha lê,
xa cừ,
mã não,
san hô, chân châu, bích ngọc, kha bối, suối mát, ao tắm, vật thực,
y phục, hoa hương, đèn đuốc, những vật như vậy đều là tịnh. Họ lại nói thân
ngũ ấm chính là tịnh khí đựng những tịnh vật như thân người, Trời, Tiên, A- La-Hán,
Bích-Chi Phật, Bồ-Tát chư Phật. Do nghĩa nầy nên gọi là tịnh.
Có phái
ngoại đạo lại nói rằng có ngã vì có thấy biết vì có thể tạo tác. Như có người vào nhà thợ gốm, dầu chẵng thấy thân người thợ nhưng vì thấy khí cụ nên biết
quyết định nhà đó là nhà thợ gốm. Ngã cũng như vậy, do mắt thấy sắc biết chắc là có ngã.
Nếu không có ngã thời ai có thể thấy sắc ? Nghe tiếng nhẫn đến
giác xúc cũng như vậy. Họ lại nói có ngã. Làm sao biết rằng có ? Vì
do nơi tướng mà biết : Thở, ngáy, ngó, nháy, mạng sống,
móng tâm,
lãnh thọ sự khổ vui, tham cầu, giận hờn, đều là tướng của ngã. Vì thế nên biết
quyết định của ngã.
Ngoại đạo lại nói rằng có ngã, vì
phân biệt được
mùi vị : Như có người ăn trái cây, thấy trái biết
mùi vị. Do đây nên biết
quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói vì có chấp tác làm việc nên biết là có ngã : Như cầm lưỡi liềm thời có thể cắt gặt, cầm búa thời có thể chặt, cầm bình thời đựng nước, ngồi xe thời
cầm cương, do đó nên biết
quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói lúc mới sanh biết đòi bú đó là do tập quán đời trước, nên biết
quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói vì hòa hiệp
lợi ích chúng sanh khác nên biết rằng có ngã. Như bình, y, xe cộ, ruộng nhà,
núi rừng, cây cối, voi ngựa, trâu, dê những vật như vậy nếu hòa hiệp thời có sự
lợi ích.
Năm ấm trong thân người cũng như vậy :
Nhãn căn vân vân… vì có hòa hiệp thời có sự
lợi ích cho người, do đó nên biết
quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói có ngã vì rằng có sự vật ngăn ngại. Như có vật thời có ngăn ngại.
Nếu không vật thời không ngăn ngại. Vì cóù ngăn ngại nên biết
quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói vì có bạn cùng chẳng phải bạn nên biết là có ngã. Như
thân yêu cùng chẳng phải
thân yêu thời chẳng phải là bạn.
Chánh pháp với
tà pháp, trí với chẳng trí.
Sa Môn cùng chẳng phải Sa-Môn, Bà-La-Môn với chẳng phải Bà-La-Môn, con cùng chẳng phải con, ngày với chẳng phải ngày, đêm với chẳng phải đêm, ngã với chẳng phải ngã, các
pháp như vậy là bạn và chẳng phải bạn, do đó nên biết
quyết định có ngã.
Bạch Thế-Tôn ! Các phái
ngoại đạo nhiều cách nói có thường, lạc, ngã, tịnh, nên biết
quyết định có thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa đó nên các phái
ngoại đạo cũng nói được rằng : Ta có chơn-đế.”
Phật bảo Văn-Thù Sư-Lợi : “ Nếu có Sa-Môn hay Bà-La-Môn mà có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, thời người đó chẳng phải là Sa-Môn chẳng phải là Bà-La- Môn. Vì họ mê nơi
sanh tử xa lìa bực đại-đạo-sư nhứt thế-trí. Hàng Sa-Môn và Bà-La-Môn như vậy thiếu kém pháp lành tham đắm các
dục nhiễm. Hàng
ngoại đạo nầy
ràng buộc trong ngục
tham dục,
sân khuể,
ngu si mà
kham nhẫn thọlạc. Các
ngoại đạo nầy dầu biết
nghiệp quả mình làm mình chịu, nhưng còn chẳng thể
xa lìa pháp ác. Hàng
ngoại đạo nầy chẳng phải là
chánh pháp,
chánh mạng, để tự sống, vì họ không có lửa
trí huệ nên chẳng thể tiêu được vậy.
Các phái
ngoại đạo dầu tham đắm
ngũ dục thượng diệu, tham nơi pháp lành nhưng chẳng siêng tu.
Ngoại đạo nầy dầu muốn đến chánh
giải thoát, nhưng trì
cấm giới chẳng
thành tựu. Các
ngoại đạo nầy dầu muốn cầu vui nhưng chẳng có thể cầu
nhơn duyên của vui. Các
ngoại đạo nầy dầu bị bốn
rắn độc lớn đeo vấn nhưng vẫn
phóng dật chẳng
cẩn thận. Các
ngoại đạo nầy bị
vô minh che đậy,
xa lìa phương pháp lành, thích ở trong
tam giới, lửa
vô thường đốt cháy mà chẳng thể ra được. Các
ngoại đạo nầy gặp những bệnh
phiền não khó lành mà họ chẳng cầu bực
lương y đại trí. Các
ngoại đạo nầy thuở
vị lai sẽ đi trên đường xa hiểm
vô biên, mà chẳng biết
tu tập tư-lương pháp lành để tự
trang nghiêm. Các
ngoại đạo nầy thường bị tay độc
dâm dục làm hại mà
trở lại ôm ấp rương độc
ngũ dục. Các
ngoại đạo nầy giận hờn hung dữ mà
trở lại gần gũi bạn ác. Các
ngoại đạo nầy thường bị
vô minh che đậy mà
trở lại tìm
cầu pháp tà ác. Các
ngoại đạo nầy thường bị
tà kiến mê lầm mà
trở lại thân thiện với
tà kiến. Các
ngoại đạo nầy trông mong ăn trái ngọt mà lại gieo giống đắng. Các
ngoại đạo nầy đã ở trong nhà tối
phiền não mà
trở lại xa lìa đuốc sáng
đại trí. Các
ngoại đạo nầy mang bịnh khát
phiền não mà
trở lại uống nước mặn
dục nhiễm. Các
ngoại đạo nầy
mê lầm điên đảo nói các hạnh là thường. Cho các hạnh là thường thời không đúng.
Nầy Thiện-nam-tử !
Đức Phật quán sát các hạnh thảy đều
vô thường. Tại sao biết như vậy ? Vì các hạnh đều do
nhơn duyên. Phàm những pháp do
nhơn duyên, mà sanh thời biết là
vô thường. Các
ngoại đạo nầy không có một pháp gì chẳng từ
nhơn duyên sanh.
Nầy Thiện-nam-tử !
Phật tánh không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải
quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải do nhơn làm ra cũng chẳng phải không nhơn, chẳng phải tu tác chẳng phải
tác giả chẳng phải tướng chẳng phải
không tướng, chẳng phải có danh chẳng phải không danh, chẳng phải
danh sắc, chẳng phải dài ngắn, chẳng phải nhiếp trì trong ấm, giới, nhập. Vì thế nên
Phật tánh gọi là thường.
Nầy Thiện-nam-tử !
Phật tánh là Như-Lai, Như-Lai là pháp, pháp là thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Thường là Như-Lai, Như-Lai là Tăng, Tăng là thường.
Do nghĩa nầy nên những pháp từ
nhơn duyên mà sanh chẳng gọi là thường. Các
ngoại đạo nầy không có một pháp gì chẳng từ
nhơn duyên mà sanh. Các
ngoại đạo nầy chẳng thấy
Phật tánh Như-Lai là pháp. Vì thế nên
lời nói của
ngoại đạo đều là
vọng ngữ, không có
chơn đế.
Người
phàm phu lúc trước thấy bình, y, xe cộ, nhà cửa, thành quách, nước sông, rừng núi,
nam nữ, voi ngựa, trâu dê, lúc sau thấy tương tợ bèn nói là thường, phải biết những vật ấy thiệt chẳng phải là thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả
pháp hữu vi đều là
vô thường.
Pháp vô vi là thường.
Hư không và
Phật tánh là
vô vi nên là thường.
Hư không tức là
Phật tánh,
Phật tánh là Như-Lai, Như-Lai là
vô vi, vô-vi là thường. Thường là pháp, pháp là Tăng, Tăng là vô-vi, vô-vi là thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Có hai thứ
pháp hữu vi : Một là
sắc pháp, hai là
phi sắc pháp.
Phi sắc pháp là tâm và
tâm sở.
Sắc pháp là địa
thủy hỏa phong.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tâm gọi là
vô thường vì tánh nó phan-duyên
phân biệt. Tánh của
nhãn thức khác, nhẫn đến tánh của
ý thức khác, nên là
vô thường.
Cảnh giới sắc khác, nhẫn đến
cảnh giới pháp khác, nên là
vô thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu tâm là thường thời
nhãn thức lẽ ra
một mình duyên tất cả pháp. Nếu
nhãn thức khác, nhẫn đến
ý thức khác, thời biết là
vô thường. Bởi các pháp tương tợ
niệm niệm sanh diệt, người
phàm phu thấy đó chấp cho là thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vì các tướng
nhơn duyên có thể
phá hoại, nên cũng gọi là
vô thường. Như nhơn
nhãn căn, nhơn sắc, nhơn ánh sáng, nhơn
tư duy mà sanh
nhãn thức. Lúc
nhĩ thức sanh ra
nhơn duyên đều khác chẳng phải là
nhơn duyên của
nhãn thức, nhẫn đến
nhơn duyên của
ý thức cũng khác như vậy.
Nầy Thiệân-nam-tử !
Nhơn duyên phá hoại các hạnh sai khác, nên tâm gọi là
vô thường. Như tâm tu
vô thường khác, tâm tu khổ, không,
vô ngã khác. Nếu tâm là thường lẽ ra thường tu
vô thường. Còn chẳng đặng quán khổ, không,
vô ngã huống lại quán thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa nầy nên trong
giáo pháp của
ngoại đạo chẳng có thể nhiếp lấy thường, lạc, ngã, tịnh, phải biết
tâm pháp quyết định là
vô thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vì
tâm tánh sai khác nên gọi là
vô thường. Như
tâm tánh Thanh-Văn khác,
tâm tánh Duyên-Giác khác,
tâm tánh chư Phật khác.
Tất cả
ngoại đạo có ba thứ tâm : Một là tâm
xuất gia, hai là tâm
tại gia, ba là tâm
xa lìa tại gia. Tâm tương-ưng với lạc khác, tâm
tương ưng với khổ khác, tâm tương-ưng với bất khổ
bất lạc khác, tâm tương-ưng với
tham dục khác, tâm tương-ưng với sân-khuể khác, tâm
tương ưng với
ngu si khác.
Tâm tướng của tất cả
ngoại đạo cũng khác : Các tâm tương-ưng với
ngu si,
nghi hoặc cùng
tà kiến đều khác, lúc đi đứng nằm ngồi tâm đó cũng khác. Nếu tâm là thường thời lẽ ra chẳng
phân biệt được các sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, tía. Nếu tâm là thường lẽ ra chẳng quên những việc đã từng ghi nhớ. Nếu tâm là thường thời sự
đọc tụng lẽ ra chẳng
tăng trưởng. Nếu tâm là thường lẽ ra chẳng nên nói rằng : Đã làm, đương làm, sẽ làm. Nếu có đã làm, đương làm, sẽ làm thời biết rằng tâm này
quyết định là
vô thường. Nếu tâm là thường thời không có oán thù
thân ái cũng chẳng oán chẳng thân. Nếu tâm là thường thời chẳng nên nói rằng vật của tôi, vật của người hoặc sống hoặc chết. Nếu tâm là thường thời dầu có tạo tác lẽ ra chẳng
tăng trưởng. Do những nghĩa đó, nên biết
tâm tánh mỗi mỗi đều sai khác. Vì sai khác nên biết là
vô thường.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay
đức Phật ở trong
tâm pháp nầy diễn nói nghĩa
vô thường, đã rõ, vì ông mà nói sắc là
vô thường. Sắc nầy
vô thường vốn không có sanh, vì sanh đã diệt. Lúc thân ở thai bào vốn không có sanh, vì sanh đã
biến đổi. Các mầm cây vốn không có sanh, vì sanh đã
biến đổi. Do đó biết rằng, tất cả
sắc pháp thảy đều
vô thường.
Nầy Thiện-nam-tử !
Sắc thân tùy theo thời gian mà
biến đổi : Lúc tượng thai nhẫn đến lúc mới sanh đều đổi khác. Lúc thơ bé, lớn khôn nhẫn đến
tuổi già luôn luôn đổi khác. Lúc nẩy mầm, lên cây, mọc nhánh sanh lá,
trổ bông, kết trái đều đổi khác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Chất vị ở trong cũng đổi khác, lúc tượng thai nhẫn đến lúc già luôn luôn
biến đổi. Mầm cây, nhánh, lá, hoa, trái, chất vị cũng đều đổi khác.
Sức lực lúc tượng thai nhẫn đến
sức lực lúc
tuổi già đều đổi khác. Trạng mạo lúc tượng thai nhẫn đến trạng mạo lúc
tuổi già đều đổi khác.
Quả báo lúc tượng thai nhẫn đến
quả báo lúc
tuổi già cũng khác.
Danh tự lúc tượng thai nhẫn đến
danh tự lúc
tuổi già cũng sai khác .
Sắc thân có hoại có hiệp nên biết là
vô thường. Cây cối cũng có hoại có hiệp nên biết là
vô thường.
Thứ đệ sanh lần lần, như lúc tượng
thai sanh lần lần đến
tuổi già. Lúc nầy mầm sanh lần lần đến khi kết trái. Vì thế nên biết là
vô thường vì những
sắc pháp có thể
hoại diệt, như lúc tượng thai họai diệt nhẫn đến lúc
tuổi già hoại diệt đều sai khác, lúc nẩy mầm
hoại diệt nhẫn đến lúc kết trái đều
hoại diệt nên biết là
vô thường. Người
phàm phu không
hiểu biết thấy tương tợ sanh ra chấp cho là thường. Do những nghĩa nầy nên gọi là
vô thường. Đã là
vô thường thời chính là khổ, đã là khổ thời chính là
bất tịnh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Các hạnh đều không có ngã. Tổng tất cả
pháp không ngoài hai thứ : Sắc và tâm.
Sắc không phải ngã, vì sắc có thể phá có thể hoại, có thể vỡ có thể đập, có thể
tăng trưởng. Ngã thời chẳng thể
phá hoại vỡ đập sanh trưởng. Do nghĩa nầy nên biết sắc chẳng phải là ngã.
Tâm cũng chẳng phải ngã vì do
nhơn duyên mà
sanh khởi. Các
ngoại đạo do
chuyên niệm mà biết là có ngã. Tánh
chuyên niệm thiệt ra chẳng phải ngã. Nếu cho
chuyên niệm là ngã, những việc
quá khứ có lúc quên mất, vì có quên mất nên
quyết định biết là không ngã. Nếu các
ngoại đạo do ức tưởng mà biết là có ngã, vì có lúc không ức tưởng nên
quyết định biết là không ngã. Như nói : Thấy người bàn tay có sáu ngón, bèn hỏi rằng
chúng ta ngày trước
gặp nhau ở chỗ nào. Nếu là có ngã thời chẳng nên lại hỏi. Vì hỏi nhau nên
quyết định biết là không ngã.
Nếu các
ngoại đạo cho rằng vì có ngăn ngại mà biết là có ngã. Xét ra vì có ngăn ngại nên
quyết định biết là
vô ngã, như nói Điều-Đạt thời trọn chẳng nói rằng không phải Điều-Đạt. Cũng vậy, nếu ngã
quyết định là ngã thời trọn chẳng ngăn ngại ngã. Nhưng vì cũng ngăn ngại ngã nên
quyết định biết là
vô ngã. Nếu vì ngăn ngại mà biết là có ngã, nay ông chẳng ngăn ngại
đáng lẽ là không ngã !
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu các
ngoại đạo cho rằng vì bạn cùng chẳng phải bạn mà biết rằng có ngã. Cứ nơi thuyết nầy mà suy, vì không bạn lẽ ra không có ngã. Có những
pháp không bạn : Như-Lai, Hư-Không,
Phật tánh, Ngã cũng như vậy thiệt không có bạn. Do vì nghĩa nầy nên
quyết định biết là không ngã.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu có
ngoại đạo cho rằng vì có
danh tự mà biết là có ngã. Trong
pháp không ngã cũng có
danh tự ngã : Như người nghèo hèn mà tên là
phú quí. Như nói ta chết, nếu ta chết thời là ta giết ta, nhưng ngã thiệt chẳng có thể giết,
giả danh là giết ngã. Cũng như người lùn mà tên là Trưởng-giả. Do nghĩa nầy nên
quyết định biết không ngã.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu các
ngoại đạo cho rằng vì người mới sanh đã biết đòi bú nên biết là có ngã. Nếu có ngã thời tất cả trẻ thơ chẳng nên bốc phẩn, đất, lửa, rắn, thuốc độc. Do nghĩa nầy nên quyết địng biết không ngã.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tất cả
chúng sanh đối với ba pháp :
Dâm dục, uống ăn, kinh sợ đều có sự
hiểu biết đồng nhau, vì thế nên không có ngã.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu các
ngoại đạo cho rằng vì có
tướng mạo mà biết là có ngã. Vì có tướng thời không có ngã, không có tướng cũng là không ngã. Như lúc ngủ, người không thể đi đứng ngước cúi nhìn ngó, chẳng biết khổ biết vui, như thế thời
đáng lẽ không có ngã. Nếu cho rằng vì có đi đứng cúi ngước mà biết là có ngã, thời người máy lẽ ra cũng có ngã.
Như-Lai chẳng đi, chẳng đứng, chẳng cúi, chẳng ngước, chẳng nhìn, chẳng ngó, chẳng khổ, chẳng vui, chẳng
tham sân si. Như-Lai như
vậy mà có ngã chơn thật.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu các
ngoại đạo vì thấy người khác ăn trái cây, trong miệng mình sanh nước miếng, nên biết là có ngã. Do vì nhớ tưởng thấy thời sanh nước miếng, nước miếng chẳng phải ngã, ngã cũng chẳng phải là nước miếng, chẳng phải
vui buồn, chẳng phải ngáp, chẳng phải cười, chẳng phải nằm, chẳng phải đứng, chẳng phải đói, chẳng phải no. Do nghĩa nầy nên
quyết định biết là không ngã.
Nầy Thiện-nam-tử ! Các
ngoại đạo ấy
ngu si như trẻ nít không có
trí huệ phương tiện chẳng hiểu thấu được thường cùng
vô thường, khổ, vui, tịnh,
bất tịnh, ngã,
vô ngã,
thọ mạng, phi
thọ mạng,
chúng sanh, phi
chúng sanh, thật, phi thật, hữu,
phi hữu. Ở trong
Phật pháp họ lấy chút ít phần rồi
vọng chấp là có thường, lạc, ngã, tịnh, như người
sanh manh chẳng biết màu sữa, bèn hỏi người khác rằng màu sữa giống như thứ gì ? Người khác đáp : Màu sữa trắng như vỏ ốc.
Người
sanh manh lại hỏi : “ Thế thì màu sữa như tiếng thổi ốc ư ?
Đáp : Không phải.
Người
sanh manh lại hỏi màu ốc giống thứ gì ?
_ Màu ốc trắng như bột gạo.
Người
sanh manh nghe nói cho rằng màu sữa mịn nhuyễn như bột gạo. Khi biết không phải lại hỏi.
Người khác đáp : Màu sữa trắng như tuyết.
Người
sanh manh lại cho rằng màu sữa lạnh lẽo như tuyết.
Người khác lại bảo màu sữa trắng như lông chim
bạch hạc.
Người
sanh manh ấy dầu nghe cả bốn thứ
thí dụ tỉ lệ, nhưng trọn chẳng biết được màu sắc thiệt của sữa.
Cũng vậy, các
ngoại đạo nầy trọn không thể biết được thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa nầy trong
Phật pháp của ta có chơn-thật-đế, không phải hàng
ngoại đạo có được.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát
bạch Phật : “
Hi hữu thay : Hôm nay đức Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn
phương tiện chuyển pháp luân vô thượng, bèn
phân biệt chơn- thật-đế như vậy.”
Phật bảo Văn-Thù Sư-Lợi : : Nay ông cớ sao ở nơi đức Như-Lai mà sanh
quan niệm nhập Niết-Bàn. Nầy Thiện-nam-tử ! Như-Lai thiệt là
thường trụ chẳng
biến đổi chẳng nhập Niết-Bàn.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đức Như-Lai trọn chẳng có
quan niệm ta là Phật, ta thành
vô thượng chánh giác, ta chính là pháp, pháp là cái có của ta, ta là đạo, đạo là của ta có, ta là Thế-Tôn, Thế-Tôn là của ta, ta là Thanh-Văn, Thanh-Văn là của ta, ta có thể
thuyết pháp làm cho người khác nghe và
thọ trì, ta
chuyển pháp luân, người khác không chuyển được. Đức Như-Lai trọn không có
quan niệm như vậy nên đức Như-Lai chẳng
chuyển pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như-Lai không có những
quan niệm ta thấy biết, sự thấy biết là của ta, tai nghe, mũi ngửi v.v… cũng như vậy, ta là sắc, sắc là của ta, thinh, hương, nhẫn đến pháp cũng như vậy, ta là
địa đại,
địa đại là của ta,
thủy hỏa phong đại cũng như vậy. Như-Lai cũng không có những
quan niệm ngã là tín là đa-văn, tín và đa-văn là của ta, ta là đàn-ba-la-mật, là thi-ba-la-mật, nhẫn đến là bát-nhã-ba-la-mật, đàn-ba-la-mật nhẫn đến là bát-nhã-ba-la-mật, đàn-ba-la- mật nhẫn đến bát-nhã-ba-la-mật là của ta, ta là
tứ niệm xứ là
tứ chánh cần, nhẫn đến là bát-thánh-đạo, tứ-niệm-xứ nhẫn đến bát-thánh-đạo là của ta. Như- Lai trọn chẳng có những
quan niệm như vậy, nên Như-Lai chẳng
chuyển pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu nói
thường trụ không
biến đổi, sao lại nói rằng Phật
chuyển pháp luân ! Vì thế nên ông chẳng nên nói rằng đức Như-Lai
phương tiện chuyển pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nhơn
nhãn căn,
sắc trần, ánh sáng và
tư duy hoà hiệp sanh ra
nhãn thức.
Nhãn căn chẳng nghĩ rằng ta sanh ra thức, sắc, ánh sáng và
tư duy cũng chẳng nghĩ rằng ta sanh
nhãn thức,
nhãn thức cũng chẳng nghĩ rằng ta có thể tự sanh. Những
pháp như vậy
nhơn duyên hòa hợp đặng gọi là thấy. Cũng vậy, đức Như-Lai nhơn sáu ba-la-mật cùng
ba mươi bảy pháp trợ đạo mà
giác ngộ rõ thấu các pháp. Lại nhơn yết hầu, lưỡi răng, môi miệng có ra lời ra tiếng, vì các ông Kiều-Trần-Như v.v… mà
thuyết pháp lần đầu tiên, gọi đó là
chuyển pháp luân. Do nghĩa nầy nên đức Như-Lai chẳng gọi là
chuyển pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu chẳng chuyển thời gọi là pháp, pháp là Như-Lai. Như do bùi nhùi, do cọ xát, do tay, do phân bò khô mà có lửa sanh ra. Bùi nhùi v.v… đều chẳng nghĩ rằng ta sanh ra lửa. Lửa chũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh. Cũng vậy, đức Như-lai nhơn sáu ba-la-mật v.v… Vì các ông Kiều-Trần-Như
thuyết pháp gọi là
chuyển pháp luân, đức Như-Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta
chuyển pháp luân. Nếu chẳng
nghĩ tưởng như vậy thời gọi đó là chuyển
chánh pháp luân.
Chuyển pháp luân như vậy bèn gọi là Như-Lai.
Như
do nơi chất lạc, nước khuấy, bình, giây, tay người mà có chất tô sanh ra. Lạc v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra tô. Tô cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh ra. Do các duyên hòa hiệp nên sanh ra chất tô. Cũng vậy, đức Như-Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta
chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ như vậy, thời gọi đó là chuyển
chánh pháp luân.
Chuyển pháp luân như vậy thời là Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như do hột giống, đất, nước, phân, hơi nóng, gió,
thời gian, công tác của người mà có mầm mọc lên . Hột giống v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra mầm. Mầm cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh. Cũng vậy, đức Như- Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta
chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ như vậy thời gọi đó là chuyển
chánh pháp luân.
Chuyển pháp luân như vậy thời là Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như do trống, khoảng không, do, dùi, người hòa hiệp nhau mà sanh ra tiếng trống v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra tiếng. Tiếng cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh.
Cũng vậy, đức Như-Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta
chuyển pháp luân. Chẳng nghĩ như vậy thời gọi đó là chuyển
chánh pháp luân.
Chuyển pháp luân như vậy thời là Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử !
Chuyển pháp luân là
cảnh giới của chư Phật Thế-Tôn chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được.
Nầy Thiện-nam-tử !
Hư không chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải tạo tác chẳng phải
pháp hữu vi. Cũng vậy, Như-Lai chẳng phải sanh, xuất, tạo tác chẳng phải
pháp hữu vi.
Phật tánh cũng như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Chư Phật Thế-Tôn lời thuyết giáo có hai thứ : Một là thế ngữ hai là
xuất thế ngữ. Đức Như-Lai vì hàng Thinh-Văn Duyên-Giác dùng thế ngữ để thuyết giáo. Vì các vị Bồ-Tát nói
xuất thế ngữ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hàng
đại chúng nghe pháp cũng có hai hạng : Một là hạng cầu
tiểu thừa, hai là hạng
cầu đại thừa. Ngày trứoc ở thành Ba-La-Nại ta
chuyển pháp luân cho hàng Thinh-Văn. Nay ở thành Câu-Thi-Na nầy mới vì các vị Bồ- Tát
chuyển đại pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lại có hai hạng người
trung căn và
thượng căn. Vì hạng
trung căn ở thành Ba-La-Nại ta
chuyển pháp luân. Vì hạng thượng văn như Ca- Diếp Bồ-Tát v.v… ở nơi thành Câu-Thi-Na nầy ta
chuyển đại pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hạng tột hạ-căn đức Như-Lai trọn chẳng
chuyển pháp luân cho họ. Hạng tột hạ-căn tức là nhứt-xiển-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Người cầu
Phật đạo có hai hạng : Một là hạng trung
tinh tấn, hai là hạng thượng
tinh tấn. Như-Lai ở thành Ba-La-Nại vì hạng trung
tinh tấn mà
chuyển pháp luân. Nay ở thành Câu-Thi-Na nầy
chuyển đại pháp luân cho hạng thượng
tinh tấn.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ngày trước Như-Lai ở thành Ba-La-Nại, chuyển pháp- luân lần đầu tiên, có tám muôn thiên nhơn chứng đặng quả Tu-Đà hoàn. Nay trong hội
thuyết pháp tại thành Câu-Thi-Na nầy, có tám mươi muôn ức người chứng bực
bất thối chuyển vô thượng Bồ-Đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ngày trước ở thành Ba-La-Nại, Đại-Phạm thiên-Vương
đảnh lễ thỉnh Phật chuyển pháp luân. Nay tại thành Câu-Thi-Na nầy, Ca- Diếp Bồ- Tát
đảnh lễ thỉnh Phật chuyển đại pháp luân.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ngày trước ở thành Ba-La-Nại lúc
chuyển pháp luân Phật
giảng thuyết về
vô thường, khổ, không và
vô ngã. Nay tại thành Câu-Thi- Na nầy Như-Lai
giảng thuyết về thường, lạc, ngã và tịnh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ngày trước ở thành Ba-La-nại, lúc
thuyết pháp tiếng nói của Phật nghe xa đến trời Phạm-Thiên. Nay tại thành Câu-Thi-Na nầy, lúc
chuyển pháp luân tiếng của Phật khắp đến hai mươi
hằng hà sa thế giới ở
mười phương.
Nầy thiện-nam-tử ! Chư Phật Thế-Tôn phàm có
lời nói ra đều gọi là
chuyển pháp luân.
Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương có Luân-bảo, kẻ chưa
hàng phục có thể làm cho
hàng phục, người đã
hàng phục có thể làm cho
an ổn. Chư Phật Thế-Tôn phàm có
thuyết pháp cũng như vậy.
Vô lượng phiền não người chưa
điều phục có thể làm cho
điều phục, người đã
điều phục làm cho sanh căn lành.
Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương co ùLuân-bảo có thể phá tan tất cả
oán tặc. Cũng vậy, đức Như-Lai
thuyết pháp có thể làm cho tất cả giặc
phiền não thảy đều
tịch tịnh.
Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương có Luân-bảo trên dưới xoay chuyển. Cũng vậy, Như-Lai
thuyết pháp có thể làm cho các
chúng sanh ở
ác thú sanh lên
cõi trời cõi người nhẫn đến
thành Phật đạo.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vì thế nên nay ông chẳng nên khen rằng đức Như-Lai ở nơi đây lại
chuyển pháp luân.
Văn-Thù Sư-Lợi
bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Đối với nghĩa nầy chẳng phải là tôi không biết. Hỏi Phật là vì muốn
lợi ích cho những
chúng sanh. Từ lâu tôi đã biết
chuyển pháp luân thiệt là
cảnh giới của chư Phật Như-Lai, chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác biết được.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Nầy Thiện-nam-tử ! Đây gọi là Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn thật hành Thánh-hạnh.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : Thế-Tôn, do nghĩa gì gọi là Thánh-hạnh ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Thánh là nói chư Phật Thế-Tôn. Do nghĩa nầy nên gọi là Thánh-hạnh.
_ Bạch Thế-Tôn ! Nếu là chỗ thật hành của chư
Phật thời chẳng phải hàng Thinh-Văn Duyên-Giác, Bồ-tát có thể
tu hành được.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Đây là chư Phật Thế-Tôn an trụ nơi Đại-Niết-Bàn này mà
phân biệt khai thị như vậy, do nghĩa nầy nên gọi là Thánh-hạnh. Hàng Thinh- Văn, Duyên-Giác, và Bồ-Tát nghe như vậy rồi thời có thể
phụng hành nên gọi là Thánh-hạnh. Đại-Bồ-Tát nầy đặng
tu hành hạnh đây rồi thời đặngtrụ nơi bực
vô sở úy. Chẳng còn sợ tham, sân, si, sanh, lão, bịnh, tử. Cũng chẳng còn sợ
ác đạo,
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
Nầy Thiện-nam-tử ! Luận về sự ác có hai hạng : Một là A-Tu-La, hai là trong
loài người. Trong
loài người có ba hạng ác : Một là nhứt-xiển-đề, hai là hủy báng
kinh điển Đại-Thừa Phương-Đẳng, ba là phạm bốn tội trọng. Trụ trong
vô sở úy nầy, hàng Bồ-Tát trọn chẳng sợ đọa trong những hạng ác như vậy. Cũng chẳng còn sợ Sa-Môn, Bà-La-Môn,
ngoại đạo tà kiến, Thiên-Ma Ba-Tuần. Cũng chẳng còn sợ thọ thân trong hai mươi lăm cõi. Vì thế nên bực nầy gọi là
vô sở úy.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ bực
vô sở úy chứng đặng hai mươi lăm môn
tam muội,
phá hoại hai mươi lăm cõi. Đặng vô-cấu tam-muội có thể
phá hoại cõi địa ngục. Đặng bất-thối
tam muội có thể
phá hoại cõi
súc sanh. Đặng tâm- lạc
tam muội có thể
phá hoại cõi
ngạ quỉ. Đặng hoan-hỷ
tam muội có thể
phá hoại cõi A-Tu-La. Đặng nhựt-quang
tam muội có thể dứt cõi Phất-Bà-Đề. Đặng nguyệt-quang
tam muội có thể dứt cõi Cù-Da-Ni. Đặng nhiệt-diện
tam muội có thể dứt cõi Uất-Đơn-Việt. Đặng như-huyễn
tam muội có thể dứt cõi Diêm- Phù- Đề. Đặng nhứt-thiết pháp bất-động
tam muội có thể dứt cõi Tứ-Thiên- Vương. Đặng tối-phục
tam muội có thể dứt cõi Đao-Lợi-Thiên. Đặng Duyệt-ý
tam muội có thể dứt cõi Diệm-Ma-Thiên. Đặng Thanh-sắc
tam muội có thể dứt cõi Đâu- Suất-Thiên. Đặng Huỳnh-sắc
tam muội có thể dứt cõi Hoá-Lạc-Thiên. Đặng xích- sắt
tam muội có thể dứt cõi Tha-Hoá-Tự-tại-Thiên. Đặng Bạch-sắc
tam muội có thể dứt cõi Sơ-Thiền. Đặng
chủng chủng tam muội có thể dứt cõi Đại- Phạm- Vương. Đặng song
tam muội có thể dứt cõi Nhị-Thiền. Đặng lôi-âm
tam muội có thể dứt cõi tam-Thiền. Đặng chú-võ
tam muội có thể dứt cõi Tứ-Thiền. Đặng như hư-không
tam muội có thể dứt cõi Vô-Tưởng. Đặng chiếu-cảnh
tam muội có thể dứt cõi Tịnh-Cư A-Na-Hàm. Đặng vô-ngại
tam muội có thể dứt cõi Không- Xứ- Thiên. Đặng thường
tam muội có thể dứt cõi Thức-Xứ-Thiên. Đặng lạc
tam muội có thể dứt cõi Bất-Dụng Xứ-Thiên. Đặng ngã
tam muội có thể được cõi Phi- Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ-Thiên.
Đây gọi là Bồ-Tát chứng đặng hai mươi lăm
tam muội dứt hai mươi lăm cõi.
Nầy Thiện-nam-tử ! Hai mươi lăm môn
tam muội nầy gọi là vua của các môn tam-muội. Đại Bồ-Tát nhập trong những môn
tam muội vương nầy, nếu muốn thổi hoại núi Tu-Di liền có thể
tùy ý. Nều muốn biết
tâm niệm của mọi loài
chúng sanh trong cõi
đại thiên, cũng đều có thể biết. Muốn đem mọi loài
chúng sanh trong cõi
đại thiên để vào trong một lỗ chơn lông nơi thân của mình liền có thể
tùy ý, cũng có thể làm cho những
chúng sanh đó không c
quan niệm chật hẹp. Nếu muốn hoá làm
vô lượng chúng sanh đầy khắp trong cõi
đại thiên, cũng liền có thể
tùy ý. Muốn chia một thân làm nhiều thân, lại hiệp nhiều thân làm một thân, dầu làm những sự như vậy nhưng
tâm không trụ trước, dường như
hoa sen.
Nầy Thiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát nhập trong những môn
tam muội vương như vậy rồi, liền đặng trụ nơi bực
tự tại. Bồ-Tát trụ bực
tự tại nầy thời đặng sức
tự tại,
tùy ý muốn sanh chỗ nào liền đặng
vãng sanh.
Ví như Chuyển-Luân-Thánh-Vương thống lãnh
bốn cõi thiên hạ,
tùy ý qua lại không bị
chướng ngại. Cũng vậy, tất cả chỗ muốn thọ sanh Bồ-Tát nầy có thể
tùy ý vãng sanh.
Bồ-Tát nầy nếu thấy tất cả
chúng sanh nơi
địa ngục, kẻ nào có thể làm cho sanh căn lành, Bồ-Tát liền qua mà thọ sanh trong đó, dầu sanh nhưng chẳng phải là
nghiệp quả, do sức
tự tại mà thọ sanh trong đó. Bồ-Tát nầy dầu ở nơi
địa ngục nhưng chẳng bị những sự khổ đốt cháy nát thân v.v…
Nầy Thiện-nam-tử ! Bồ-Tát nầy
thành tựu vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức
công đức như vậy, còn không thể nói hết, huống là
công đức của Phật mà có thể nói được.”
Bấy giờ trong
chúng hội, có một vị Bồ-Tát tên là Trụ-Vô-Cấu-Tạng- Vương, có
oai đức lớn
thành tựu thần thông, đặng đại
tổng trì đầy đủ môn
tam muội, chứng bực
vô sở úy, liền
đứng dậy trịch y bày vai bên hữu qùy gối hữu,
chắp tay bạch Phật rằng : “Thế-Tôn ! Như lời
đức Phật nói : Chư Phật Bồ-Tát
thành tựu vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức
công đức thiệt không thể nói được. Ý tôi còn cho rằng vẫn chẳng
bằng kinh điển Đai-thừa nầy vì nhơn sức của kinh Đại- Thừa Phương-Đẳng nầy nên có thể xuất sanh chư Phật Thế-Tôn
vô thượng chánh giác”.
Phật khen rằng :
Lành thay !
Lành thay ! Phải lắm đúng như lời ông nói. Những kinh Phương-Đẳng Đại-Thừa dầu
thành tựu vô lượng công đức, muốn
so sánh với kinh nầy thời không thể kịp được, trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến toán số
thí dụ cũng chẳng kịp được.
Ví như từ bò có sữa, từ sữa sanh ra chất lạc, từ lạc sanh ra chất sanh tô, từ sanh tô sanh ra chất thục tô, từ thục tô sanh ra chất
đề hồ. Chất
đề hồ là vị hơn hết, nếu có người uống chất nầy các thứ bịnh đều
tiêu trừ, bao nhiêu chất thuốc đều vào trong
đề hồ.
Cũng vậy, từ Phật có ra mười hai loại kinh, từ mười hai loại kinh có ra Tu-đa-la, từ Tu-đa-la có ra kinh Phương-đẳng, từ kinh Phương-đẳng có ra Bát-Nhã Ba-La- Mật, từ
Bát-Nhã Ba-La-Mật có ra Đại-Niết-Bàn, như chất
đề hồ. Chất
đề hồ dụ cho
Phật tánh.
Phật tánh tức là Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Do nghĩa nầy nên nói rằng Như-Lai có
vô lượng vô biên công đức chẳng thể nói được tính được.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật khen kinh Đại-Niết- Bàn như chất
đề hồ là vị thượng diệu, nếu có người uống
đề hồ thời những chứng bịnh đều
tiêu trừ, tất cả các vị thuốc đều vào trong chất
đề hồ. Tôi
nghe lời nầy
trộm nghĩ rằng : Nếu có người chẳng nghe chẳng
lãnh thọ được kinh nầy, phải biết người đó rất là
ngu si không có tâm lành.
Bạch Thế-Tôn ! Nay tôi thiệt có thể kham chịu lột do làm giấy , chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, biên chép kinh Đại-Niết-Bàn nầy. Biên chép
đọc tụng thông thuộc, rồi vì người mà giảng rộng
ý nghĩa đó.
Bạch Thế-Tôn ! Nếu có
chúng sanh tham trước của cải, tôi sẽ
bố thí của cải rồi sau đem kinh Đại-Niết-Bàn nầy khuyên họ đọc. Nếu có người sang qúi, tôi trứơc dùng
ái ngữ để được
cảm tình, rồi sau lần lần sẽ đem kinh Đại-Thừa Đại- Niết- Bàn nầy khuyên họ đọc. Nếu là kẻ
thường dân, tôi sẽ dùng oai thế ép họ
đọc tụng. Nếu với người
kiêu mạn tôi sẽ làm tôi tớ họ,
tùy thuận ý của họ cho họ
vui lòng, rồi sau sẽ đem kinh Đại-Niết-Bàn nầy mà dẫn dắt họ. Nếu có người hủy báng kinh Đại-Thừa tôi sẽ dùng
thế lực hàng phục họ, rồi sau khuyên họ
đọc kinh Đại-Niết-Bàn. Nếu có người
ưa thích kinh Đại-Thừa, tôi đích thân đến
cung kính cúng dường tôn trọng tán thán họ.
Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát :
Lành thay !
Lành thay ! Ông thiệt đáng là người
ưa thích kinh điển Đại-Thừa, tham kinh Đại-Thừa, thọ kinh Đại-Thừa, say kinh Đại- Thừa, kính tin
tôn trọng cúng dường kinh Đại-Thừa.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay do tâm lành nầy, ông sẽ
siêu việt vô lượng vô biên hằng hà sa đại Bồ-Tát, đặng thành
vô thượng chánh giác trước, chẳng bao lâu ông cũng sẽ vì
đại chúng diễn nói tạng
bí mật Đại-Niết-Bàn, Như-Lai,
Phật tánh, như ta hôm nay.
Nầy Thiện-nam-tử ! Về thuở
quá khứ thời kỳ không có Phật ra đời, lúc đó ta làm Bà-La-Môn tu hạnh Bồ-Tát, có thể
thông đạt những
kinh luận của tất cả
ngoại đạo, tu hạnh
tịch diệt, đầy đủ
oai nghi, tâm ta
thanh tịnh chẳng bị các
dục nhiễm ở ngoài
phá hoại, dứt lửa
sân hận,
thọ trì pháp môn thường, lạc, ngã, tịnh. Khắp nơi ta tìm
cầu kinh điển Đại-Thừa, nhẫn đến vẫn chẳng được nghe
danh tự kinh Phương-Đẳng. Bấy giờ ta ở núi Tuyết, núi nầy
thanh tịnh có suối chảy ao tắm, rừng rậm cây thuốc,
hoa thơm nở khắp núi, chim thú không
thể tính đếm, nhiều thứ trái ngon, lại có
vô lượng ngó sen, củ ngọt củ thơm. Ta ở
một mình trong núi chỉ ăn các thứ trái, ăn xong
ngồi thiền chuyên tâm quán tưởng. Ta
tu khổ hạnh như vậy
trải qua vô lượng năm, cũng chẳng được nghe có Phật ra đời cùng tên kinh Đại-Thừa.
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và
chư Thiên thấy ta bền
tu khổ hạnh như vậy lòng họ kinh sợ bảo nhau rằng :
Chúng ta nên xem coi. Trong núi Tuyết
thanh tịnh, Người
ly dục tịch tịnh. Vua
công đức trang nghiêm, Đã lìa tham sân mạn. Dứt hẳn lòng
ngu si, Miệng chưa từng nói ra, Những lời thô ác thảy.
Có một vị Thiên-tử tên là Hoan-Hỷ lại nói kệ rằng :
Người
ly dục như vậy,
Thanh tịnh siêng
tinh tấn, Toan chẳng cầu Đế-Thích, Và làm
chư Thiên ư ! Nếu là hạng
ngoại đạo, Họ
tu hành khổ hạnh, Phần nhiều đều mong cầu, Tòa ngồi của Đế-Thích.
Có một vị Tiên-thiên-tử lại vì Đế-Thích mà nói kệ rằng :
Thiên-Chúa Kiều-Thi-Ca, Chẳng nên sanh lòng lo,
Ngoại đạo tu khổ hạnh,
Hà tất cầu Đế-Thích.
Thiên-Tử nầy lại thưa với Đế-Thích : “ Bực đại-sĩ
trong đời vì
chúng sanh nên chẳng
tham luyến thân mình mà tu
vô lượng khổ hạnh để làm
lợi ích cho
chúng sanh. Hạng người như vậy thấy rõ những
lỗi lầm trong giòng
sanh tử, dầu
của báu đầy cả mặt đất,
đại sĩ nầy cũng chẳng
tham muốn như thấy mũi dãi. Bực
đại sĩ nầy rời bỏ
của cải vợ con đầu mắt tủy não tay chơn
da thịt, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, cũng chẳng mong cầu sanh lên
cõi trời, chỉ mong muốn làm cho tất cả
chúng sanh được an vui. Như chỗ tôi hiểu bực đại-sĩ như vậy lòng
thanh tịnh không
ô nhiễm, đã dứt hết
phiền não chỉ muốn cầu quảvô thượng bồ-đề.
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn bảo rằng : “
Theo như lời ông nói thời người ấy vì
nhiếp thủ tất cả
chúng sanh trong đời. Nầy Đại-Tiên ! Nếu
trong đời nầy có Phật dứt trừ được tất cả
rắn độc phiền não của
chư Thiên,
loài người và A-Tu-La. Nếu các
chúng sanh ở trong bóng mát của
Phật thời tất cả những độc
phiền não đều
tiêu diệt. Nầy Đại-Tiên ! Bực Đại-sĩ nầy nếu
trong đời vị lai sẽ
thành Phật,
thời chúng ta sẽ được dứt trừ
vô lượng phiền não. Việc nầy thiệt là khó tin, vì
vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ-đề, bị chút ít duyên liền thối thất Bồ- đề tâm, như bóng trăng trong nước, nước động thời trăng động. Lại như
họa tượng, khó thành mà dễ hư . Cũng vậy, tâm Bồ-đề khó phát mà dễ thối thất.
Nầy Đại-Tiên ! Như có nhiều người mặc giáp cầm gậy muốn đi dẹp giặc, lúc ra đến chiến trận lòng sợ sệt thời bèn chay lui. Cũng vậy
vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ-đề tự
trang nghiêm bền chắc, lúc thấy lỗi
sanh tử lòng sợ sệt bèn thối thất. Nầy Đại-Tiên ! Ta từng thấy
vô lượng chúng sanh sau khi
phát tâm Bồ- Đề đều bị
thối chuyển. Vì thế nên nay dầu thấy người nầy
tu khổ hạnh tịch tịnh không
phiền não nhưng ta chưa tin được. Nay ta sẽ đến thử xem coi người nầy thiệt có thể
gánh vác nổi
vô thượng Bồ-Đề chăng ? Nầy Đại-Tiên ! Như xe có hai bánh thời có
công dụng chở chuyên, như chim có hai cánh mới có thể bay đi. Người
tu khổ hạnh nầy, dầu thấy là
giữ gìn giới cấm, nhưng chưa biết có trí sâu chăng. Nếu có sâu thời có thể gánh nổi
vô thượng Bồ-Đề. Nầy Đại-Tiên ! Như cá mẹ đẻ ra bầy cá con, nhưng số cá được lớn khôn rất ít. Như cây am-la nhiều bông mà ít trái.
Chúng sanh phát tâm Bồ-Đề đông
vô lượng nhưng ít người được
thành tựu. Nầy Đại-Tiên ! Ông nên cùng ta đồng qua thử đó. Như
vàng ròng sau khi thử đủ ba cách mới biết là vàng thiệt, là đốt, đập và mài. Nay
chúng ta cũng thử người
tu khổ hạnh nầy.
Lúc đó Thích-Đề-Hoàn-Nhơn tự biến thân mình làm quỉ La-sát
dung mạo đáng sợ, bay xuống núi Tuyết
đến gần người
tu khổ hạnh,
cất tiếng thanh nhã tuyên nói nửa
bài kệ của Phật
quá khứ :
Các hạnh
vô thường, Là pháp
sanh diệt.
Quỉ La-sát nói nửa kệ xong liếc mắt tìm ngó bốn phía. Người
tu khổ hạnh nghe hai câu kệ ấy lòng rất
vui mừng, như người khách buôn ban đêm đến đường hiểm lạc mất đồng bạn, kinh sợ
tìm kiếm bỗng gặo được đồng bạn, lòng rất
vui mừng. Cũng như người bịnh lâu chưa gặp được
lương y, về sau bỗng gặp được. Như người
trôi nổi ngoài biển khơi bỗng gặp được thuyền bè. Như người quá khát gặp được nước mát trong. Như người bị oán-địch rượt mà chạy thoátđược. Như người bi trói nhốt
đã lâu bỗng đặng thả. Cũng như nhà nông trời nắng hạn mà gặp mưa. Như người đi xa
trở về đến nhà, cả nhà đều
vui mừng.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lúc
nghe được nửa
bài kệ ấy, lòng người
khổ hạnh vui mừng cũng như vậy. Liền
đứng dậy lấy tay đỡ tóc lên ngó tìm bốn phía nói rằng : “ Chẳng biết ai vừa nói hai câu kệ ? Ngó mãi không thấy người nào khác chỉ thấy quỉ La-Sát bèn nói rằng : “ Ai khai môn
giải thoát như vậy ? Ai có thể thuật lời của Phật như
vậy ? Ai có thể ở trontg giấc ngủ
sanh tử mà có thể riêng được
giác ngộ xướng lên lời đó vậy ? Ai có thể ở chốn nầy đem
đạo vị vô thượng chỉ dạy cho
chúng sanh đang
đói khát trong vòng sanh tử ? Ai có thể làm thuyền lớn cứu vớt
vô lượng chúng sanh đang nổi chìm trong biển
sanh tử ? Những
chúng sanh nầy thường mang
bịnh nặng phiền não, ai có thể làm
lương y nói hai câu kệ ấy
khai ngộ tâm của tôi. Như
mặt trăng nửa như
hoa sen hé nở.
Người
khổ hạnh lúc đó không thấy có ai khác chỉ thấy quỉ La-Sát nghĩ rằng có lẽ quỉ nầy nói hai câu kệ ấy chăng ? Rồi lại nghĩ rằng quỉ nầy
hình dung hung dữ
đáng sợ, phàm người đặng nghe những câu kệ ấy thời tất cả sự sợ sệt
xấu xa liền
tiêu trừ, đâu có lẽ người
hình mạo xấu xa nầy mà có thể nói lời kệ ấy. Như trong lửa mọc được
hoa sen. Trong
ánh nắng mặt trời chẳng sanh được nước mát. Rồi lại tự trách : Ta thật là
vô trí hoặc quỉ nầy đặng gặp chư Phật
quá khứ, nên được nghe nửa
bài kệ ấy, nay ta nên hỏi
ý nghĩa của lời ấy.
Suy nghĩ xong liền đến trước quỉ La-Sát nói rằng : “
Lành thay lành thay ! Đại-Sĩ ! Ngài ở đâu mà học được nửa
bài kệ của Phật
quá khứ như vậy ?
Quỉ La-Sát liền đáp rằng : “ Nầy Bà-La-Môn ! Ông chẳng nên hỏi ta về việc ấy. Vì ta đã nhiều ngày không được ăn
đói khát khổ não tâm ý mê loạn. Ta tìm cầu khắp nơi vẫn chẳng được
thức ăn. Vì thế nên ta nói những lời như vậy.”
Người
khổ hạnh lại nói với quỉ La-Sát : “ Nếu Đại-Sĩ có thể vì tôi nói trọn
bài kệ, tôi sẽ
trọn đời làm
đệ tử ngài. Kệ của Đại-Sĩ vừa nói lời chẳng đủ, nghĩa chẳng trọn, sao Đại-Sĩ chẳng nói cho trọn ? Luận về tài-thí thời có cạn hết, còn pháp-thí thời chẳng thể
cùng tận, nhiều sự
lợi ích. Tôi nghe nửa
bài kệ ấy sanh lòng
kinh nghi. Trông mong ngài vì tôi mà nói cho trọn, tôi sẽ
trọn đời làm
đệ tử ngài.”
Qủi La-Sát nói : “ Ông tham
thái quá chỉ biết tự thương thân mình mà chẳng nghĩ đến người. Ta đương đói khổ thiệt không thể nói đặng”.
Người
khổ hạnh hỏi : “
Thức ăn của ngài là vật gì ?
Quỉ nói : “ Ông đừng hỏi, nếu ta nói ra thời
mọi người phải kinh sợ”.
Người
khổ hạnh nói : “ Giữa đây chỉ có mình tôi không có người nào khác. Tôi không sợ, ngài cứ nói.
Qủi nói : “ Tôi chỉ
ăn thịt người tươi nóng, chỉ uống máu nóng của người. Vì ta phước mõng nên chỉ ăn những thứ đó. Ta tìm khắp các nơi mà chẳng đặng.
Trong đời dầu có người đông nhiều, nhưng mỗi người đều có
phước đức, lại được chư Thiên-Thần
thủ hộ, ta không
đủ sức bắt ăn được.”
Người
khổ hạnh nói : “ Ngài cứ nói đủ
bài kệ ấy, tôi nghe kệ rồi sẽ đem thân nầy dâng cho ngài dùng. Thưa Đại-Sĩ nếu lúc tôi chết thân nầy sẽkhông dùng vào việc gì được, sẽ bị cọp, sói, chim hiêu, kên kên ăn mổ, không được một mảy
phước đức. Nay tôi vì cầu Vô-thượng Bồ-đề
xả thí thân
vô thường chẳng bền nầy, để đổi lấy thân
thường trụ bền chắc”.
Quỉ nói : “ Ai tin được lời của ông, chỉ vì có tám chữ mà thí bỏ thân đáng mến đáng tiếc.”
Người
khổ hạnh nói : “ Như có người đem đồ sành
bố thí cho người khác mà đặng đồ bằng
thất bảo. Cũng vậy, tôi
xả thí thân
vô thường nầy để đặng thân
kim cương. Ngài nói ai tin được lời tôi ?”
Các vị Đại-Phạm-Thiên-Vương, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và Tứ-Thiên-Vương có thể
chứng minh lời tôi. Lại có các vị Bồ-Tát
tu hành Đại-thừa đủ
lục độ,
lợi ích vô lượng chúng sanh, có
thiên nhãn cũng chứng biết được lời của tôi,
Thập phương chư Phật cũng chúng biết cho tôi vì tám chữ mà
xả thí thân mạng.
Quỉ nói : “Nếu ông có thể
xả thí thân mạng như vậy, thời nên lóng nghe kỹ tôi sẽ vì ông nói nửa
bài kệ sau”.
Người
khổ hạnh nghe quỉ hứa nói
vui mừng hớn hở, liền cởi tấm da nai đang mặc trên thân trải tòa rồi mời quỉ : “ Bạch Hòa-Thượng xin thỉnh ngài lên tòa nầy”.
Quỉ ngồi xong người
khổ hạnh qùy dài, vòng tay thưa rằng : “ Mong Hòa- Thượng vì tôi mà nói nửa
bài kệ còn lại cho được đầy đủ”.
Quỉ La-sát liền tuyên rằng :
Sanh-diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui.
Quỉ La-Sát nói hai câu kệ rồi bảo rằng : “ Nầy Đại Bồ-Tát nay ông đã nghe đủ cả nghĩa
bài kệ, lòng mong muốn của ông đã đầy đủ, nếu ông muốn
lợi ích chúng sanh giờ đây nên
thí thân cho ta.
Người
khổ hạnh suy nghĩ kỹ những nghĩa trong
bài kệ rồi biên chép lên trên đá, trên vách, trên cây, bên đường đi. Tự cột áo xiêm sợ
sau khi chết thân thể lõa lồ rồi leo lên cây cao.
Thọ-Thần bảo người
khổ hạnh : “
Lành thay ! Nay ông muốn làm việc gì ?
Người
khổ hạnh đáp : “ Tôi muốn thí
xả thân nầy để trả giá bài kệ”.
Thọ-Thần nói : “
Bài kệ như vậy có những
lợi ích gì ?”
Người
khổ hạnh đáp : “ Những câu kệ ấy là lời
thuyết pháp của Phật
ba đời, trong ấy chỉ dạy
đạo pháp chơn không. Tôi vì pháp nầy muốn
lợi ích tất cả
chúng sanh mà thí
xả thân nầy, chẳng phải vì lợi danh, chẳng cầu Chuyển- Luân- Thánh-Vương, Tứ-Thiên-Vương, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, Đại-Phạm-thiên-Vương, chẳng cầu quả vui của người của trời.
Lúc sắp sửa
xả thân, người
khổ hạnh nói rằng : “ Nguyện cho tất cả người
tham lam bỏn sẻn đều thấy tôi
xả thân. Những người
bố thí chút ít sanh lòng
cống cao cũng đặng thấy tôi vì một
bài kệ mà
xả thân mạng.
Nói xong, người
khổ hạnh buông mình từ trên cây rơi xuống. Lúc thân chưa
tới đất. Trong
hư không vang ra các thứ tiếng thấu đến
cõi trời Sắc-Cứu-Cánh. Quỉ La-sát huờn lại hình Thiên-Đế hứng lấy thân người
khổ hạnh để nhẹ nhàng xuống đất.
Bấy giờ Thích-Đề-Hoàn-Nhơn, Đại-Phạm-Thiên-Vương cùng
chư Thiên đảnh lễ người
khổ hạnh mà khen rằng : “
Lành thay !
Lành thay ! Thiệt là Bồ-Tát có thể
lợi ích nhiều cho
vô lượng chúng sanh, muốn thắp đuốc pháp lên giữa đêm tối
vô minh. Vì tôi mến tiếc pháp lớn của Như-Lai nên cố nhiễu não ngài. Ngưỡng mong ngài cho tôi
sám hối tội lỗi. Thuở
vị lai ngài
quyết định thành Vô- thượng Chánh-giác,. Khi được
thành Phật, mong ngài
tế độ chúng tôi,
Nói xong, Thích-Đề-Hoàn-Nhơn và
chư Thiên đảnh lễ người
khổ hạnh,
cáo từ, bỗng nhiên ẩn mất.
Nầy Thiện-nam-tử ! Người
khổ hạnh thuở xưa chính là
tiền thân của ta. Ngày trước vì nửa
bài kệ mà ta
xả thí thân mạng. Do cớ đó ta đặng vượt bực
thành Phật trước Di-Lặc mười hai kiếp.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ta đặng
vô lượng công đức như vậy đều do
cúng dường chánh pháp củaNhư-Lai.
Nay ông
phát tâm Vô- thượng Bồ-đề, thời ông cũng đã vượt hơn
vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ-Tát.
Nầy Thiện- nam-tử ! Đây gọi là Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Bát Niết-Bàn
tu hành thánh hạnh.
HẾT PHẨM
THÁNH HẠNH THỨ MƯỜI CHÍN