Tập 24 (Quyển 576-588)

09/05/201012:00 SA(Xem: 28767)
Tập 24 (Quyển 576-588)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 24 (Quyển 576-588)

 HỘI THỨ 8
PHẦN NA-GIÀ-THẤT-LỢI

Tôi nghe như vầy:

Một thuở, đức Bạc-già-phạm ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ-đa, thành Thất-la-phiệt, vì các đại chúngtuyên dương chánh pháp.

Bấy giờ, trời vừa hừng sáng, Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường (Mạn-thù-thất-lợi) đắp y mang bát, sắp vào thành Thất-la-phiệt, thì gặp Bồ-tát Long Cát Tường (Na-già-thất-lợi) hỏi:

- Tôn giả đi đâu thế?

Diệu Cát Tường đáp:

- Tôi muốn vào thành Thất-la-phiệt để tuần hành khất thực, vì muốn làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh, vì thương xót khắp chúng sanhthế gian, vì lợi ích an vui cho trời, người.

Long Cát Tường hỏi:

- Vậy à! Nhưng Tôn giả với tưởng ăn vẫn chưa phá được sao?

Diệu Cát Tường đáp:

- Đối với tưởng ăn, tôi còn chẳng thấy có, thì biết phá cái gì? Vì sao? Vì bản tánh các pháp đều Không, vắng lặng, giống như hư không, không hoại không dứt, thì tôi phá được sao! Chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn… cũng chẳng phá được. Vì sao vậy? Vì tự tánh của các pháp đồng với hư không, rốt ráo Không, chẳng ai có thể làm cho dao động, không thể phá được.

Lại nữa, tất cả pháp như hư không, không có trời, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn… loài hữu tình nào có thể nhiếp thọ được. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp viễn li, nên chẳng thể nhiếp thọ.

Long Cát Tường hỏi:

- Nếu đúng như lời Tôn giả nói, thì tại sao Bồ-tát cùng ma đấu tranh?

Diệu Cát Tường đáp:

- Bồ-tát chưa từng đánh trống lớn chiến tranh với ma quân. Lúc ấy, Bồ-tát cũng chẳng thấy có một chút pháp chơn thật để nương vào định. Vì sao? Vì Bồ-tát thấy ma tuy đánh trống… nhưng không sợ hãi. Ví như nhà huyễn thuật, huyễn tạo ra kẻ oán địch, dù làm chuyện rối loạn não hại, song chẳng ai kinh sợ. Cũng vậy, Bồ-tát biết tánh của các pháp là Không, đều như huyễn… nên không sợ hãi.

Nếu Bồ-tát nào có sợ hãi thì không có trời, người…. cúng dường. Nhưng các Bồ-tát hiểu rõ Không, nên không có sợ hãi, chịu làm ruộng phước chơn tịnh cho tất cả.

Long Cát Tường hỏi:

- Có ai chứng được Bồ-đề chăng?

Diệu Cát Tường đáp:

- Cũng có.

Long Cát Tường hỏi:

- Ai là người chứng được?

Diệu Cát Tường đáp:

- Nếu thiết lập ngôn ngữkhông chấp danh tánh thì đó là người chứng được.

Long Cát Tường hỏi:

- Vậy người kia chứng như thế nào?

Diệu Cát Tường đáp:

- Vị ấy tâm không sanh, chẳng niệm Bồ-đề và tòa Bồ-đề, cũng chẳng thương nhớ tất cả hữu tình, dùng tâm vô biểu, tâm vô kiến… mà chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Long Cát Tường hỏi:

- Nếu vậy, Tôn giả dùng những tâm nào để được Bồ-đề?

Diệu Cát Tường đáp:

- Tôi không thấy mình hướng đến, cũng chẳng thấy có chỗ hướng đến, đều không nơi học; chẳng có tôi đời sau tới cội Bồ-đề ngồi tòa Kim cương, chứng đại Bồ-đề, chuyển bánh xe diệu pháp cứu vớt sanh tử. Vì sao? Vì các pháp không động, không thể phá hoại, không thể thu nhiếp, rốt ráo Không, vắng lặng. Tôi đem những tâm chẳng hướng tới như thế để được Bồ-đề.

Long Cát Tường nói:

- Những điều Tôn giả đã nói đều nương vào thắng nghĩa, khiến cho các hữu tình tin hiểu pháp này, giải thoát phiền não. Nếu các hữu tình được giải thoát phiền não, thì phá được hết thảy võng lưới ma.

Diệu Cát Tường nói:

- Võng lưới của ma chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì khái niệm ma chẳng khác Bồ-đề. Vì sao? Vì tánh của ma và ma quân đều chẳng có, đều bất khả đắc. Cho nên, tôi nói khái niệm ma ấy chẳng khác Bồ-đề.

Long Cát Tường hỏi:

- Sao gọi là Bồ-đề?

Diệu Cát Tường đáp:

- Bồ-đề ấy biến khắp trong tất cả các pháp, thời, xứ. Ví như hư không, không có gì ngăn ngại đối với pháp, thời, xứ, không có chỗ nào mà không trụ. Bồ-đề cũng thế, vì không ngăn ngại nên biến khắp ở trong tất cả pháp, thời, xứ. Bồ-đề như thế rất là Vô thượng. Nay ngài muốn chứng Bồ-đề bậc nào?

Long Cát Tường nói:

- Muốn chứng Vô thượng.

Diệu Cát Tường nói:

- Nay ngài chứng pháp Vô thượng Bồ-đề là chẳng thể chứng. Ngài muốn chứng pháp ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ-đề lìa tướng, tịch diệt. Vậy ngài muốn trở thành người giữ lấy sự hý luận?! Ví như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ-đề, chứng huyễn Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.” Lời nói như thế quá ư thành hý luận. Vì các huyễn sĩ còn bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ-đề!

Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp chẳng tan, không lấy không bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay ngài muốn chứng Vô thượng Bồ-đề, há chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều Không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen, không chê, không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, đều rốt ráo Không, như huyễn như mộng, vô đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được.

Long Cát Tường nói:

- Hay thay! Thưa Tôn giả! Nay do đây, nhất định tôi được Bồ-đề. Vì sao? Vì nhờ ngài đã nói pháp sâu xa cho tôi.

Diệu Cát Tường nói:

- Nay tôi chưa từng vì ngài mà tuyên nói pháp gì hoặc hiển, hoặc mật, hoặc sâu, hoặc cạn, thì làm sao khiến ngài được Bồ-đề! Vì sao? Vì tự tánh các pháp đều chẳng thể nói. Ngài bảo tôi nói pháp thậm thâm ấy tức là hành hý luận. Nhưng tôi thật chẳng phải kẻ thường nói pháp, tự tánh các pháp cũng chẳng thể nói.

Như có người cho rằng, ta có khả năng biện thuyết về tướng thức của huyễn sĩ; nghĩa là nói các tướng thức của huyễn sĩ sai khác như thế như thế. Do nói như vậy, mà người ấy hại lời nói chơn thật của mình. Vì sao? Vì kẻ huyễn sĩ ấy còn chẳng có thức, huống nữa là có tướng thức! Nay ngài cho rằng tôi nói pháp sâu xa, khiến cho ngài chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng lại như thế. Vì tất cả pháp đều như việc huyễn, tánh rốt ráo Không, còn chẳng thể biết, huống nữa là có tuyên thuyết.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Năng Thắng đi đến chỗ ấy, nghe rồi khen rằng:

- Hay thay! Hay thay! Chánh sĩ, Đại sĩ khéo cùng biện thuyết pháp môn sâu xa.

Diệu Cát Tường gạn hỏi Vô NăngThắng:

- Chánh sĩ, Đại sĩ nói pháp gì? Bởi vì Bồ-tát chẳng nghĩ rằng: Ta là Bồ-tát Chánh sĩ, Đại sĩ, có thể vì hữu tình nói pháp sâu xa. Nếu kẻ nào khởi nghĩ như thế tức là hành hý luận.

Lại nữa,Vô Năng Thắng! Tự tánh của tiếng vang trong hang núi thật có thể phát ra lời nói, làm cho người nghe nhận biết, luận nói các pháp chăng?

Vô Năng Thắng đáp:

- Không.

Diệu Cát Tường nói:

- Đúng vậy, tất cả các pháp đều chẳng thật, đều như tiếng vang, không danh, không tướng, không thể nắm giữ. Đối với pháp đây mà chấp trước, tức là hành hý luận. Nếu hành hý luận thì trôi lăn trong sanh tử. Đối với tất cả pháp như tiếng vang, chúng sanh chẳng như thật biết, khởi lên các sự tranh đấu. Vì khởi sự tranh đấu, nên tâm bị dao động. Khi tâm dao động, thì tạo ra nhiều sự mê lầm. Sự mê lầm tăng nên luân hồi trong các nẻo.

Do vậy, ngày đêm đức Thế Tôn đích thân dạy bảo các Bí-sô rằng: “Này các Bí-sô! Các ông chớ hành hý luận. Đối với pháp tịch diệt mà Ta đã dạy, các ông thường nên suy gẫm, quán sát, thẩm xét cho đúng, tinh cần tu tậpđắc pháp nhẫn.

Như vậy, đức Năng Tịch Đại Thánh Pháp Vương nói bản tánh Không của các pháp tịch tĩnh, không nhiễm, không đắc, không chỗ nương trụ; ai khéo như thật biết thì giải thoát sanh tử, nhất định sẽ chứng được Bồ-đề, Niết-bàn.

Sau khi nghe lời ấy, Long Cát Tường liền hỏi lại Diệu Cát Tường:

- Tôn giả giải thoát từ sanh tử nào?

Diệu Cát Tường đáp:

- Ngài bảo Như Lai từ sanh tử nào mà được giải thoát? Đức Thế Tôn Thập Lực thuờng nói, quá khứ, vị lai, hiện tại là pháp sanh tử.

Long Cát Tường nói:

- Đức Thế Tôn há chẳng nói tất cả pháp đều như huyễn hóa sao? Như thế, lẽ nào có hữu tình vốn đã chứng Vô thượng Bồ-đề lại có sanh tử? Vì sao? Vì Tôn giả cũng nói các pháp chẳng thật, đều như huyễn hoá.

Diệu Cát Tường nói:

- Từ xưa đến nay, tôi đối với tánh tướng của pháp, chưa từng tuyên thuyết, cũng chẳng phân biệt, nắm giữ hay tạo tác. Vì sao? Vì tánh tướng của các pháp chẳng thể nêu bày, chẳng thể phân biệt, chẳng thể nắm giữ, chẳng thể tạo tác. Tất cả hữu tình nếu như thật thấu rõ các pháp đều như huyễn hóa, thì lẽ ra đã chứng Vô thượng Bồ-đề. Nhưng bởi hữu tình chẳng thông suốt tất cả pháp đều như huyễn hóa, nên trôi lăn sanh tử trong các cõi. Như nhà huyễn thuật, nương vào bất cứ vật nào cũng làm ra được các vật huyễn hóa, đó là thế gian, trời, Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, các rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc… chúng người chẳng phải người. Các loài ngu si, mê chấp cho là thật có. Huyễn sư, bậc trí đều biết không có thật tánh, chỉ có các thứ tướng hư dối biến hiện.

Các pháp như vậy, tuy như huyễn như hóa, nhưng các loài hữu tình ngu si chẳng biết rõ, nên phi hữu cho là hữu, vô thường chấp là thường; ở trong các pháp phân biệt đủ loại: như phân biệt sắc, hoặc phân biệt tâm, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu v.v... Phân biệt đủ thứ như vậy. Do sự phân biệt đây, nên đối với các pháp chẳng như thật biết đều như huyễn hóa. Bởi chẳng biết nên luân hồi sanh tử.

Nếu các hữu tình đối với tất cả pháp như thật biết rõ đều như huyễn hóa, thì đối với Phật pháp lại chẳng tăng trưởng. Vì sao? Vì các loài hữu tình bản lai đều có diệu pháp của chư Phật, tất cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí. Do đó, các hữu tình đều có thể an lập nơi diệu pháp của Phật, tuệ giác không động, biết pháp tánh Không, không danh, không tướng, không nương, không trụ, không lấy, không chấp, không ngăn ngại, không dính mắc, giống như hư không, không tàng chứa, không nắm giữ, vô thượng vắng lặng, cùng cực vắng lặng, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không thành không hoại, chẳng có chẳng không. Do đó, ở trong thành nhẫn sâu xa, thường chẳng xa lìa diệu pháp của chư Phật. Vì sao? Vì diệu pháp của chư Phật lìa tánh, lìa tướng, không thể thiết lập, không thể tuyên thuyết, không thể nêu bày, khắp các loài hữu tình đều như hư không.

Khi Long Cát Tường nghe pháp sâu xa này vui mừng hớn hở, khen Diệu Cát Tường:

- Hay thay, hay thay! Tôn giả đã nói pháp sâu xa mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Nói các hữu tình thường chẳng xa lìa diệu pháp của chư Phật, ai tin hiểu được?

Diệu Cát Tường đáp:

- Các đệ tử chơn thật của Phật đều tin hiểu được. Đó là những vị tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, hoặc Đệ bát, hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A-la-hán, hoặc các Độc giác, hoặc các Bồ-tát đã được Bất thối chuyển, không động, không chuyển đối với các bạch pháp, đã khéo an trụ pháp rốt ráo Không, pháp vô sở đắc. Những người này có khả năng tin hiểu đuợc. Vì sao? Vì tòa Bồ-đề vi diệu của các Bồ-tát này đã hiện ra trước mặt, có thể đối trước thế gian, Thiên, Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, Sa-môn, Phạm chí, A-tố-lạc, người chẳng phải người v.v… rống lớn tiếng sư tử: “Ta ngồi kiết già nơi toà này cho đến khi được Vô thượng Bồ-đề, nếu chưa chứng được thì quyết chẳng rời toà này.” Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã khéo an trụ pháp rốt ráo Không, pháp vô sở đắc, không thể động vậy. Ví như cái cọc được đóng rất vững chắc, các trâu chúa… bị buộc chẳng lay động được. Cũng vậy, Bồ-tát đã khéo an trụ pháp rốt ráo Không, pháp vô sở đắc, tất cả hữu tình chẳng thể làm khuynh động, chẳng thể làm xa lìa năng giác, sở giác và tòa Bồ-đề.

Long Cát Tường hỏi:

- Năng giác, sở giác, và tòa Bồ-đề có chỗ nói được sao?

Diệu Cát Tường hỏi gạn lại rằng:

- Thế nào gọi là Như Lai biến hóa? Thế nào gọi là chỗ Như Lai biến hóa? Thế nào là chỗ Như Lai nương biến hóa? Thế nào là pháp chứng Như Lai biến hoá, do đây nói là Như Lai biến hóa thuyết pháp, chỉ dẫn?

Long Cát Tường đáp:

- Tôi còn chẳng thấy có thật Như Lai, huống nữa là thấy có Như Lai biến hóa, chỗ biến hóa, chỗ nương biến hóa, pháp chứng biến hoá. Do đây có thể nói Như Lai biến hóa, thuyết pháp, chỉ dẫn.

Diệu Cát Tường bảo:

- Hay thay, hay thay! Chỗ ngài nói, chỗ ngài biết rất là đúng lý. Ngài đã chứng được tất cả pháp vô sở đắc nhẫn, nên mới có thể nói được như thế. Năng giác, sở giác… nên biết cũng thế.

Long Cát Tường nói:

- Chẳng phải tất cả pháp vô sở đắc nhẫn có khởi có hoại. Vì sao? Vì tất cả pháp là Không, không có tự tánh, tự tướng cũng Không. Các pháp như thế không tướng, không đối, không sắc, không thấy, ngang cùng hư không, thì làm sao khởi được nơi tất cả pháp vô sở đắc nhẫn?

Nếu tất cả pháp vô sở đắc nhẫn có nghĩa khởi được, thì nhẫn tiếng vang trong hang, hoặc nhẫn ánh sáng, hoặc nhẫn nước bọt, hoặc nhẫn bong bóng nước, hoặc nhẫn quáng nắng, hoặc nhẫn cây chuối, hoặc nhẫn việc huyễn, hoặc nhẫn cảnh mộng, hoặc nhẫn biến hóa, hoặc nhẫn ảnh trong gương, hoặc nhẫn thành Tầm hương (ảnh ảo), hoặc nhẫn cõi hư không đều phải có nghĩa khởi. Vì sao? Vì nhẫn hư không v.v… có nghĩa khởi thì điều này nhất định không có.

Nếu Đại Bồ-tát nghe pháp như thế mà chẳng kinh, chẳng sợ, không mê hoặc, không nghi ngờ, tâm chẳng mờ mịt, tức là Bồ-tát Vô thượng pháp nhẫn .

Diệu Cát Tường hỏi:

- Các chúng Bồ-tát không đắc pháp nhẫn chẳng lẽ không sai khác?

Long Cát Tường đáp:

- Nếu chúng Bồ-tát đối với pháp mà có chút phần chấp trước, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Đối với pháp nhẫn sâu xa, ta đều hiểu rõ thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta là kẻ thành tựu nhẫn sâu xa, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Đối với pháp sâu xa, ta đều có thể tín thọ thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Đối với các nghĩa, ta đều có thể hiểu rõ thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Đối với các pháp, ta đều có thể thấu triệt thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể hiểu rõ bản tánh các pháp, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể tu hành các đạo Bồ-tát, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể nghiêm tịnh nhiều cõi Phật, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể thành thục các loài hữu tình, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Đối với Bồ-đề, ta quyết định sẽ chứng được, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta nhất định chuyển được bánh xe pháp Vô thượng, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể cứu vớt các loài hữu tình, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có hành, ta có chứng, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể tu hành bốn niệm trụ…, ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể tu hành tĩnh lự, vô lượng, đẳng trì, đẳng chí, môn Đà-la-ni, thì gọi là hành có sở đắc.

Nếu các Bồ-tát nghĩ rằng: Ta có thể chứng đắc vô lượng, vô biên diệu pháp của chư Phật, như mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng... thì gọi là hành có sở đắc. Nếu Bồ-tát không hành có sở đắc, thì không đắc pháp nhẫn chẳng có sai khác.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Nếu vậy, Bồ-tát làm sao tu học hướng tới hạnh Bồ-đề?

Long Cát Tường đáp:

- Nếu chúng Bồ-tát đối với các pháp, không nắm giữ thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ-đề. Nếu chúng Bồ-tát đối với các pháp, không nương tựa cậy nhờ thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ-đề. Nếu chúng Bồ-tát hiện quán các pháp, nương gá các duyên Không, không có tự tánh, lìa ngã, ngã sở, thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ-đề. Nếu chúng Bồ-tát dù có sở hành nhưng không tưởng hành, thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ-đề.

Diệu Cát Tường nói:

- Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như ngài đã nói. Như người trong mộng, tuy nói là đến đi, dừng nghỉ ở khắp nơi, nhưng thật không có đi đứng ngồi nằm, cũng không thật có chỗ để đến đi. Bồ-tát cũng thế, tuy trong lúc tỉnh, có tu hànhkhông tưởng hành. Quán hạnh sở hành bản tánh đều Không. Đối với các pháp không có nắm giữ. Thông đạt tất cả pháp đều không có tướng trạng, không tàng chứa, không thủ giữ, đồng với hư không v.v… bản tánh Không, vắng lặng. Nếu các Bồ-tát hành được như thế, không có nắm giữ, lìa các hý luận, thì đó là ruộng phước chơn tịnh cho trời, người…, xứng đáng nhận sự cúng dường, cung kính của thế gian.

Đại Bồ-tát Long Cát Tường nghe vậy, vui mừng hớn hở nói:

- Kính thưa Tôn giả! Tôi nay muốn đến thành Thất-la-phiệt, vì hữu tình mà tuần hành khất thực.

Diệu Cát Tường nói:

- Ngài đi tuỳ ý. Nhưng khi đi chớ được cất chân, chớ được hạ chân, chớ co chớ duỗi, chớ khởi tâm ta, chớ dấy hý luận, chớ sanh tưởng đường sá, chớ sanh tưởng thành ấp xóm làng, chớ sanh tưởng nam nữ lớn nhỏ, chớ sanh tưởng đường lớn, ngõ hẻm, vườn rừng, nhà cửa v.v... Vì sao? Vì Bồ-đề xa lìa các tưởng sở hữu, không cao không thấp, không nắm không buông, tâm dứt dao động, lời mất hý luận, không có số lượng. Đó là chỗ hướng tới Bồ-đề của Bồ-tát. Nếu ngài có thể đi được như thế, thì tùy ý đi mà hành khất thực.

Long Cát Tường nương vào uy lực dạy bảo ấy, nhập định Hải dụ. Ví như biển cả, nước rộng sâu, lặng yên, có nhiều ngọc báu, đầy đủ sinh mạng các loài thủy tộc. Định đây cũng thế, uy lực rộng sâu, thần dụng khó nghĩ, ba nghiệp an tĩnh, đủ các báu công đức, nhiếp dưỡng hàm thức.

Bấy giờ, có Bồ-tát tên là Thiện Tư, vì muốn làm cho Long Cát Tường mau ra khỏi định nên khởi lập đại gia hạnh, để gây xúc chạm dao động thân ngài. Thiện Tư làm các núi, đại địa trong Tam thiên đại thiên thế giới biến động sáu cách, nhưng thân tâm Long Cát Tường vẫn an tĩnh, vững chãi chẳng động, như núi Diệu Cao. Vì sao? Vì do định ấy, nên thân ngữ ý của ngài an trụ không động. Sau khi xuất định, mưa xuống các hương hoa, Long Cát Tường hướng về rừng Thệ-đa, cúi mình chấp tay, chí thành cung kính, nói như vầy:

- Kính lạy đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác! Ngài đã chứng, đã nói pháp tuyệt diệu sâu thẳm, tự tánh đều Không, không nhiễm, không đắc, khiến cho người nghe được thắng định này.

Bồ-tát Thiện Tư bèn hỏi:

- Ngài ở trong định có cảm biết động đất chăng?

Long Cát Tường đáp:

- Thiện Tư phải biết! Nếu những ai thân tâm dao động thì thấy đại địa… cũng dao động. Chư Phật Thế Tôn, Bồ-tát Bất thối chuyển, đại Độc giác và đại A-la-hán thân tâm an tĩnh, xa lìa sự dao động; ở trong các pháp không thấy, không biết có động, có chuyển, có nghiêng có lay. Vì sao? Vì các ngài thường an trụ pháp không động, không chuyển, không nghiêng, không lay; nghĩa là chứng tướng Không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, pháp xa lìa, bản tánh Không. Do trụ pháp này nên thân tâm không động.

Diệu Cát Tường thấy nghe vậy, vui mừng khen ngợi Long Cát Tường:

- Lành thay, lành thay! Ngài thành tựu được việc này, nay tùy ý vào thành khất thực.

Long Cát Tường đáp:

- Tôi nay đã chứng pháp thực vô thượng thắng định Hải dụ, nên chẳng còn mong cầu các loại đoạn thực. Tôi nay chỉ cầu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đavô biên hạnh thù thắng khác của Bồ-tát, để mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển bánh xe diệu pháp, cứu vớt các loài hữu tình thoát khổ lớn sanh tử, khiến cho trụ Niết-bàn thanh tịnh rốt ráo. Tôi nay chỉ muốn xả bỏ các hành, chẳng muốn nuôi dưỡng thân tâm tạp uế. Nay nhờ Tôn giả, người bạn lành chơn tịnh, thương xót trợ lực tôi chứng được định thù thắng, tôi xin đảnh lễ: Thù Diệu Cát Tường, Vô Biên Cát Tường, Dũng Mãnh Cát Tường, Quảng Đại Cát Tường, Diệu Pháp Cát Tường, Thắng Huệ Cát Tường, Nan Tư Cát Tường, là bạn lành Đại tiên, bạn lành chơn tịnh.

Diệu Cát Tường nói:

- Lành thay, lành thay! Ngài đạt được thắng định Hải dụ như thế, thấy rõ các pháp như tiếng vang, như ảnh tượng, như mộng, như huyễn, như quáng nắng, như ánh sáng, như việc biến hóa, như thành Tầm hương. Nay ngài nên cầu vô lượng, vô biên các pháp thực vô thượngmười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v… để tự nuôi thêm Pháp thân giải thoát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác đều do pháp thực đây mà an trụ, trải qua vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp chẳng thể nghĩ bàn như số cát sông Hằng. Vì sao? Vì pháp thực như thế vô lậu, không ràng buộc, giải thoát hẳn sự chìm đắm mà pháp thế gian không thể xa lìa, cũng làm cho dứt hẳn tất cả kiêu mạn, không tàng chứa, không thủ giữ, không các hý luận, bản tánh Không, vắng lặng. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đều mong cầu pháp thực đây, ngài cũng nên mong cầu, chớ cầu pháp thực thế gian thấp kém!

Long Cát Tường nói:

- Nay nghe ngài tán thán pháp thực vô thượng như vậy, tôi đã muốn no đủ, huống nữa là thọ dụng! Nếu đời sau, tôi ăn được pháp thực đó thì dùng vô thực mà làm phương tiện, khi mình no đủ rồi, cũng giúp cho tất cả hữu tình được no đủ.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Ngài làm cho cõi hư không no đủ được chăng?

Long Cát Tường đáp:

- Chẳng được.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Ngài làm cho tiếng vang, ảnh tượng, mộng, huyễn, quáng nắng, ánh sáng, các việc biến hóa, thành Tầm hương no đủ được chăng?

Long Cát Tường đáp:

- Chẳng được.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Ngài có thể dẫn các dòng sông chảy về đầy các biển cả được chăng?

Long Cát Tường đáp:

- Chẳng được.

Diệu Cát Tường nói:

- Các pháp cũng vậy, ngài muốn no đủ tất cả được sao? Ngài muốn tất cả đều no đủ, tức là muốn no đủ cõi hư không, cũng muốn no đủ tiếng vang, ảnh tượng, mộng….; cũng muốn no đủ tất cả biển lớn; cũng muốn no đủ tất cả pháp Không, vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sanh, vô diệt; cũng muốn no đủ tất cả sự xa lìa, vắng lặng, lìa nhiễm, Niết-bàn, giải thoát rốt ráo; cũng muốn no đủ vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng đồng với hư không, chẳng thể thủ chấp chơn như pháp giới.

Long Cát Tường nói:

- Như lời ngài nói, thức ăn và người ăn hoàn toàn đều Không. Vậy thì các hữu tình chẳng nên nhờ vào vật thực.

Diệu Cát Tường nói:

- Đúng vậy, đúng vậy! Tất cả hữu tình đều chẳng nhờ vào vật thực. Giả sử Phật hóa làm các loài hữu tình nhiều như số cát sông Hằng v.v… cần vật thực thì Ngài khiến ai tạo ra vật thực ấy?

Long Cát Tường nói:

- Chúng sanh được biến hóa không ăn, thì đâu cần tạo ra vật thực!

Diệu Cát Tường nói:

- Pháp và hữu tình đều như huyễn hóa, cho nên tất cả đều không cần ăn. Nếu các hữu tình đều chẳng như thật thông đạt các pháp như huyễn hóa, thì sẽ luân hồi sanh tử trong các cõi. Hư dối mà cho là có thể nương nhờ, song chỗ nương nhờ ấy đều chẳng thể được. Nếu như thật quán sát pháp và hữu tình, tự tánh đều Không, không chút chơn thật thì không cần nương nhờ các vật thực.

Long Cát Tường nói:

- Tôi nay muốn dứt hẳn sự đói khát.

Diệu Cát Tường nói:

- Sự đói khát còn không có, huống nữa là có đoạn dứt. Ví như huyễn sĩ nói như vầy: “Tôi muốn tìm nước trong quáng nắng để dứt trừ sự đói khát.” Ngài cũng thế. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như quáng nắng, tất cả hữu tình đều như huyễn sĩ, làm sao muốn dứt trừ đói khát. Trong pháp đã tạo hư dối phân biệt, người đoạn và cái để đoạn đều bất khả đắc. Đã không có đói khát thì ai trừ đoạn cái gì? Các pháp xưa nay, tự tánh no đủ, đều không đói khát thì trừ dứt cái chi?

Kẻ ngu đối với pháp đây chẳng như thật biết, cho rằng ta đói khát, nên tìm cách trừ dứt sự đói khát ấy. Còn những người có trí, thì như thật biết đói khát vốn không, chẳng cầu trừ dứt. Đã thấu rõ được tánh Không của các pháp, nên chẳng còn luân hồi sanh tử trong các nẻo nữa, xa lìa hý luận, không có phân biệt. Đối với tất cả pháp, trụ chỗ vô trụ, không nương, không nhiễm, không vào không ra, giải thoát rốt ráo, hết hẳn phân biệt.

Long Cát Tường nói:

- Như các pháp yếuTôn giả nói, đúng vậy, đúng vậy! Pháp giới như vậy đã hiện ra!

Diệu Cát Tường nói:

- Chẳng phải chơn pháp giớihiện có mất, có co có giãn. Vì sao? Vì chơn pháp giới lìa tướng, vắng lặng, không hiện không mất, không thể phân biệt, không thể hý luận, không nương không trụ, không lấy không bỏ, không động không chuyển, không nhiễm không tịnh. Như cõi hư không không động không chuyển, không lấy không bỏ, không nương không trụ, không thể hý luận, không thể phân biệt, không hiện không mất. Các pháp cũng thế, tự tướng vốn Không, tánh ấy cũng chẳng có tướng, bất khả đắc. Nếu tướng của các pháp có thể đắc thì Phật vào Niết-bàn cũng có thể đắc.

Tất cả pháp không có táng chứa, không có thủ giữ, không sắc, không thấy, không đối, không tướng, bản lai vắng lặng. Cho nên hằng hà sa số chư Phật mặc dù đã vào Niết-bàn nhưng không có một pháp nào diệt. Nghĩa là không có sắc uẩn diệt và thọ, tưởng, hành, thức uẩn diệt. Cũng không có nhãn xứ diệt và nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ diệt. Cũng không có sắc xứ diệt và thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ diệt. Cũng không có nhãn giới diệt và nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới diệt. Cũng không có sắc giới diệt và thanh, hương, vị, xúc, pháp giới diệt. Cũng không có nhãn thức giới diệt và nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới diệt. Cũng không có nhãn xúc diệt và nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc diệt. Cũng không có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ diệt và nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ diệt. Cũng không có địa giới diệt và thủy, hỏa, phong, không, thức giới diệt. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết-bàn nhưng không có một pháp nào vào Niết-bàn.

Có những kẻ muốn khiến cho Niết-bàn có pháp diệt, tức là muốn làm cho cõi hư không kia cũng diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh, bản lai tịch diệt, tự tánh vắng lặng, cực vắng lặng, nên không thể diệt.

Những kẻ ngu si chẳng như thật biết, khi vào Niết-bàn mới khởi tưởng diệt, cho rằng ngã và ngã sở nay mới diệt. Do những kẻ ấy chấp trước ngã và hữu tình, cho đến tri giả, đạo giả và do chấp tự tánh pháp có không, tất cả diệt hẳn khi vào Niết-bàn. Ta nói những hạng ấy không thể giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì những kẻ ngu si kia chẳng biết, chẳng ngộ bản tánh các pháp. Do chẳng hiểu biết bản tánh các pháp, nên cùng Phật Thế Tôn và các đại đệ tử Bồ-tát Bất thối chuyển đối với pháp sâu xa, hết lòng tin hiểu, thường ưa hạnh thọ hành vô sở đắc; ở chỗ chư Phật quá khứ, trồng nhiều căn lành, có thần thông lớn, đủ thế lực lớn. Thương chủ chơn tịnh, Tiên thiên vô thượng, thường chống trái tranh cãi. Vì tranh đấu nhau nên những kẻ ngu kia chìm đắm mãi trong hôi uế bất tịnh. Tất cả Hiền thánh đều xa tránh việc ấy. Bậc trí đồng quở trách sanh tử tệ ác. Như đống phân uế gần thành phố xóm làng, ngày đêm người vật tới lui, như thế ngày càng thêm bất tịnh, đáng ghét, hôi thối, tiện lợi cho loài vật dơ. Cũng vậy, kẻ ngu đối với bản tánh của pháp chẳng thể hiểu biết, nên việc ác càng thêm tăng trưởng, sanh ra điều sanh tử thối tha bất tịnh; Hiền thánh quở trách, kẻ trí xa lìa. Ta nói những kẻ ấy chẳng thể nào giải thoát được các thứ tội lỗi sanh già bệnh chết v.v…

Long Cát Tường hỏi:

- Thưa Tôn giả! Đối với pháp, làm sao có thể như thật biết?

Diệu Cát Tường đáp:

- Với những kẻ có khả năng dùng tâm không phân biệt, tùy thuận xa lìa, hướng tới xa lìa, vào hẳn xa lìa, đối với pháp mới có khả năng như thật biết.

Long Cát Tường hỏi:

- Đối với việc huyễn, ai có thể xa lìa được?

Diệu Cát Tường đáp:

- Đối với việc huyễn, những người đó có thể xa lìa.

Bấy giờ, Thiện Hiện đi đến chỗ ấy hỏi:

- Hai Đại sĩ luận việc gì vậy?

Diệu Cát Tường hỏi vặn lại:

- Đại đức! Nay nói pháp nào gọi là Đại sĩ? Chúng tôi chẳng thấy có một chút pháp nào có thể gọi là Đại sĩ mà cùng luận nói. Đại Thánh Pháp Vương cũng chưa từng nói có chút thật pháp gọi là Đại sĩ. Các pháp như tiếng vang, đều chẳng chơn thật. Tiếng vang ấy nào có đàm luận gì!

Sau khi nghe lời ấy, cụ thọ Thiện Hiện nhập vào môn Tam-ma-địa vô sở đắc, chừng giây lát, rồi từ định xuất, chấp tay cung kính hướng về rừng Thệ-đa nói như vầy:

- Con nay quy y những điều mà Phật đã chứng, đã thuyết, pháp ấy rất sâu xa, vi diệu, vắng lặng, khó thấy khó biết, chẳng thể nghĩ bàn, vượt cảnh giới tư duy, trừ hẳn chấp thủ, dứt các ràng buộc. Diệu pháp như thế chẳng thể nghĩ bàn, khiến các hữu tình nghe được lợi ích an vui. Như các Bồ-tát đã được bất thối chuyển, Mạn-thù-thất-lợi làm thượng thủ, cho đến hoặc có các chúng Bồ-tát mới phát tâm hướng tới đại Bồ-đề, đều cùng ở trong pháp sâu xa đây, lần hồi cùng nhau đàm luận việc ấy.

Diệu Cát Tường nói:

- Đại đức! Phải biết trong đây không có kẻ thân, không phải không có kẻ thân, cũng không có mê lầm, chẳng có kẻ mê lầm. Lại không có việc lần hồi cùng nhau đàm luận. Vì sao? Vì không có một chút pháp nào cùng với một chút pháp nào làm thân hay oán... Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện lại hỏi:

- Khi nãy thấy hai Đại sĩ cùng luận pháp sâu xa, vì sao nói không có việc đàm luận?

Diệu Cát Tường hỏi lại:

- Đại đức có nghe nói huyễn sĩ, cảnh mộng, tiếng vang, ảnh tượng, quáng nắng, ánh sáng, biến hóathành Tầm hương lần hồi cùng luận nghĩa pháp sâu xa chăng?

- Chẳng nghe.

Diệu Cát Tường nói:

- Các pháp như huyễn, như cảnh mộng, như tiếng vang…, sao có thể nói thấy đàm luận cùng nhau? Lẽ nào có việc huyễn sĩ nghe Phật biến hóa nói pháp nghĩa sâu xa, mà tin hiểu thọ trì, nắm giữ tướng, suy nghĩ danh thân…?

Nghe nói vậy, ngay chỗ đó Thiện Hiện nhập Diệt định.

Lúc đó, Xá-lợi Tử đến hỏi Diệu Cát Tường:

- Thưa Đại sĩ! Đại sĩ có biết Thiện Hiện đã vào những định nào không?

Diệu Cát Tường đáp:

- Thưa Xá-lợi Tử! Đại đức Thiện Hiện chẳng trái một chút với pháp, do đó thường vào những định chẳng trái với pháp: định Vô sở trụ, định Vô y pháp, định Vô chấp tạng, định Hại chấp tạng. Trong đây chẳng trụ có lời có nói, có đến có đi, có đứng có nằm. Vì sao? Vì Đại đức Thiện Hiện tin hiểu tự tánh các pháp đều Không, bất khả đắc vậy.

Xá-lợi Tử lại hỏi:

- Các pháp lấy gì làm tánh?

Diệu Cát Tường đáp:

- Các pháp đều lấy vô tánh làm tánh. Vô tánh như thế cũng bất khả đắc.

Ngay lúc ấy Thiện Hiện xuất định. Diệu Cát Tường thúc:

- Giờ ăn sắp đến, nên mau vào thành, kinh hành khất thực!

Thiện Hiện nói:

- Đại sĩ nên biết! Tôi nay chẳng vào thành khất thực nữa. Vì sao? Vì tôi đã xa lìa tất cả tưởng thành ấp, xóm làng; cũng đã xa lìa tưởng các sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Diệu Cát Tường hỏi:

- Đại đức Thiện Hiện! Nếu đã xa lìa tất cả tưởng, thì vì sao nay còn có đến, đi, qua, lại?

Thiện Hiện gạn lại:

- Như Lai biến hóa, sao nay lại có các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức…? Vì sao nay có đến đi, qua lại, co dũi, ngó xem?

Diệu Cát Tường đáp:

- Hay thay, hay thay! Đại đức Thiện Hiện! Đại đức là chơn tử của Phật! Cho nên, Như Lai thường nói Thiện Hiện là người được trụ Vô tránh tối thượng đệ nhất.

Lại nói:

- Đại đức! Thôi, gác qua việc này, tôi muốn vào thành tuần hành khất thực. Sau khi dùng cơm xong, đến chỗ Như Lai, tôi sẽ phụng thỉnh, đãi các Đại đức một bữa ăn đặc biệt hiếm có, khiến được thiện lợi!

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nay vì chúng tôi, Đại sĩ đãi những thức ăn gì?

Diệu Cát Tường đáp:

- Đại đức! Tôi đãi thức ăn chẳng thể cắt khúc chia cục, chẳng thể nếm ngậm nhai nuốt, chẳng phải hương vị xúc, chẳng nhiếp thuộc ba cõi, cũng chẳng phải không ràng buộc. Đại đức nên biết, thức ăn mầu nhiệm như thế là thức ăn của Như Lai, chứ chẳng phải thức ăn khác.

Xá-lợi Tử nói:

- Nay chúng tôi nghe Đại sĩ nói tên thức ăn hiếm có này đều đã no đủ, huống nữa là được ăn thật.

Diệu Cát Tường nói:

- Thức ăn của tôi nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn đều không thể thấy.

Bấy giờ, Thiện Hiện và Xá-lợi Tử nghe lời thành thật như thế liền nhập vào Diệt định.

Bồ-tát Thiện Tư hỏi Diệu Cát Tường:

- Hai thượng nhân đây nay ăn những thức ăn gì? Vào những định gì?

Diệu Cát Tường đáp:

- Hai Tôn giả này ăn thức ăn vô lậu, vào định vô sở y, vô tạp nhiễm. Những ai ăn thức ăn này, trụ định này thì hoàn toàn không còn ăn thức ăn của ba cõi nữa.

Thiện Hiện và Xá-lợi Tử lại xuất định, cùng Diệu Cát Tường và các chúng Bồ-tát, Thanh văn… vui mừng thăm hỏi lẫn nhau, rồi đồng đi vào thành, tùy ý tuần hành khất thực.

Cụ thọ Thiện Hiện đi đến một nhà trống vắng, đứng lặng lẽ. Có người nữ cận sự thấy hỏi:

- Đại đức đứng đây muốn điều gì?

Thiện Hiện đáp:

- Cô phải biết, vì khất thực nên tôi đến đứng đây.

Nữ cận sự hỏi:

- Thánh giả Thiện Hiện! Nay đối với tưởng ăn, ngài chưa biết khắp sao?

Thiện Hiện đáp:

- Từ xưa đến nay, có bao nhiêu tưởng ăn, tôi đều đã biết khắp. Vì sao? Vì tất cả tưởng ăn trước giữa sau đều tự nhiên, Không.

Nữ cận sự nói:

- Dạ phải! Thánh giả nên đưa tay ra, con sẽ dâng cơm.

Cụ thọ Thiện Hiện bèn đưa tay ra.

Nữ cận sự hỏi:

- Thánh giả Thiện Hiện! Tay A-la-hán thế này ư?

Thiện Hiện đáp:

- Tay A-la-hán chẳng phải thấy được, cũng chẳng thể đưa ra. Ví như huyễn sĩ hỏi huyễn sĩ kia rằng: “Cái gì gọi là tay huyễn sĩ? Tôi nay muốn thấy, xin đưa ra cho.” Cô phải biết! Tay của huyễn sĩ kia có thể thấy và có thể đưa ra được sao?

Nữ cận sự nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng thể thấy được.

Thiện Hiện nói:

- Đúng vậy. Này cô! Đức Phật nói tất cả đều như huyễn, đều Không, nên chẳng thể nói tay A-la-hán là thật, có thể thấy và có thể đưa ra được.

Khi nghe nói như thế, người nữ kia liền chẳng thấy tay Thiện Hiện, bàn tay biến mất thật lâu làm cho người nữ kia cúng vật thực không được, muốn để vào bát, bát cũng không hiện. Nữ cận sự kia xem quanh thân Thiện Hiện, tìm khắp chẳng thấy tay đâu. Trong chớp mắt thân biến mất luôn. Nữ cận sự cung kính khen Thiện Hiện:

- Hay thay, hay thay! Quả là bậc Thánh mới làm được như thế! Thân chẳng trụ, tướng cũng chẳng hiện, thật là hiếm có. Vậy nên, Như Lai thường nói: “Thiện Hiện được trụ Vô tránh tối thượng đệ nhất.”

Ngay khi ấy, nữ cận sự liền dứt hẳn ngã kiến, được quả Dự lưu.

Cụ thọ Thiện Hiện bèn hiện thân ra, khen rằng:

- Hay thay, hay thay! Cô đã thành nghiệp trượng phu như thế.

Bấy giờ, người nữ vui mừng hớn hở, đem thức ăn dâng cho Thiện Hiện. Thiện Hiện nhận rồi, trở về dùng bữa.

Diệu Cát Tường cùng các chúng Bồ-tát, Thanh văn v.v… dùng cơm xong, đồng đến chỗ Phật đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu bên phải ba vòng, lui ngồi một bên, đem việc vừa rồi trình bày đầy đủ lên Thế Tôn.

Như Lai nghe những vị ấy thuật lại, bèn khen rằng:

- Hay thay, hay thay! Các ông mới thành tựu việc thù thắng đó, phải biết đều là thần lực của Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện cũng đem sự việc vừa mới giáo hóa nữ cận sự được sơ quả, thưa lên Phật. Thế Tôn cũng khen ngợi Thiện Hiện phương tiện khéo giỏi.

Diệu Cát Tường bảo Thiện Hiện:

- Nữ cận sự kia đã dứt ngã kiến, tức phi ngã kiến, cho nên Như Lai gọi là ngã kiến. Như vậy, Đại đức! Những ai phát tâm hướng đến Bồ-tát thừa, đối với tất cả pháp, nên biết, nên thấy, nên tin hiểu sâu.

Tin hiểu thế nào? Nghĩa là tin hiểu đúng như pháp chẳng trụ nơi tưởng. Vì sao vậy? Đại đức Thiện Hiện! Vì kẻ tưởng pháp tức chẳng tưởng pháp, nên Như Lai gọi là tưởng pháp.

Đại đức nên biết! Giả sử Đại Bồ-tát đem bảy báu đầy ắp trong vô số thế giớibố thí; lại có thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa đây, cho đến chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, vì người khác chỉ dạy, mà không có tưởng chỉ dạy, thì thiện nam, thiện nữ v.v… này được phước báo nhiều hơn phước trước.

Bấy giờ, Thế tôn nói kệ rằng:

Tất cả pháp hữu vi

Như sao nhòa, đèn huyễn,

Sương, bọt, mộng, chớp, mây,

Nên quán sát như thế.

Khi đức Bạc-già-phạm thuyết kinh này rồi, tất cả chúng hội Bồ-tát và các Bí-sô, thế gian, trời, người, A-tố-lạc… nghe Phật nói đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành.

Quyển thứ 576
HẾT

 
HỘI THỨ 9
PHẦN KIM CƯƠNG NĂNG ĐOẠN

Tôi nghe như vầy:

Một thuở, đức Bạc-già-phạm trụ trong vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ-đa, thành Thất-la-phiệt, cùng chúng đại Bí-sô một ngàn hai trăm năm mươi vị.

Bấy giờ, vào buổi sớm, đức Bạc-già-phạm chỉnh sửa y phục, đắp y, bưng bát đi vào thành lớn Thất-la-phiệt khất thực. Đi khất thực trong thành xong, đức Bạc-già-phạm trở về lại bổn xứ, dùng cơm, thu dọn y bát, rửa chân; như thường lệ, sau khi ăn xong, Ngài trải tòa, ngồi kiết già, thân thẳng nguyện chánh, trụ niệm trước mặt.

Khi đó, các Bí-sô đi tới chỗ Phật; đến nơi, đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu bên phải ba vòng, lui ngồi một bên. Cụ thọ Thiện Hiện cũng ngồi trong chúng hội ấy.

Trong chúng, cụ thọ Thiện Hiện từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y vai phải, quì gối phải chấm đất, chấp tay cung kínhbạch Phật:

- Hy hữu thay thưa đức Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo dùng sự nhiếp thọ tối thắng nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, cho đến đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem sự phó chúc tối thắng phó chúc cho các Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Những ai phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa, nên trụ như thế nào? Nên tu hành như thế nào? Nên nhiếp phục tâm như thế nào?

Đức Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Hay thay, hay thay! Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể dùng sự nhiếp thọ tối thắng nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, cho đến đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể đem sự phó chúc tối thắng phó chúc cho các Đại Bồ-tát. Vậy nên, Thiện Hiện! Ông phải lắng nghe, thật khéo tác ý, Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Này Thiện Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa thì nên trụ như thế, tu hành như thế, nhiếp phục tâm như thế!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nguyện muốn nghe.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa, thì nên phát tâm như vầy: Có bao nhiêu loài hữu tình, hữu tình được độ, bị độ, như sanh bằng trứng, hoặc sanh bằng thai, hoặc sanh từ sự ẩm ướt, hoặc sanh từ sự biến hóa, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, cho đến hữu tình giới được tạo tác, bị tạo tác. Tất cả các hữu tình như vậy, ta đều giúp nhập vào cõi Vô dư y Niết-bàn vi diệu. Tuy đã độ vô lượng hữu tình đều được diệt độ như thế, song không có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì nếu các Đại Bồ-tát còn tưởng chuyển hữu tình thì không thể gọi là Đại Bồ-tát. Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì các Đại Bồ-tát chẳng nên nói có tưởng chuyển hữu tình; như vậy tưởng chuyển mạng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la (người), ý sanh, thiếu niên, tác giả, thọ giả, phải biết cũng thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có một chút pháp nào gọi là người phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng trụ nơi việc hành bố thí, hoàn toàn vô trụ mà hành bố thí. Chẳng trụ nơi sắc mà hành bố thí; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí.

Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát chẳng trụ tướng tưởng mà hành bố thí. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không trụ mà hành bố thí, thì số phước đức kia chẳng thể tính lường.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Hư không phương Đông tính lường được không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không được.

- Này Thiện Hiện! Như vậy phương Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, bốn góc, tất cả hư không thế giới khắp mười phương tính lường được không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không trụ mà hành bố thí, thì số phước đức kia cũng không thể tính lường.

Thiện Hiện! Như vậy Bồ-tát chẳng trụ tướng tưởng mà hành bố thí.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Chẳng thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai nói các tướng đầy đủ, tức chẳng phải các tướng đầy đủ.

Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Thiện Hiện! Các tướng đầy đủ đều là hư dối, cho đến chẳng phải tướng đầy đủ đều chẳng phải hư dối. Như vậy, nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sau đời đương lai hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, thời phần chuyển, có hữu tình nào nghe câu kinh điển nói sắc như thế, mà sanh thật tưởng chăng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Chớ nói rằng, sau đời đương lai hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, có hữu tình nào nghe câu kinh điển nói sắc như thế, mà sanh thật tưởng chăng? Này Thiện Hiện! Sau đời đương lai hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, có Đại Bồ-tát đầy đủ giới, đầy đủ đức, đầy đủ tuệ. Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng phải ở một chỗ Phật vâng thờ cúng dường, chẳng phải ở một chỗ Phật trồng các căn lành. Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng phải ở chỗ một trăm ngàn Phật vâng thờ cúng dường, chẳng phải ở chỗ một trăm ngàn Phật trồng các căn lành, được nghe câu kinh điển nói sắc như thế nên được một tâm tịnh tín.

Thiện Hiện! Như lai dùng Phật trí biết vị ấy. Như Lai dùng Phật nhãn thấy vị ấy. Thiện Hiện! Như Lai rõ biết vị ấy. Tất cả hữu tình sẽ sanh vô lượng, vô số phước đức, sẽ nắm giữ vô lượng, vô số phước đức. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy không có tưởng chuyển ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, thiếu niên, tác giả, thọ giả.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy không có tưởng chuyển pháp, không có tưởng chuyển phi pháp, không có tưởng chuyển cũng không phải không có tưởng chuyển. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ-tát có tưởng chuyển pháp, thì vị ấy liền có chấp ngã, chấp hữu tình, chấp mạng giả, chấp Bổ-đặc-già-la… Nếu có tưởng chuyển phi pháp thì vị ấy cũng có chấp ngã, chấp hữu tình, chấp mạng giả, chấp Bổ-đặc-già-la… Vì sao?

Thiện Hiện! Vì không thể nắm giữ pháp, cũng không thể nắm giữ phi pháp. Cho nên, Như Lai mật ý nói pháp môn dụ như chiếc bè. Này những người trí, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.

Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chăng? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật đã nói ấy, không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không có chút pháp nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói ra. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì pháp mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng, đã nói, đã tư duy đều không thể nắm giữ, không thể tuyên thuyết, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì sao? Vì các Hiền Thánh, chúng sanh đều là sự hiển hiện của pháp vô vi.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giớibố thí, thì thiện nam tử, hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Nhờ nhân duyên đây nên thiện nam, hoặc thiện nữ này được số phước ấy rất nhiều. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì số phước đứcNhư Lai nói là chẳng phải phước đức, cho nên Như Lai nói là số phước đức.

Phật lại bảo Thiện Hiện:

- Thiện Hiện! Nếu có thiện nam, hoặc thiện nữ đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới để bố thí, và nếu có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn này, cho đến bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây số phước được nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều từ kinh đây mà ra, chư Phật Thế Tôn đều sanh từ kinh đây. Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì pháp chư Phật mà Như Lai nói là chẳng phải pháp chư Phật. Cho nên Như Lai nói là pháp chư Phật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Các vị Dự lưu có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Dự lưu không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Dự lưu không nghĩ rằng, ta chứng được quả Dự lưu. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì các vị Dự lưu không dự một chút pháp gì nên gọi là Dự lưu. Không dự sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi Dự lưu.

Bạch Thế Tôn! Nếu vị Dự lưu nghĩ như vầy: Ta chứng được quả Dự lưu, tức là vị ấy chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la v.v…

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Các vị Nhất lai có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Nhất lai không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Nhất lai không nghĩ rằng, ta chứng được quả Nhất lai. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào để chứng tánh Nhất lai, nên gọi Nhất lai.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Các vị Bất hoàn có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Bất hoàn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Bất hoàn chẳng nghĩ rằng, ta chứng được quả Bất hoàn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào để chứng tánh Bất hoàn, nên gọi là Bất hoàn.

Phật bảo:

- Thiện hiện! Ý ông nghĩ sao? Các vị A-la-hán có nghĩ rằng: Ta chứng được quả A-la-hán không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị A-la-hán chẳng nghĩ rằng, ta chứng được tánh A-la-hán. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào gọi là A-la-hán, do nhân duyên đây nên gọi là A-la-hán.

Bạch Thế Tôn! Nếu A-la-hán khởi nghĩ như vầy: Ta chứng được tánh A-la-hán, tức là chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la… Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói: Con được trụ Vô tránh tối thượng bậc nhất. Bạch Thế Tôn! Dù con là A-la-hán lìa hẳn tham dục, song con chưa từng khởi nghĩ như vầy: Ta được A-la-hán lìa hẳn tham dục.

Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi nghĩ rằng: Ta được A-la-hán lìa hẳn tham dục, thì Như Lai chẳng nên nói với con rằng: Thiện nam tử Thiện Hiện đắc trụ Vô tránh tối thượng bậc nhất. Vì hoàn toàn vô trụ, nên Như Lai nói là Vô tránh trụ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Thuở xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có nắm giữ chút pháp nào không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Thuở xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không có chút pháp nào để nắm giữ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu có Bồ-tát nói lời như vầy: Ta sẽ thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật. Bồ-tát nói như thế là chẳng phải nói lời chơn thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi Phật ấy, Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho nên Như Lai nói là công đức trang nghiêm cõi Phật.

Vậy nên, Thiện Hiện! Bồ-tát nên sanh tâm hoàn toàn vô trụ như vậy. Nên sanh tâm chẳng trụ sắc, nên sanh tâm chẳng trụ phi sắc. Nên sanh tâm chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hoàn toàn sanh tâm vô trụ như thế.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như có người nam thân thể to lớn, giả sử sắc thân của vị ấy như núi chúa Diệu Cao. Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Thân thể của vị ấy có to lớn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế tôn! Thân thể của vị ấy rất to lớn. Bạch Thiện Thệ! Rất to lớn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì thân thể của vị ấy, Như Lai nói là chẳng phải thân thể của vị ấy, nên gọi là thân thể. Chẳng vì thân thể ấy mà gọi là thân thể.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Cho đến có bao nhiêu số cát trong sông Hằng, giả sử có số sông Hằng ngang với số cát như thế, thì số cát của các sông Hằng này chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm. Các con sông Hằng còn nhiều vô số, huống nữa là số cát ấy.

Phật nói:

- Thiện Hiện! Ta nay bảo ông, khai ngộ cho ông. Giả sửthiện nam, hoặc thiện nữ đem bảy báu đẹp đựng đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng…, dâng cúng cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Thiện nam, hoặc thiện nữ này do nhân duyên đây được số phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm. Thiện nam, hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số phước ấy rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu đem bảy báu đựng đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng, dâng cúng cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, rồi thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với pháp môn đây, cho đến bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây, được số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu địa phương nào đối với pháp môn này, cho đến vì người tuyên thuyết, chỉ bày bốn câu kệ thì địa phương đó còn được thế gian, các trời, người, A-tố-lạc… cúng dường như cúng dường linh miếu thờ Phật, huống nữa là hữu tình nào hay đối với pháp môn này biên chép, thọ trì đọc tụng đầy đủ rốt ráo, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì hữu tình như thế thành tựu công đức tối thắng hiếm có. Địa phương ấy, chỗ Đại sư ở, mỗi mỗi đều được các đồng phạm hạnh có trí tôn trọng.

Đức Phật nói xong, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp môn này nên gọi tên gì? Con phải phụng trì như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện rằng:

- Cụ thọ! Pháp môn đây gọi là Năng đoạn kim cương Bát-nhã ba-la-mật-đa. Danh tự như thế, ông nên phụng trì. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, Như Lai nói là chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho nên Như Lai gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai có thể nói chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Không có chút pháp nào Như Lai có thể nói.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Cho đến vi trần đại địa trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vi trần đại địa này rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Vi trần đại địa, Như Lai nói chẳng phải vi trần, cho nên Như Lai gọi là vi trần đại địa. Các thế giới, Như Lai nói chẳng phải thế giới, cho nên Như Lai gọi là thế giới.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng Đại sĩ phu không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng Đại sĩ phu. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ phu, Như Lai nói là chẳng phải tướng, cho nên Như Lai gọi là ba mươi hai tướng Đại sĩ phu.

Phật lại bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Giả sửthiện nam, hoặc thiện nữ, cứ mỗi ngày là xả thí thân thể mình nhiều như số cát sông Hằng. Xả thí thân mình như vậy trải qua kiếp số nhiều như số cát sông Hằng. Lại có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây, cho đến bốn câu kệ, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý. Do nhân duyên đây nên được phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghe oai lực của pháp, thương khóc rơi lệ, cúi người lau nước mắt rồi thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có! Bạch Thiện Thệ! Rất là hiếm có! Nay Như Lai đã nói ra pháp môn này, làm các nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thượng thừa, làm các nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thắng thừa.

Bạch Thế Tôn! Từ khi sanh trí tuệ đến nay, con chưa từng được nghe pháp môn như thế.

Bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình nào nghe thuyết kinh điển thâm sâu như thế mà sanh tưởng chơn thật, thì phải biết hữu tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các tưởng chơn thật, kẻ tưởng chơn thật, Như Lai nói là chẳng phải tưởng, cho nên Như Lai gọi là tưởng chơn thật.

Bạch Thế Tôn! Nay con nghe pháp môn như thế, lãnh ngộ tin hiểu, nhưng chưa là hiếm có. Đời đương lai hậu thế, hậu thời, hầu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với pháp môn thâm sâu như thế mà lãnh ngộ tin hiểu, thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì phải biết hữu tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các hữu tình ấy không có tưởng ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, thiếu niên, tác giả, thọ giả. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các tưởng ngã tức là chẳng phải tưởng, các tưởng hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ-đặc-già-la, tưởng ý sanh, tưởng thiếu niên, tưởng người làm, tưởng người thọ tức là chẳng phải tưởng. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn lìa tất cả tưởng.

Bấy giờ Thế Tôn bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Đúng vậy, đúng vậy. Thiện Hiện! Nếu các hữu tình nghe kinh điển thâm sâu như thế, mà không kinh, không sợ, không hoảng hốt, thì phải biết hữu tình ấy thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì Như Lai nói Ba-la-mật-đa tối thắngBát-nhã ba-la-mật-đa. Thiện Hiện! Ba-la-mật-đa tối thắngNhư Lai đã nói, được vô lượng chư Phật Thế Tôn cùng tuyên thuyết, nên gọi là Ba-la-mật-đa tối thắng. Như Lai nói Ba-la-mật-đa tối thắng tức chẳng phải Ba-la-mật-đa, cho nên Như Lai gọi là Ba-la-mật-đa tối thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như Lai nói nhẫn nhục Ba-la-mật-đa tức chẳng phải Ba-la-mật-đa, cho nên Như Lai gọi là nhẫn nhục Ba-la-mật-đa. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì đời quá khứ xưa, Ta từng bị vua Yết-lợi cắt tay chân, xẻo thịt. Khi ấy, Ta hoàn toàn không có tưởng ngã, hoặc tưởng hữu tình, hoặc tưởng mạng giả, hoặc tưởng sĩ phu, hoặc tưởng Bổ-đặc-già-la, hoặc tưởng ý sanh, hoặc tưởng thiếu niên, hoặc tưởng tác giả, hoặc tưởng thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì lúc đó nếu Ta có tưởng ngã tức là có tưởng giận. Nếu Ta có tưởng hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ-đặc-già-la, tưởng ý sanh, tưởng thiếu niên, tưởng người làm, tưởng người thọ, tức là có tưởng giận. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì Ta nhớ trong quá khứ năm trăm năm, từng làm tiên nhơn, hiệu là Nhẫn Nhục. Bấy giờ, Ta hoàn toàn không có tưởng ngã, không có tưởng hữu tình, không có tưởng mạng giả, không có tưởng sĩ phu, không có tưởng Bổ-đặc-già-la, không có tưởng ý sanh, không có tưởng thiếu niên, không có tưởng tác giả, không có tưởng thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên xa lìa tất cả tưởng, chẳng trụ nơi sắc mà sanh tâm, chẳng trụ phi sắc mà sanh tâm; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm; chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm. Hoàn toàn vô trụ mà sanh tâm. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì các chỗ trụ chẳng phải là chỗ trụ. Do đó, Như Lai nói các Bồ-tát nên vô trụ mà hành bố thí. Chẳng nên trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì các hữu tình mà làm nghĩa lợi, nên phải xả bỏ bố thí như thế. Vì sao?

Thiện hiện! Vì các tưởng hữu tình tức là chẳng phải tưởng. Tất cả hữu tình, Như lai nói chẳng phải hữu tình.

Thiện Hiện! Như Lai là người nói lời thật, người nói lời phải, người nói lời đúng, người nói lời chẳng khác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp mà Như Lai hiện tiền đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, thì ở trong ấy chẳng phải chơn thật, cũng chẳng phải hư dối.

Thiện Hiện! Ví như một người vào nơi nhà tối thì không thấy gì hết. Phải biết Bồ-tát nếu rơi vào việc, nghĩa là rơi vào việc mà hành bố thí, cũng lại như vậy.

Thiện Hiện! Ví như người mắt sáng, khi đêm đã tàn, mặt trời chiếu sáng, thì thấy hình sắc mọi vật. Phải biết Bồ-tát chẳng rơi vào việc, nghĩa là chẳng rơi vào việc mà hành bố thí, cũng lại như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì Như Lai dùng Phật trí biết rõ người này, Như Lai dùng Phật nhãn thấy rõ người này, Như lai độ người này. Tất cả hữu tình như thế sẽ được vô lượng phước đức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử thiện nam, hoặc thiện nữ nào, vào phần đầu của ngày, đem thân thể mình nhiều như số cát sông Hằngbố thí; vào phần giữa của ngày, lại đem thân thể mình nhiều như số cát sông Hằngbố thí; vào phần cuối của ngày cũng đem thân thể mình nhiều như số cát sông Hằngbố thí. Bố thí như thế trải qua vô số trăm ngàn kiếp, nếu có hữu tình nào nghe pháp môn như thế mà không phỉ báng, thì do nhân duyên đây sẽ được số phước nhiều hơn trước vô lượng, vô số; huống nữa là hay đối với pháp môn như thế mà biên chép, thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo đầy đủ, và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường. Phải nên mong cầu, cảm được quả dị thục không thể nghĩ bàn.

Thiện Hiện! Như Lai tuyên nói pháp môn như thế vì muốn lợi ích các hữu tình hướng tới Tối thượng thừa vậy.

Thiện Hiện! Nếu có ai đối với pháp môn đây mà thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì người này được Như Lai dùng Phật trí biết rõ, được Như lai dùng Phật nhãn thấy rõ, được Như Lai độ người này. Tất cả hữu tình như thế thành tựu vô lượng phước đức, đều sẽ thành tựu vô biên phước đức chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường.

Thiện Hiện! Tất cả hữu tình như thế, vai họ mang gánh Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Như Lai. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn như thế chẳng phải các hàng hạ liệt có thể tin hiểu. Pháp mà hữu tình nghe hiểu, chẳng phải các ngã kiến, chẳng phải các hữu tình kiến, chẳng phải các mạng giả kiến, chẳng phải các sĩ phu kiến, chẳng phải các Bổ-đặc-già-la kiến, chẳng phải các ý sanh kiến, chẳng phải các thiếu niên kiến, chẳng phải các tác giả kiến, chẳng phải các thọ giả kiến có thể nghe hiểu. Các loại này, nếu có thể thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì không có lẽ ấy!

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu địa phương nào nghe được kinh điển đây, thì địa phương ấy được thế gian các trời, người, A-tố-lạc… cúng dường, kính lễ, đi nhiễu quanh bên phải, như linh miếu thờ Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với kinh điển đây, thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo, và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, mà bị khinh chê hủy phạm, mắng nhiếc chê bai, thì vì sao? Thiện Hiện! Vì các hữu tình này đời trước đã gây các nghiệp bất tịnh, lẽ ra rơi vào cõi ác, nhưng vì trong hiện pháp bị người khinh chê hủy phạm, nên nghiệp bất tịnh đời trước đã gây thảy đều tiêu diệt, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao?

Thiện Hiện! Ta nhớ thuở quá khứ xa xưa, hơn vô số kiếp, trước thời đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trước thời đó nữa, Ta từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, Ta đều vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm.

Thiện Hiện! Đối với chư Phật Thế Tôn như thế, Ta đều được vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm. Sau đời đương lai, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì này Thiện Hiện! Số phước đời trước của Ta so với số phước đây thì trăm phần không bằng được, như vậy cho đến ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc ức trăm ngàn phần, hoặc hơn ức trăm ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán phần, hoặc dụ phần, hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được.

Thiên Hiện! Nếu Ta nói đầy đủ, chính ngay khi ấy, số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này được, cho đến số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này thọ trì, thì các hữu tình nghe được bèn mê ngất, tâm nghi điên cuồng.

Cho nên, Thiện Hiện! Như Lai tuyên thuyết pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính lường. Hãy nên mong cầu, quả đạt được chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những người phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa nên an trụ như thế nào? Nên tu hành như thế nào? Nhiếp phục tâm như thế nào?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa, phải nên phát tâm như vầy: Nơi cõi Vô dư y diệu Niết bàn, ta đều làm cho tất cả hữu tình vào Niết-bàn. Mặc dù độ tất cả hữu tình đều được diệt độ, song không thấy có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì nếu các Đại Bồ-tát còn tưởng hữu tình, thì không gọi là Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát chẳng nên nói rằng chuyển tưởng hữu tình; như vậy, chuyển tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ-đặc-già-la, tưởng ý sanh, tưởng thiếu niên, tưởng tác giả, tưởng thọ giả, phải biết cũng vậy. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có một chút pháp nào gọi là người hướng tới Bồ-tát thừa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Khi xưa, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chút pháp nào mà Như Lai chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chăng?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì khi xưa ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Như Lai không có chút pháp nào gọi là chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Đúng vậy, đúng vậy. Thiện Hiện! Xưa kia, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Như Lai không có chút pháp nào chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Thiện Hiện! Vì khi xưa ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nếu Như Lai có chút pháp nào chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chámh Đẳng Giác chẳng nên thọ ký cho Ta rằng: “Thiện nam tử! Vào đời đương lai, ngươi tên là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”.

Thiện Hiện! Vì Như Lai không có chút pháp nào để chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cho nên đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới thọ ký cho Ta rằng: “Thiện nam tử! Vào đời đương lai, ngươi tên là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì lời Như Lai tức là khái niệm chơn như chơn thật. Lời Như Lai tức là khái niệm pháp tánh vô sanh. Lời Như Lai tức là khái niệm dứt hẳn đạo lộ. Lời Như Lai tức là bất sanh rốt ráo. Vì sao?

Thiện Hiện! Nếu thật vô sanh tức là nghĩa tối thắng. Thiện Hiện! Nếu ai nói như vầy: “Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề”, thì phải biết lời này không chơn thật. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì người ấy huỷ báng Ta, nên khởi chấp chẳng thật. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì không có chút pháp nào mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Những pháp mà hiện tiền Như Lai đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, ở trong ấy chẳng đúng, chẳng dối. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp.

Thiện Hiện! Tất cả pháp, tất cả pháp ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp. Cho nên Như Lai nói là tất cả pháp.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ví như người nam có thân hình cao lớn.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai nói người nam có thân hình to lớn, tức là chẳng phải thân, cho nên gọi là thân hình to lớn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Nếu các Bồ-tát nói lời như vầy: “Ta phải diệt độ cho vô lượng hữu tình”, thì không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Thiện Hiện! Vì có chút pháp nào gọi là Bồ-tát không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế đức Tôn! Không có. Không có chút pháp nào gọi là Bồ-tát.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hữu tình, hữu tình ấy Như Lai nói chẳng phải hữu tình, nên gọi là hữu tình. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp khônghữu tình, không có mạng giả, không có sĩ phu, không có Bổ-đặc-già-la...

Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nói lời như vầy: “Ta phải thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật”, thì cũng nói như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi Phật, công đức trang nghiêm cõi Phật ấy Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho nên Như Lai gọi là công đức trang nghiêm cõi Phật.

Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát đối với pháp vô ngã mà tin hiểu sâu xa thì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác gọi là Bồ-tát.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Lainhục nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lainhục nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Laithiên nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Laithiên nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Laituệ nhãn không?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Laituệ nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Laipháp nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Laipháp nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như LaiPhật nhãn không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như LaiPhật nhãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Cát trong sông Hằng, Như Lai nói là cát chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy. Như Lai nói là cát.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Giả sử trong sông Hằng có bao nhiêu số cát, thì có số sông Hằng bằng với số cát như thế; cho đến trong vô số sông Hằng này có bao nhiêu số cát thì có bấy nhiêu thế giới. Các thế giới này chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch đức Thiện Thệ! Đúng vậy. Các thế giới này rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Cho đến trong các thế giới ấy có vô số hữu tình, tâm loạn động của mỗi mỗi hữu tình ấy Ta đều biết hết. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tâm loạn động, tâm loạn động ấy, Như Lai nói chẳng phải loạn động. Cho nên Như Lai gọi là tâm loạn động. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào dùng bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới đây, dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì thiện nam, hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số phước chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm.

Phật nói:

- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Thiện nam tử, hoặc thiện nữ kia nhờ nhân duyên đây mà được lượng phước ấy rất nhiều. Vì sao? Thiện hiện! Vì nếu có phước đức thì Như Lai chẳng nói là phước đức.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể quán Như Lai bằng sắc thân viên thật không?

Thiện hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể quán Như Lai bằng sắc thân viên thật. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì sắc thân viên thật, sắc thân viên thật ấy Như Lai nói chẳng phải viên thật. Cho nên Như Lai gọi sắc thân viên thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các tướng đầy đủ, các tướng đầy đủ ấy Như Lai nói là chẳng phải tướng đầy đủ. Cho nên Như Lai gọi là các tướng đầy đủ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lẽ nào Như Lai nghĩ như vầy: Ta có nói pháp? Này Thiện Hiện! Nay ông chớ nên khởi quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nếu nói Như Lai có nói pháp tức là phỉ báng Ta, vì chẳng thể nắm giữ được. Vì sao?

Thiện Hiện! Vì việc nói pháp, việc nói pháp ấy không có pháp để đắc, nên gọi là thuyết pháp.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vào đời đương lai, hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, có hữu tình nào nghe nói pháp sắc loại như thế mà được thâm tín chăng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Người đó chẳng phải hữu tình, chẳng phải chẳng hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả hữu tình ấy, Như Lai nói chẳng phải hữu tình, nên gọi là tất cả hữu tình.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Ở trong một chút pháp, không có không đắc, nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp này bình đẳng. Ở trong đó, hoàn toàn bình đẳng, nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì không có tánh ngã, không có tánh hữu tình, không có tánh mạng giả, không có tánh sĩ phu, không có tánh Bổ-đặc-già-la…, bình đẳng như vậy, cho nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng hiện chứng; tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng khéo biết. Thiện Hiện! Pháp thiện, pháp thiện ấy, Như Lai nói tất cả là chẳng phải pháp. Cho nên Như Lai gọi là pháp thiện.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào nhóm gom lượng bảy báu ngang bằng với ba ngàn đại thiên thế giới, đem bảy báu trong ấy như núi chúa Diệu Caobố thí; lại có thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến bốn câu kệ, mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo, rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì Thiện Hiện! Số phước nói trước so với số phước đây, trăm phần không thể bằng, như vậy ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc trăm ức trăm ngàn phần, hoặc muôn ức trăm ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán phần, hoặc dụ phần, hoặc cực số phần cũng không thể bằng.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lẽ nào Như Lai khởi nghĩ như vầy: Ta phải độ thoát các hữu tình? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có chút hữu tình nào được Như Lai độ.

Này Thiện Hiện! Nếu có hữu tình nào được Như Lai độ, thì Như Laichấp ngã, có chấp hữu tình, có chấp mạng giả, có chấp sĩ phu, có chấp Bổ-đặc-già-la... Thiện Hiện! Những sự chấp ngã ấy, Như Lai nói là chẳng phải chấp, nên gọi là chấp ngã…, chỉ những kẻ phàm phu ngu si mới cố chấp. Thiện Hiện! Kẻ phàm phu ngu si ấy, Như Lai nói là chẳng phải sanh, nên gọi là phàm phu ngu si.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật vừa nói, thì không thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời ông nói, không thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ.

Thiện Hiện! Nếu quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ, thì Chuyển luân thánh vương tức là Như Lai? Cho nên, chẳng nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Như vậy, nên quán Như Lai bằng các tướng chẳng phải tướng.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Ai dùng sắc quán Ta,

Dùng âm thanh tìm Ta,

Kẻ ấy hành tà đạo,

Chẳng thể thấy Ta được.

Nên quán pháp tánh Phật,

Tức Pháp thân Đạo sư.

Pháp tánh chẳng bị biết,

Nên kia chẳng hiểu được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các tướng đầy đủ để hiện chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng do các tướng đầy đủ mà hiện chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Những người phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa, có kiến lập chút pháp nào, hoặc hoại hoặc đoạn sao? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như vầy: những người phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa quyết chẳng kiến lập chút pháp nào, hoặc hoại hoặc đoạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp thế giới như số cát sông Hằng v.v… dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu có Bồ-tát nào đối với các pháp vô ngã, vô sanh mà được kham nhẫn, thì do nhân duyên đây nên Bồ-tát này được lượng phước nhiều hơn trước kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ-tát chẳng nên nhiếp thọ số phước đức.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ-tát chẳng nên nhiếp thọ số phước đức?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nhiếp thọ mà chẳng nhiếp thọ, cho nên gọi là nhiếp thọ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu ai nói rằng: Như Lai hoặc đi, hoặc đến, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm thì người này chẳng hiểu nghĩa Ta nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai tức là chơn như chơn thật, hoàn toàn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào, đem sắc tượng của vô số thế giới bằng lượng cực vi trần v.v… của đại địa khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm thành mực như lượng cực vi.

Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lượng cực vi này chắc là nhiều lắm phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Lượng cực vi này rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nếu lượng cực vi là thật có thì Phật chẳng nên nói là lượng cực vi. Vì sao? Vì Như Lai nói lượng cực vi tức là chẳng phải lượng, nên gọi là lượng cực vi. Như Lai nói thế giới ba ngàn đại thiên tức chẳng phải thế giới, nên gọi là thế giới ba ngàn đại thiên. Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nếu thế giới là thật có tức là một hợp chấp (tướng). Như lai nói một hợp chấp tức là chẳng phải chấp, nên gọi một hợp chấp.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Một hợp chấp đây chẳng thể nói, chẳng thể hý luận. Nhưng tất cả phàm phu ngu si kia cố chấp pháp này. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nếu nói như vầy: Như Lai tuyên thuyết ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ-đặc-già-la kiến, ý sanh kiến, thiếu niên kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, thì ý ông nghĩ sao, lời nói như thế là đúng chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng đúng. Bạch Thiện Thệ! Chẳng đúng. Nói như thế chẳng phải là lời đúng đắn. Vì sao? Vì Như Lai nói ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ-đặc-già-la kiến, ý sanh kiến, thiếu niên kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến tức là chẳng phải kiến, nên gọi là ngã kiến… cho đến thọ giả kiến.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Những người phát tâm hướng tới Bồ-tát thừa, đối với tất cả pháp nên biết như thế, nên thấy như thế, nên tin hiểu như thế, chẳng trụ tưởng pháp như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tưởng pháp, tưởng pháp ấy, Như Lai nói là chẳng phải tưởng, cho nên Như Lai gọi là tưởng pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát dùng bảy báu đầy khắp vô lượng, vô số thế giới, dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này, cho đến bốn câu kệ, mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo, như lý tác ý và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, do nhân duyên đây nên được số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Thế nào gọi là vì người khác mà tuyên thuyết chỉ bày? Chẳng vì người tuyên thuyết chỉ bày, thì gọi là vì người tuyên thuyết chỉ bày.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ rằng:

Những hòa hiệp mà có,

Như sao mù, đèn huyễn,

Sương, bọt, mộng, điện, mây,

Nên khởi quán như thế.

Khi đức Bạc-già-phạm Thế Tôn thuyết kinh này rồi, Tôn giả Thiện Hiện và các Bí sô, Bí-sô-ni, nam cận sự, nữ cận sự và các thế gian trời, người, A-tố-lạc, Kiện-đạt-phược… đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành.

Quyển thứ 577
HẾT

HỘI THỨ 10

PHẦN LÝ THÚ BÁT-NHÃ

Tôi nghe như vầy:

Một thuở, đức Bạc-già-phạm khéo hay thành tựu tất cả trí Kim cương trụ trì bình đẳng tánh của Như Lai, các thứ công đức thù thắng hiếm có; đã khéo được tất cả mão báu quán đảnh của Như Lai, vượt khỏi ba cõi; đã khéo được tất cả trí Kim cương biến khắp của Như Lai, đại quán tự tại; đã được viên mãn các pháp quyết định tất cả trí ấn đại diệu của Như Lai; đã khéo viên chứng tất cả ấn tánh bình đẳng rốt ráo Không tịch của Như Lai; đối với các sự nghiệp đã làm, phải làm đều đắc thiện xảo thành tựu viên mãn; đối với tất cả các sự mong cầu của hữu tình đều làm thỏa mãn đầy đủ, tùy theo sự vô tội của họ; khéo an trụ tánh thân ngữ tâm soi khắp rộng lớn, ba đời bình đẳng thường không dứt tận; giống như kim cương, các Như Lai không động không hoại. Đức Bạc-già-phạm trụ trong vương cung của trời Tha hóa tự tại, trên đảnh cõi Dục, chỗ của tất cả Như Lai thường đi dạo, và điện Bảo Tạng được các ngài đồng khen là to lớn xinh đẹp. Điện ấy được tạo thành bằng ngọc Mạc-ni vô giá, xen lẫn các thứ ngọc quý, các màu giao xen phóng ra ánh sáng lớn; chuông ngọc, linh vàng treo giăng mọi chỗ, gió nhẹ thổi động phát ra âm thanh hòa nhã, lọng thêu phướn dệt, phan hoa văn vẽ lất phất qua lại, trang nghiêm nhiều loại tạp sức, chuỗi ngọc anh lạc như trăng đầy nửa tháng… là chỗ mà các Hiền Thánh, Thiên tiên cùng tám mươi ức chúng Đại Bồ-tát ưa thích câu hội. Tất cả đều có đủ môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, giỏi biện tài vô ngại. Các vị ấy công đức vô lượng, dù trải qua nhiều kiếp tán thán cũng không hết. Tên các ngài là: Đại Bồ-tát Kim Cương Thủ, Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, Đại Bồ-tát Hư Không Tạng, Đại Bồ-tát Kim Cương Quyền, Đại Bồ-tát Diệu Cát Tường, Đại Bồ-tát Đại Không Tạng, Đại Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, Đại Bồ-tát Tồi Phục Tất Cả Ma Oán. Các bậc thượng thủ như thế có tám trăm vạn chúng Đại Bồ-tát vây quanh trước sau, tuyên thuyết Chánh pháp, văn nghĩa đầu giữa cuối đều khéo hay đẹp, thuần nhất viên mãn thanh bạch phạm hạnh.

Bấy giờ, Thế Tôn vì các Bồ-tát thuyết pháp môn thanh tịnh, tất cả giáo pháp lý thú Bát-nhã sâu xa nhiệm mầu. Pháp môn ấy tức là cú nghĩa (nghĩa lý mỗi câu) Bồ-tát.

Thế nào là cú nghĩa Bồ-tát? Cú nghĩa cực vi diệu lạc thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa rỗng lặng thanh tịnh, dứt hẳn các kiến là cú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhiệm mầu vui thích thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thanh tịnh, dứt hẳn khát áicú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thanh tịnh, vượt khỏi thai tạng là cú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa các đức trang nghiêm thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thanh tịnh, ý rất khoái thích là cú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa được ánh sáng lớn thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thân khéo an vui thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa lời nói khéo an vui thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa ý khéo an vui thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa sắc uẩn Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhãn xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa sắc xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhãn giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa sắc giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhãn thức giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhãn xúc Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa địa giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa thủy, hỏa, phong, không, thức giới Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa khổ thánh đế Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tập, diệt, đạo thánh đế Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa nhân duyên Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa vô minh Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa bố thí Ba-la-mật-đa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa chơn như Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh li sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cõi hư không, cõi chẳng nghĩ bàn Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa bốn tĩnh lự Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa bốn vô lượng, bốn định vô sắc Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa bốn niệm trụ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa giải thoát môn Không Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa giải thoát môn vô tướng, vô nguyện Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tám giải thoát Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa Cực hỷ địa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa Tịnh quán địa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa tất cả môn Đà-la-ni Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tất cả môn Tam-ma-địa Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa năm mắt Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa sáu thần thông Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa mười lực Như Lai Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa ba mươi hai tướng Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tám mươi vẻ đẹp Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa pháp không quên mất Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tánh luôn luôn xả Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa trí nhất thiết Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tất cả hạnh Đại Bồ-tát Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa tất cả pháp phàm phu Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tất cả pháp Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Cú nghĩa tất cả pháp thiện, chẳng thiện Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát. Cú nghĩa tất cả pháp hữu kí, vô kí, pháp hữu lậu, vô lậu, pháp hữu vi, vô vi, pháp thế gian, xuất thế gian Không, tịch tĩnh thanh tịnhcú nghĩa Bồ-tát.

Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp Không, nên tự tánh xa lìa. Do xa lìa nên tự tánh vắng lặng. Do vắng lặng nên tự tánh thanh tịnh. Do thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thanh tịnh hơn hết. Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, phải biết là cú nghĩa Bồ-tát. Các chúng Bồ-tát đều nên tu học.

Phật nói pháp lý thú Bát-nhã thanh tịnh của cú nghĩa Bồ-tát như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn lý thú Bát-nhã thanh tịnh sâu xa mầu nhiệm của tất cả pháp đây mà hết lòng tin thọ, thì cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, tất cả chướng ngại ngăn che đều không thể nhiễm được. Đó là phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng, dù cho chứa nhóm nhiều cũng chẳng thể nhiễm; tuy đã tạo các ác nghiệp cực trọng nhưng cũng dễ tiêu diệt, chẳng đọa ác thú. Nếu thường thọ trì, ngày ngày đọc tụng, tinh tấn siêng năng không gián đoạn, suy gẫm đúng lý, thì vị ấy ở đời này sanh định đắc tất cả pháp tánh bình đẳng, kim cương đẳng trì, đối với tất cả pháp đều được tự tại, luôn hưởng được tất cả sự an lạc thắng diệu, sẽ trải qua mười sáu đời làm Đại Bồ-tát, nhất định được Như Lai chấp kim cương tánh, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai soi khắp, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn tất cả Như Lai hiện đẳng giác lí thú sâu xa pháp tánh vắng lặng của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đó là hiện đẳng giác môn tánh Kim cương bình đẳng, vì đại Bồ-đề chắc chắn khó hoại như kim cương vậy. Hiện đẳng giác môn tánh nghĩa bình đẳng, vì nghĩa của đại Bồ-đề là nhất vậy. Hiện đẳng giác môn tánh pháp bình đẳng, vì tự tánh của đại Bồ-đề thanh tịnh vậy. Hiện đẳng giác môn tánh tất cả pháp bình đẳng, vì đại Bồ-đề đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Phật nói hiện đẳng giác lý thú Bát-nhã, pháp tánh vắng lặng như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được bốn thứ lý thú Bát-nhã hiện đẳng giác môn như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, cho đến ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, thì dù đã gây tất cả ác nghiệp rất nặng đi nữa cũng vượt qua khỏi tất cả ác thú, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương tướng Thích-ca Mâu-ni Như Lai điều phục tất cả ác pháp, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhiếp thọ tất cả pháp tánh bình đẳng, lý thú sâu xa thù thắng cùng khắp. Nghĩa là tánh tham dục không hý luận, nên tánh sân giận cũng không hý luận. Tánh sân giận không hý luận, nên tánh ngu si cũng không hý luận. Tánh ngu si không hý luận, nên tánh do dự cũng không hý luận. Tánh do dự không hý luận, nên tánh các kiến cũng không hý luận. Tánh các kiến không hý luận, nên tánh kiêu mạn cũng không hý luận. Tánh kiêu mạn không hý luận, nên tánh các triền (ràng buộc) cũng không hý luận. Tánh các triền không hý luận, nên tánh phiền não cấu cũng không hý luận. Tánh phiền não cấu không hý luận, nên tánh các ác nghiệp cũng không hý luận. Tánh các ác nghiệp không hý luận, nên tánh các quả báo cũng không hý luận. Tánh các quả báo không hý luận, nên tánh pháp tạp nhiễm cũng không hý luận. Tánh pháp tạp nhiễm không hý luận, nên tánh pháp thanh tịnh cũng không hý luận. Tánh pháp thanh tịnh không hý luận, nên tánh tất cả pháp cũng không hý luận. Tánh tất cả pháp không hý luận, nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không hý luận.

Phật nói pháp lý thú Bát-nhã thù thắng cùng khắp, điều phục các ác như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được lý thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập; giả sửsát hại tất cả hữu tình ở trong ba cõi thì cũng chẳng đọa nơi địa ngục, bàng sanh, quỉ giới. Vì họ có thể điều phục được tất cả phiền nãotùy phiền não ác nghiệp v.v…, nên thường sanh vào đường thiện, hưởng sự an lạc thù thắng vi diệu, tu các hạnh Đại Bồ-tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại đem tướng Như Lai tánh thanh tịnh, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn tất cả pháp tánh bình đẳng quán tự tại diệu trí ấn thậm thâm lý thú thanh tịnh của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là tất cả bản tánh tham dục thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự giận dữ của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh giận dữ thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự ngu si của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh ngu si thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự nghi ngờ của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh nghi ngờ thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho tà kiến của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh tà kiến thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự kiêu mạn của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh kiêu mạn thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự ràng buộc của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh ràng buộc thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự bẩn uế của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh bẩn uế thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho ác pháp thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh ác pháp thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sanh tử thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh sanh tử thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho các pháp thế gian thanh tịnh.

bản tánh tất cả pháp thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho hữu tình thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh hữu tình thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho tất cả trí thế gian thanh tịnh.

bản tánh tất cả trí thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của thế gian cực thanh tịnh thù thắng.

Phật nói pháp trí ấn bình đẳng lý thú Bát-nhã thanh tịnh như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được lý thú Bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì dù ở trong nhóm khách trần phiền não bẩn uế, tất cả tham sân si… vẫn như hoa sen, không bị những khách trần lỗi lầm bẩn uế làm ô nhiễm, thường khéo tu tập thắng hạnh Bồ-tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai, vị chủ ba cõi thù thắng, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Trí tạng tất cả Như Lai hòa hợp quán đảnh lý thú thậm thâm của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là, nếu đem ngôi Quán đảnh thế gian bố thí, thì sẽ được quả ngôi Pháp vương ba cõi. Nếu đem nghĩa Vô thượng xuất thế gian bố thí, thì sẽ được tất cả sự mong muốn đầy đủ. Nếu đem pháp Vô thượng xuất thế gian bố thí, thì đối với tất cả pháp sẽ được tự tại. Nếu đem tiền tài, vật thực v.v… của thế gian bố thí, thì sẽ được tất cả thân, ngữ, tâm an lạc. Nếu đem các thứ tài pháp v.v… bố thí, thì có thể khiến bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu thọ trì các loại cấm giới thanh tịnh, thì sẽ khiến tịnh giới Ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu học an nhẫn đối với tất cả các việc, thì sẽ khiến an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu trong tất cả thời tu tập tinh tấn, thì sẽ khiến tinh tấn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu đối với tất cả cảnh, tu hành tĩnh lự, thì sẽ khiến tĩnh lự Ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu đối với tất cả pháp, thường tu diệu tuệ, thì sẽ khiến Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Phật nói pháp môn Quán đảnh trí tạng lý thú Bát-nhã như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Quán đảnh lý thú trí tạng sâu xa, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì mau được đầy đủ các hạnh Bồ-tát, sớm chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai trí ấn, Như Lai trì pháp môn bí mật tất cả Phật, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa Kim cương lý thú sâu xa tất cả Như Lai trụ trì trí ấn. Nghĩa là nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương thân ấn Như Lai, sẽ chứng tất cả pháp thân Như Lai. Hoặc nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương ngữ ấn Như Lai, đối với tất cả pháp sẽ được tự tại. Hoặc nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương tâm ấn Như Lai, đối với tất cả định sẽ được tự tại. Hoặc nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương trí ấn Như Lai, sẽ được thân, ngữ, tâm tối thượng vi diệu, như kim cương không động không hoại.

Phật nói pháp Kim cương Như Lai trí ấn lý thú Bát-nhã như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Kim cương trí ấn lý thú sâu xa như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, tất cả sự nghiệp đều được thành tựu, thường cùng tất cả thắng sự hòa hợp, muốn tu hành tất cả thắng trí, và các thắng phước nghiệp đều mau viên mãn, sẽ được thân, ngữ, tâm tối thắng thanh tịnh, như kim cương chẳng thể phá hoại, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai tất cả pháp không hý luận, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn chữ “Luân”, lý thú sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là tất cả pháp Không, vì không có tự tánh. Tất cả pháp vô tướng, vì lìa các tướng. Tất cả pháp vô nguyện, vì không sở nguyện. Tất cả pháp xa lìa, vì không chỗ dính mắc. Tất cả pháp vắng lặng, vì hoàn toàn vắng lặng. Tất cả pháp vô thường, vì không có tánh thường. Tất cả pháp không vui, vì chẳng đáng vui. Tất cả pháp vô ngã, vì chẳng tự tại. Tất cả pháp bất tịnh, vì lìa tướng sạch. Tất cả pháp bất khả đắc, vì suy tầm tánh ấy chẳng thể được. Tất cả pháp chẳng nghĩ bàn, vì tánh nghĩ bàn không có vậy. Tất cả pháp không có, vì nhiều duyên hòa hợp giả lập vậy. Tất cả pháp không hý luận, vì bản tánh Không, vắng lặng, xa lìa ngôn ngữ lời nói. Tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bản tánh thanh tịnh.

Phật nói pháp chữ “Luân” lý thú Bát-nhã lìa các hý luận như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn chữ “Luân” lý thú Bát-nhã không hý luận đây, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai chuyển nhiếp Như Lai, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Tánh bình đẳng lý thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vào đại luân rộng lớn.

Nghĩa là vào tánh Kim cương bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả Như Lai.

Vào tánh nghĩa bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả Bồ-tát. Vào tánh pháp bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp.

Vào tánh uẩn bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả uẩn. Vào tánh xứ bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả xứ. Vào tánh giới bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả giới.

Vào tánh đế bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả đế. Vào tánh duyên khởi bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả duyên khởi. Vào tánh báu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả báu.

Vào tánh ăn bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả sự ăn. Vào tánh thiện pháp bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả thiện pháp.

Vào tánh pháp phi thiện bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp phi thiện.

Vào tánh pháp hữubình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp hữu ký. Vào tánh pháp vô ký bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp vô ký.

Vào tánh pháp hữu lậu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp hữu lậu. Vào tánh pháp vô lậu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp vô lậu.

Vào tánh pháp hữu vi bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp hữu vi. Vào tánh pháp vô vi bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp vô vi.

Vào tánh pháp thế gian bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp thế gian. Vào tánh pháp xuất thế gian bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp xuất thế gian.

Vào tánh pháp phàm phu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp phàm phu. Vào tánh pháp Thanh văn bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp Thanh văn. Vào tánh pháp Độc giác bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp Độc giác.

Vào tánh pháp Bồ-tát bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của cả pháp Bồ-tát. Vào tánh pháp Như Lai bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp Như Lai. Vào tánh hữu tình bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả hữu tình. Vào tánh tất cả bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả.

Phật nói tánh bình đẳng lý thú Bát-nhã vào đại luân rộng lớn như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Tánh bình đẳng lý thú sâu xa của tánh luân như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì khéo ngộ được các tánh bình đẳng, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai chơn tịnh khí điền rộng thọ cúng dường, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Vô thượng lý thú sâu xa tất cả sự cúng dường của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Nhiếp hộ chánh pháp, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả Ba-la-mật-đa, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả pháp phần Bồ-đề, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả tổng trì, đẳng trì, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả năm mắt, sáu thần thông, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả tĩnh lự, giải thoát, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả từ bi hỷ xả, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả pháp Phật bất cộng, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường.

Quán tất cả pháp hoặc thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc vui, hoặc khổ đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường.

Quán tất cả pháp hoặc Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc có tướng, hoặc không tướng đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc có nguyện, hoặc không nguyện đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc vắng lặng, hoặc chẳng vắng lặng đều bất khả đắc, đối các Như Lai rộng bày cúng dường.

Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa, biên chép, lắng nghe, thọ trì đọc tụng, suy gẫm tu tập, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc tự cúng dường, hoặc chuyển cho người khác, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường.

Phật nói pháp môn Vô thượng lý thú sâu xa chơn tịnh cúng dường như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Vô thượng lý thú Bát-nhã cúng dường như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập thì sẽ sớm được viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai năng khéo điều phục, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Trí tạng lý thú sâu xa nhiếp thọ trí mật điều phục hữu tình của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả hữu tình tức tánh bình đẳng của giận. Tánh điều phục tất cả hữu tình tức tánh điều phục giận. Tánh chơn pháp của tất cả hữu tình tức tánh chơn pháp của giận.

Tánh chơn như của tất cả hữu tình tức tánh chơn như của giận. Tánh pháp giới của tất cả hữu tình tức tánh pháp giới của giận. Tánh ly sanh của tất cả hữu tình tức tánh ly sanh của giận. Tánh thực tế của tất cả hữu tình tức tánh thật tế của giận.

Tánh vốn Không của tất cả hữu tình tức tánh vốn Không của giận. Tánh vô tướng của tất cả hữu tình tức tánh vô tướng của giận. Tánh vô nguyện của tất cả hữu tình tức tánh vô nguyện của giận.

Tánh xa lìa của tất cả hữu tình tức tánh xa lìa của giận. Tánh vắng lặng của tất cả hữu tình tức tánh vắng lặng của giận. Tánh bất khả đắc của tất cả hữu tình tức tánh bất khả đắc của giận. Tánh vô sở hữu của tất cả hữu tình tức tánh vô sở hữu của giận. Tánh khó nghĩ bàn của tất cả hữu tình tức tánh khó nghĩ bàn của giận. Tánh không hý luận của tất cả hữu tình tức tánh không hý luận của giận. Tánh như kim cương của tất cả hữu tình tức tánh như kim cương của giận. Vì sao? Vì tánh chơn điều phục tất cả hữu tình tức là Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng là Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng là trí nhất thiết trí của chư Phật.

Phật nói pháp môn Trí tạng lý thú sâu xa năng khéo điều phục như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ... rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Trí tạng lý thú Bát-nhã điều phục như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, năng tự điều phục được lỗi giận dữ…, cũng năng điều phục tất cả hữu tình thì sẽ thường sanh nẻo thiện, thọ nhiều an lạc vi diệu, oán địch hiện đời đều khởi từ tâm, giỏi khéo tu hành các hạnh Bồ-tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai pháp tánh bình đẳng năng khéo kiến lập, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn tất cả pháp tánh tối thắng lý thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là tất cả hữu tình tánh bình đẳng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tánh cũng bình đẳng. Tất cả pháp tánh bình đẳng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tánh cũng bình đẳng.

Tất cả hữu tình tánh điều phục, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tánh cũng điều phục. Tất cả pháp tánh điều phục, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tánh cũng điều phục.

Tất cả hữu tình có thật nghĩa, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có thật nghĩa. Tất cả pháp có thật nghĩa, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có thật nghĩa.

Tất cả hữu tình tức chơn như, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là chơn như. Tất cả pháp tức chơn như, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là chơn như.

Tất cả hữu tình tức pháp giới, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là pháp giới. Tất cả pháp tức pháp giới, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là pháp giới.

Tất cả hữu tình tức pháp tánh, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là pháp tánh. Tất cả pháp tức pháp tánh, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là pháp tánh.

Tất cả hữu tình tức thật tế, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là thật tế. Tất cả pháp tức thật tế, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng tức là thật tế.

Tất cả hữu tình vốn Không, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vốn Không. Tất cả pháp vốn Không, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vốn Không.

Tất cả hữu tình vô tướng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vô tướng. Tất cả pháp vô tướng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vô tướng.

Tất cả hữu tình vô nguyện, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vô nguyện. Tất cả pháp vô nguyện, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vô nguyện.

Tất cả hữu tình xa lìa, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng xa lìa. Tất cả pháp xa lìa, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng xa lìa.

Tất cả hữu tình vắng lặng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vắng lặng. Tất cả pháp vắng lặng, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vắng lặng.

Tất cả hữu tình bất khả đắc, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng bất khả đắc. Tất cả pháp bất khả đắc, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng bất khả đắc.

Tất cả hữu tình vô sở hữu, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vô sở hữu. Tất cả pháp vô sở hữu, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vô sở hữu.

Tất cả hữu tình chẳng thể nghĩ bàn, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Tất cả hữu tình không hý luận, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không hý luận. Tất cả pháp không hý luận, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không hý luận.

Tất cả hữu tình không ngằn mé, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không ngằn mé. Tất cả pháp không ngằn mé, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không ngằn mé.

Tất cả hữu tìnhnghiệp dụng, nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có nghiệp dụng. Tất cả pháp có nghiệp dụng, nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có nghiệp dụng.

Phật nói pháp môn tối thắng lý thú sâu thẳm, tánh bình đẳng của pháp tánh như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn tối thắng lý thú Bát-nhã bình đẳng như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì thông suốt được pháp tánh bình đẳng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các hữu tình tâm không trở ngại, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai trụ trì tạng pháp, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Thắng tạng lý thú sâu xa tất cả hữu tình trụ trì đầy khắp của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng, vì tự thể của Bồ-tát Phổ Hiền biến khắp vậy.

Tất cả hữu tình đều là Kim cương tạng, vì được Kim cương rưới thắm. Tất cả hữu tình đều là Chánh pháp tạng, vì tất cả đều chuyển theo chánh ngữ. Tất cả hữu tình đều là Diệu nghiệp tạng, vì tất cả sự nghiệp nương vào gia hạnh.

Phật nói pháp môn Thắng tạng lý thú sâu xa hữu tình trụ trì như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Thắng tạng lý thú Bát-nhã đầy khắp như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì sẽ thông suốt được pháp tánh thắng tạng, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai rốt ráo pháp không ngằn mé, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn Kim cương pháp nghĩa bình đẳng trụ trì rốt ráo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vô biên, nên tất cả Như Lai cũng vô biên. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không ngằn mé, nên tất cả Như Lai cũng không ngằn mé. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa một vị, nên tất cả pháp cũng một vị. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rốt ráo, nên tất cả pháp cũng rốt ráo.

Phật nói pháp môn Kim cương lý thú rốt ráo không ngằn mé như thế, rồi bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Kim cương lý thú Bát-nhã rốt ráo như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì các pháp chướng đều tiêu trừ, nhất định được tánh Như Lai chấp kim cương, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai soi khắp, vì các Bồ-tát tuyên thuyết pháp môn trước giữa sau đều tối thắng đệ nhất, lí thú sâu xa vô thượng, được tánh pháp bí mật của tất cả Như Laitánh không hý luận của tất cả pháp, tánh pháp Kim cương đại lạc, Kim cương bất không thần chú của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là thành tựu tối thắng các sự ưa muốn lớn..., khiến cho Đại Bồ-tát thành tựu tối thắng sự vui lớn; thành tựu tối thắng sự vui lớn, khiến cho Đại Bồ-tát thành tựu tối thắng tất cả đại giác của Như Lai; thành tựu tối thắng tất cả đại giác của Như Lai, khiến Đại Bồ-tát thành tựu tối thắng sự hàng phục tất cả đại ma; thành tựu tối thắng sự hàng phục tất cả đại ma, khiến Đại Bồ-tát thành tựu tối thắng sự tự tại khắp cả ba cõi; thành tựu tối thắng sự tự tại khắp cả ba cõi, khiến Đại Bồ-tát thành tựu tối thắng rốt ráo vui lớn, cứu vớt cõi hữu tình không thiếu sót, làm cho tất cả hữu tình lợi ích an lạc, thành tựu sự vui lớn rốt ráo.

Vì sao? Vì cho đến trụ trong dòng sanh tử lưu chuyển, người có thắng trí ngang đây thường đem pháp Vô đẳng làm lợi ích hữu tình, chẳng vào tịch diệt. Lại dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo thành lập thắng trí, thành tựu tất cả sự nghiệp thanh tịnh, khiến các cõi đều được thanh tịnh. Lại đem tham v.v… điều phục thế gian, trong tất cả thời, cho đến các cõi đều khiến cho thanh tịnh, tự nhiên điều phục. Lại như hoa sen hình sắc sáng sạch thanh khiết, chẳng bị các vật uế làm dơ bẩn. Như vậy, tham v.v… lợi ích thế gian, trụ khắp cõi tội lỗi thường chẳng làm nhiễm được. Lại tham lớn v.v… có thể được vui lớn, tài lớn thanh tịnh, tự tại trong ba cõi, thường làm lợi ích hữu tình một cách kiên cố.

Bấy giờ, Như Lai liền nói Thần chú:

1. Nạp mộ bạc già phiệt đế.

2. Bát lạt nhưỡng ba la nhĩ đa duệ.

3. Bạc để phiệt thát la duệ.

4. Yểm bả lý nhĩ đa lũ noa duệ.

5. Tác phược đát tha yết đa bả lý bố thị đa duệ.

6. Tác phược đát tha yết đa nô nhưỡng đa nô nhưỡng đa bật nhưỡng đa duệ.

7. Đát điệc tha.

8. Bát lạt nhệ bát lạt nhệ.

9. Mạt ha bát lạt nhệ.

10. Bát lạt nhưỡng bà ta yết lệ.

11. Bát lạt nhưỡng lộ ca yết lệ.

12. Án đà ca la tỳ đàm mạt nê.

13. Tất đệ.

14. Tô tất đệ.

15. Tất điện đô mạn bạc già phiệt để.

16. Tát phòng già tôn đạt lệ.

17. Bạc để phiệt thát lệ.

18. Bát lạt ta lý đa hát tất đế.

19. Tham ma thấp phược yết ta lệ.

20. Bột đà bột đà.

21. Tất đà tất đà.

22. Kiếm ba kiếm ba.

23. Chiết la chiết la.

24. Át la phược át la phược.

25. A yết xa a yết xa.

26. Bạc già phiệt để.

27. Mạ tỳ lạm bà.

28. Sa ha.

Ba đời chư Phật đều tuyên thuyết, hộ niệm Thần chú này. Người nào hay thọ trì thì diệt được tất cả chướng, thành tựu tất cả tùy theo tâm nguyện, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Như Lai lại nói Thần chú:

1. Nạp mộ bạc già phiệt đế.

2. Bát lạt nhưỡng ba la nhĩ đa du.

3. Đát điệt tha.

4. Mâu ni đạt kế.

5. Tăng yết lạc ha đạt kế

6. Át nô yết lạc ha đạt kế

7. Tỳ mục để đạt kế.

8. Tát đà nô yết lạc ha đạt kế.

9. Phệ thất lạc mạt noa đạt kế.

10. Tham mạn đa nô bả lý phiệt lạt đát na

đạt kế.

11. Lũ noa tăng yết lạc ha đạt kế.

12. Tát phược ca la bả lý ba lạt na đạt kế.

13. Sa ha.

Thần chú như thế là mẹ của chư Phật. Người nào hay thọ trì thì diệt được tất cả tội, thường thấy chư Phật, được trí túc trụ, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn lại nói Thần chú:

1. Nạp mộ bạt già phiệt đế.

2. Bát lạt nhưỡng ba la nhĩ đa du.

3. Đát điệt tha.

4. Thất lệ duệ.

5. Thất lệ duệ.

6. Thất lệ duệ.

7. Thất lệ duệ tế.

8. Sa ha.

Thần chú như thế đủ đại uy lực, người nào hay thọ trì thì tiêu trừ được nghiệp chướng, đã nghe Chánh pháp nhớ mãi chẳng quên, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thế Tôn nói Thần chú ấy rồi, bảo Bồ-tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu các hữu tình vào mỗi buổi sáng sớm, chí tâm đọc tụng pháp môn tối thắng lý thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, không gián đoạn, thì đều tiêu diệt được các ác nghiệp chướng, những niềm hỷ lạc thù thắng thường hiện tiền. Nếu thọ trì Thần chú Đại lạc kim cương bất không này thì hiện thân tất được thành tựu rốt ráo viên mãn tất cả Như Lai kim cương bí mật tối thắng, chẳng lâu sẽ được Đại chấp kim cương và tánh Như Lai.

Nếu loài hữu tình chưa ở nhiều chỗ Phật trồng các căn lành, lâu phát đại nguyện, thì đối với pháp môn tối thắng lý thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa đây chẳng thể lắng nghe, biên chép đọc tụng, cúng dường cung kính, suy gẫm tu tập. Nếu ở nhiều chỗ Phật trồng các căn lành, mà lâu phát đại nguyện, thì đối với pháp môn tối thắng lý thú sâu xa đây, chỉ nghe được một câu một chữ, huống nữa là đọc tụng thọ trì đầy đủ.

Nếu hữu tình nào cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi tám mươi hằng hà sa triệu ức Phật, thì mới nghe được đầy đủ lý thú sâu xa cuả Bát-nhã ba-la-mật-đa đây.

Nếu địa phương nào lưu hành kinh này, thì tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v… đều cúng dường như Bảo tháp Phật. Hoặc có ai để kinh này trên thân hoặc tay, thì các trời, người đều lễ kính.

Nếu loài hữu tình nào thọ trì kinh này nhiều ức kiếp, thì được trí túc trụ, thường siêng tinh tấn tu các thiện pháp, ác ma ngoại đạo chẳng thể gây đại nạn được, vì bốn Đại thiên vương và các Thiên chúng thường theo bảo hộ bên cạnh, không bao giờ chết oan, đoản mạng, hay gặp hoạn nạn. Chư Phật, Bồ-tát thường chung hộ trì, khiến mọi lúc tăng thiện bớt ác, theo nguyện vãng sanh về cõi chư Phật, cho đến khi thành tựu Bồ-đề, chẳng đọa ác thú. Các loài hữu tình thọ trì kinh này chắc chắn được vô biên công đức thắng lợi, Ta nay lược nói phần ít như thế.

Khi đức Bạc-già-phạm thuyết kinh đây rồi, các Đại Bồ-tát như Bồ-tát Kim Cương Thủ v.v… và các Thiên chúng nghe Phật dạy đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành.

Quyển thứ 578
HẾT

 

 
HỘI THỨ 11
PHẦN BỐ THÍ BA-LA-MẬT-ĐA

01

Tôi nghe như vầy:

Một thuở, đức Bạc-già-phạm cùng đông đủ một ngàn hai trăm đại Bí-sô trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ-đa, nước Thất-la-phiệt.

Bấy giờ, Thế Tôn hỏi ngài Xá-lợi Tử:

- Các bậc Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa trải qua thời gian bao lâu mới được viên mãn?

Ngài Xá-lợi Tử thưa Phật:

- Bạch Thế tôn! Phật là căn bản của Chánh pháp Vô thượng, đức Phật là người dẫn đường, là chỗ nương tựa. Xin nguyện Thế Tôn tuyên thuyết khai thị cho chúng Tỳ-kheo được nghe và thọ trì theo.

Đức Thế Tôn ba lần khuyên bảo Xá-lợi Tử:

- Ông nên nói rõ pháp bố thí Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát.

Được Phật ân cần khuyên bảo ba lần, nương theo thần lực của Phật, cụ thọ Xá-lợi Tử đem pháp bố thí Ba-la-mật-đa trao truyền, dạy bảo cho các Đại Bồ-tát:

- Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên duyên vào trí nhất thiết trí, dùng đại bi làm đầu để tu hành bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu Bồ-tát nào duyên vào trí nhất thiết trí, lấy đại bi làm đầu tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy có thể nhiếp thọ trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này các Đại Bồ-tát, thà thực hành bố thí với tâm vô ký, hoặc là không thực hành bố thí, chứ hoàn toàn không hồi hướng cho bậc Nhị thừa. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát nên sợ địa vị Thanh vănĐộc giác.

Bấy giờ, ngài Mãn Từ Tử hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Do nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát sợ địa vị Thanh văn và Độc giác?

Xá-lợi Tử đáp:

- Không nên cho rằng các Đại Bồ-tát cùng với trí nhất thiết đồng đẳng với Nhị thừa, thế nên tôi sợ hãi.

Ngài Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát và các Thanh văn thực hành bố thí sai khác thế nào?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thanh văn thực hành bố thí để hồi hướng đến quả vị Niết-bàn, A-la-hán. Còn Bồ-tát thực hành bố thí để hồi hướng về Bồ-đề trí nhất thiết trí. Đó là sự sai khác.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Thí như có hai người cùng thực hành bố thí: Một người duyên vào ngôi vua mà cầu quả thù thắng. Người ấy khi thực hành bố thí nghĩ như vầy: Mong sao do việc làm này mà ta được lên ngôi quốc vương, thống lãnh tám phương đều được tự tại.

Như lời nguyện, về sau người này được làm vua cai trị thế gian, tự tại an lạc.

Người còn lại duyên vào địa vị cận thần mà cầu quả thù thắng. Người ấy khi thực hành bố thí nghĩ như vầy: Mong rằng ta nhờ việc này mà làm quan đại thần, được nhà vua yêu chuộng, giao cho sứ mệnh sai sử người dưới quyền, vua muốn gì đều có thể làm vừa ý. Do ước nguyện này, nên người ấy không làm vua.

Tuy hai người này đều thực hành bố thí nhưng theo sự mong cầu mà kết quả có sự hơn kém.

Bồ-tát, Thanh văn thực hành bố thí cũng như vậy. Nghĩa là khi thực hành bố thí, các Bồ-tát lấy tâm đại bi làm đầu, nương vào trí nhất thiết trí, đem sự tu hành của mình cùng các hữu tình đồng hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây đắc trí nhất thiết trí.

Còn chúng Thanh văn khi thực hành bố thí thì duyên vào quả Thanh văn, mong cầu giải thoát cho mình, không cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bồ-tát và Thanh văn tuy cùng thực hành bố thí, nhưng tùy theo ý nguyệnđạt được kết quả hơn kém. Một bên bố thí mà đắc trí nhất thiết trí, một bên bố thíđạt được quả Thanh văn. Đó là sự sai khác.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Thí như có người tu hành bố thí cầu được làm Trưởng giả, hoặc làm Cư sĩ. Lại có người tu hành bố thí nguyện làm tôi tớ cho Trưởng giả, Cư sĩ. Do đây nên biết Bồ-tát, Thanh văn thực hành bố thí, ý nguyện có hơn kém cũng như vậy.

Mãn Từ Tử khen ngợi Xá-lợi Tử:

- Lời thí dụ của Tôn giả thật là hiếm có, khéo léo chỉ rõ hai sự sai khác của việc bố thí. Tôi cũng sẽ nói đến hai thí dụ của sự bố thí.

Ví như có người đem trăm ngàn châu báu đến nhà người giàu có nổi tiếng và nói: “Tôi đem những vật báu này dâng ngài, cúi xin ngài hãy nhận tôi làm kẻ tôi tớ thân thuộc, tất cả mọi việc tôi đều hoàn tất.” Các chúng Thanh văn thực hành bố thí cũng như vậy, chỉ xin làm đệ tử thân cận của Như Lai. Bồ-tát thì không phải vậy. Đó là sự sai khác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Giả như có người con gái từ bỏ sự khoái lạc ở cung vua, lén đem theo trăm ngàn châu báu đến nhà Trưởng giả hoặc nhà chủ buôn mà nói: “Nay tôi xin dâng ông những châu báu này, xin ông thương nhận tôi làm vợ, trọn đời nguyện xin phục vụ, không làm trái ý.” Như vậy, Thanh văn tu hành bố thí chỉ muốn cầu làm đệ tử Như Lai. Bồ-tát thì không phải vậy. Đó là sự sai khác.

Xá-lợi Tử khen ngợi Mãn Từ Tử:

- Ngài thật khéo léo biện thuyết về hai thí dụ bố thí! Thật hiếm có thay!

Nghĩa là các Thanh văn không có phương tiện thiện xảo nên thực hành bố thí chỉ đạt được quả Thanh văn. Còn các bậc Bồ-tát có phương tiện thiện xảo, nên khi thực hành bố thí, giúp đỡ tất cả hữu tình, đắc được trí nhất thiết.

Này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ngay trong tất cả hạnh, trước tiên phải thực hành bố thí, và nghĩ như vầy: Sự nghiệp bố thí của ta hôm nay xin ban bố cho chúng sanh khắp trong thế giới mười phương, giúp cho họ vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Nguyện cho những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì mau chóng phát tâm. Những người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì mãi mãi không thối lui. Những ai không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì giúp cho họ mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Như vậy, Bồ-tát tư duy ngoại cảnh nhưng chẳng lìa nội tâm, giữ gìn các căn lành, làm cho nó dần dần tăng trưởng. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ nhiếp thọ căn lành, gìn giữ không để thối lui. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc đến gần trí nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ đắc trí nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc căn lành đều viên mãn, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành bố thí, suy nghĩ: Mong sao cho tất cả hữu tình đều nhận được những vật thực thức ăn, nước uống v.v… của ta bố thí. Những hữu tình nào đã nhận được vật thực thức ăn, nước uống v.v… của ta bố thí, tùy theo sự cần dùng nhiều ít rồi, thì phần còn lại bố thí cho các hữu tình khác. Các hữu tình này lại cũng lượng xem mình cần dùng bao nhiêu, còn dư lại đem cho các hữu tình khác nữa. Như vậy, lần lượt tất cả cõi hữu tình đều nhận được phẩm vật của ta bố thí.

Do nhân duyên bố thí này ta sẽ nhiếp thọ căn lành không có ngằn mé. Ta lại bố thí vô lượng căn lành này cho các hữu tình khắp cả mười phương, khiến làm cho tất cả đều giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì giúp cho họ mãi mãi không thối lui. Nếu người nào đã không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm cho họ mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ nhiếp thọ căn lành lần lượt làm cho tăng trưởng. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc nhiếp thọ tất cả Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ nhiếp thọ tất cả Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc tiến gần đến trí nhất thiết trí.

Nên biết các Bồ-tát này đã phương tiện thiện xảo, tuy bố thí một ít vật dụng nhưng đạt được căn lành bố thí vô lượng. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì do tâm và cảnh bố thí không phân giới hạn, hồi hướng chứng đắc trí nhất thiết.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành bố thí thường phát khởi tâm như vầy: Ta bố thí căn lành chẳng cần nhận lấy quả báo nào khác, chỉ cầu chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận vị lai. Như vậy, chỉ hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mới gọi là bố thí Ba-la-mật-đa, làm cho tất cả Ba-la-mật-đa đều được viên mãn. Nếu khôngtâm duyên vào trí nhất thiết, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì dù thực hành bố thí nhưng chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa, cũng không thể làm cho sự tu tập Ba-la-mật-đa khác được đầy đủ trọn vẹn, cũng không thể đắc trí nhất thiết trí.

Này Mãn Từ Tử! Dù các Đại Bồ-tát bố thí ít, nhưng nếu hay hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên biết Đại Bồ-tát ấy đã bố thí số lượng rất lớn, nhất định sẽ chứng được trí nhất thiết. Các Đại Bồ-tát dù bố thí nhiều, nhưng nếu chẳng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên biết Đại Bồ-tát này bố thí với số lượng rất ít, không thể chứng đắc trí nhất thiết.

Này Mãn Từ Tử! Nếu Đại Bồ-tát tu hành bố thí mà không phát khởi tâm hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không duyên vào trí nhất thiết trí, thì Đại Bồ-tát này dù có thực hành bố thí nhưng chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa, chỉ có thể nhận lấy sanh tử, chứ không đắc được trí nhất thiết. Nếu Đại Bồ-tát tu hành bố thí, hay phát khởi tâm hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng duyên vào trí nhất thiết trí, thì sự thực hành bố thí của Đại Bồ-tát như vậy mới gọi là bố thí Ba-la-mật-đa, không nhận sanh tử, mà đắc được trí nhất thiết.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát nào thực hành bố thíkhông chấp trước, thì dù có hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không chấp trước, dù có duyên vào trí nhất thiết trí cũng không chấp trước. Đây là bậc Đại Bồ-tát vận dụng phương tiện thiện xảo, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa mau chóng được viên mãn, cũng làm cho tất cả Ba-la-mật-đa rốt ráo viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Thưa Tôn giả! Tôn giả nói được giáo pháp quan trọng này là nhờ tài hùng biện hay do nương vào thần lực của Phật?

Xá-lợi Tử đáp:

- Tôi nương vào thần lực của Phật mà nói được pháp yếu, chứ chẳng phải do tài biện bác của tôi.

Xá-lợi Tử lại nói với cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương vì muốn chứng quả A-la-hán, nên đã trải qua hằng hà sa số đại kiếp, bố thí tài vật cho vô lượng, vô số phàm phu, hoặc cúng dường cho vô lượng, vô số Thanh văn, hoặc cho vô lượng, vô số Độc giác, thì những hữu tình này được vô lượng, vô số phước đức không thể nghĩ bàn.

Có Đại Bồ-tát duyên vào sự bố thí này, nghĩ: Ta rất tùy hỷ với phước đức mà những hữu tình kia có được. Đại Bồ-tát này tùy hỷ đem những căn lành có được do thực hành việc phước nghiệp bố thí cho những hữu tình trong mười phương, mong cho những hữu tình ấy vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thì giúp họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì khiến cho họ vĩnh viễn không thối lui. Nếu người nào không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì khiến họ mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát này nhờ sự tùy hỷ hồi hướng căn lành này mà trí nhất thiết trí mau được viên mãn.

Bậc Đại Bồ-tát có tâm tùy hỷ hồi hướng căn lành, đối với phước đức bố thí của các hữu tình trước, thì được phước đức thù thắng gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Tâm tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này siêu vượt hơn hẳn việc phước đức hành bố thí của các hữu tình trên thế gian. Đây gọi là Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo, mặc dù dụng công ít nhưng phước đức thì vô lượng.

Này Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương, trụ trong hằng hà sa số đại kiếp, thường cúng dường vô lượng, vô biên phẩm vật cho chư Phật và Bí-sô Tăng, nhờ duyên này, những hữu tình kia đạt được vô lượng phước đức.

Đại Bồ-tát nào duyên vào phước đức trên, thâm tâm tùy hỷ và nghĩ: Các loài hữu tình trong thế giới mười phương hay cung kính, cúng dường ruộng phước đức chơn tịnh, thân tâm không biết mỏi mệt, rồi khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Ta rất tùy hỷ với phước đức này”, thì vị Đại Bồ-tát này phát sanh phước đức là do tâm tuỳ hỷ. Đối với tất cả hữu tình trong thế giới mười phương cúng dường đức Phật và Tăng, thì công đức của Bồ-tát gấp trăm lần, ngàn làm, cho đến vô số lần.

Như vậy, tâm tùy hỷ của Bồ-tát siêu vượt hơn phước đức hành bố thí của thế gian. Như ánh sáng của lửa, thuốc súng và châu báu trong bốn châu, dù có thể chiếu sáng nhưng tất cả đều bị mờ khuất dưới ánh sáng của mặt trăng. Như vậy, phước đức thực hành bố thí của hữu tình trong mười phươngvô lượng, vô biên nhưng cũng bị căn lành do tâm tùy hỷ của Bồ-tát làm lu mờ. Thí như ánh sáng ở trong bốn châu đều bị ánh sáng mặt trời che khuất. Như vậy, phước đức thực hành bố thí của các hữu tình trong mười phương đều bị căn lành tùy hỷ của Bồ-tát lấn áp.

Này Mãn Từ Tử! Như trăm ngàn ngọc Ca-già-mạt-ni (một loại thủ tinh) để chung một nơi, dù có phát ra ánh sáng đủ màu, nhưng khi đem một viên ngọc báu lưu ly đặt trên đống báu kia, thì tất cả màu sắc ánh sáng của ngọc Ca-già-mạt-ni đều bị lu mờ. Như vậy, các hữu tình trong mười phương dù trụ vô lượng hằng hà sa số kiếp, thường dùng những loại âm nhạc vi diệu bố thí cho hữu tình, hay cúng dường Phật và Tăng, nhưng so với phước đức của một vị Bồ-tát khởi tâm tùy hỷ, thì công đức của Bồ-tát hơn hẳn phước đức của hữu tình ấy gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như khi trăm ngàn con ngựa thường thế gian tập trung lại một nơi, rồi dẫn ngựa báu của Chuyển luân vương vào trong đám ngựa ấy, thì nó sẽ làm oai lực của đám ngựa kia mất cả. Như vậy, các loài hữu tình trong mười phương dù trụ vô lượng hằng hà sa số kiếp tu hành bố thí, tích tập căn lành, nhưng so với một vị Bồ-tát khởi tâm sâu xa tùy hỷ, thì công đức của Bồ-tát so với thiện căn kia gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

Như vậy, tâm tùy hỷ của Bồ-tát che khuất tóm thâu phước nghiệp việc bố thí của các loài hữu tình trên thế gian. Thế nên, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, Bồ-tát phải thường tùy hỷ sâu sắc đối với công đức của các hữu tình đã tạo.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát nên đem việc phước nghiệp tương ưng với tâm tùy hỷ, bố thí cho tất cả hữu tình trong thế giới khắp mười phương và nguyện cho tất cả hữu tình trong mười phương ấy đều vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử trong đường ác. Đối với những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thì làm cho họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì giúp cho họ mãi mãi không thối lui. Đối với những người không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-tề, thì giúp họ mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ xả các căn lành bố thí cho các loài hữu tình. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc càng thân cận trí nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ không chấp vào căn lành của mình có được. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc thường đem các căn lành hồi hướng, bố thí lại cho các hữu tình, nguyện cho họ xa lìa đường khổ, được an vui mãi mãi.

Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ xả bỏ căn lành của mình, bố thí cho các loài hữu tình. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc dù không tu tập tư lương Bồ-đề nhưng hay gần gũi trí nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ chẳng chấp vào căn lành của mình có được và bố thí cho tất cả hữu tình trong thế giới mười phương, nguyện cho họ đều xa lìa khổ đau và an vui vĩnh viễn. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc căn lành tăng trưởng, thân cận với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ không chấp căn lành của mình có được. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc thâu nhận vô lượng căn lành thù thắng. Vì sao? Này Mãn Từ Tử! Vì các Đại Bồ-tát này không phân chia tâm cảnh, chỉ hồi hướng chứng đắc trí nhất thiết mà thôi. Như vậy, Bồ-tát đem tâm tùy hỷ tương ưng với phương tiện thiện xảo, tuy đem tâm tùy hỷ để dẫn các thiện căn, bố thí lại cho hữu tình nhưng hoàn toàn không chấp trước vào căn lành và hữu tình; dù nguyện cho hữu tình được thoát khỏi đường ác và nỗi khổ sanh tử, nhưng hoàn toàn không vướng mắc vào đường ác và nỗi khổ sanh tử; dù nguyện cứu độ các loài hữu tình khiến cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng hoàn toàn không vướng mắc vào việc phát tâm. Tuy nguyện giáo hóa các loài hữu tình, khiến họ vĩnh viễn không thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng hoàn toàn không chấp trước vào địa vị này. Tuy nguyện giúp đỡ các loài hữu tình mau chóng viên mãn Bồ-tát hạnh, sớm chứng đắc trí nhất thiết trí, nhưng không chấp trước vào địa vị này. Tuy nguyện tự thân chứng đắc trí nhất thiết trí nhưng cũng không chấp trước vào trí này. Bồ-tát không có tà kiến chấp trước, nên biết đây là phương tiện thiện xảo. Như vậy, Bồ-tát tâm tùy hỷ cùng với hồi hướng đều là năng lực phương tiện thiện xảo, khéo hộ trì các chúng Đại Bồ-tát khác, làm cho họ nhận được lợi ích an lạc thù thắngtự nhiếp thọ trí nhất thiết trí, mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình trong thế giới mười phương, trụ hằng hà sa số đại kiếp, thường đem các đồ thượng diệu dâng cúng cho chư Phật và Bí-sô Tăng, thì công đức cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, tu tập các việc phuớc nghiệp không bằng công đức một vị Bồ-tát dâng một bát cơm cúng Phật và Tăng, phước của Bồ-tát hơn trăm lần, ngàn lần, cho đến gấp vô số lần. Vì sao? Vì Bồ-tát này không thấy người bố thí, người nhận bố thí và vật bố thí, mặc dù Bồ-tát quán thấy bản tánh các pháp đều Không, nhưng khi thực hành bố thí thường không xa lìa hồi hướng phát nguyện. Nghĩa là Bồ-tát đem phước bố thí này cùng các hữu tình hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện đồng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Vì thế, khi Bồ-tát thực hành bố thí, thì được phước đức gấp trăm, ngàn lần, cho đến gấp vô số lần phước đức hành bố thí của các hữu tình. Nhờ vậy, Bồ-tát nhất định chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem lợi ích an vui cho tất cả các loài hữu tình.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Khi tu hành bố thí, các Đại Bồ-tát phải phát khởi tâm nguyện: Ta xả bỏ những tài vật này, nếu được các căn lành thù thắng nào đều ban bố cho các loài hữu tình khắp mười phương, và nguyện cho những ai đang ở địa ngục mau thoát khỏi địa ngục. Ai đọa vào bàng sanh thì mau thoát khỏi bàng sanh, kẻ đọa trong loài ngạ quỉ thì chóng xa lìa ngạ quỉ. Trong loài trời, người mà có buồn khổ, nguyện cho các buồn khổ của họ đều được chấm dứt, những vị chán ghét sanh tử chóng ra khỏi ba cõi. Vô lượng, vô biên các loài hữu tìnhmười phương, người nào chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ mau phát tâm. Người nào đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì khiến cho họ mãi mãi không thối lui. Người nào không còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm cho họ nhanh chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ xả bỏ các căn lành, bố thí cho loài hữu tình. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc tăng trưởng tất cả Ba-la-mật-đa.

Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ tăng trưởng tất cả Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc gìn giữ vô lượng căn lành thù thắng. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ gìn giữ vô lượng căn lành thù thắng. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng lúc dần dần thân cận trí nhất thiết trí.

Như vậy, Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo, tuy dụng công ít nhưng được phước đức rất nhiều. Thế nên, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, Bồ-tát phải thường siêng năng tu tập phương tiện thiện xảo.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ không chấp trước các căn lành của mình có được. Các Bồ-tát này từng lúc từng lúc giữ nhận vô lượng, vô biên căn lành. Vì sao? Vì các Bồ-tát muốn giúp cho vô lượng, vô biên hữu tình đều mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Như vậy, Bồ-tát có thể xả bỏ các căn lành của người khác, hay hồi hướng xả bỏ bố thí cho vô lượng, vô biên hữu tình khác, huống là căn lành của bản thân mà không thể xả bỏ sao. Bồ-tát vẫn xả bỏ căn lành có được, huống nữa là những tài vật khác mà không xả bỏ được sao!?

Như vậy, Bồ-tát có thể xả bỏ những thứ có hình sắc và không hình sắc, hay xả bỏ căn lành thù thắng của mình và của người, cho đến xả bỏ trí nhất thiết trí, bố thí cho các loài hữu tình, giúp cho họ cùng chứng đắc.

Như vậy, Bồ-tát rống lên tiếng sư tử: “Ta hoàn toàn không có sự thấy đối với các pháp. Ta hoàn toàn không có sự thấy đối với những thứ có hình sắc, không hình sắc, các vật bên ngoài, bên trong, tuy ta không thấy nhưng đều có thể xả bỏ.”

Như vậy, Bồ-tát nghĩ: Ta hoàn toàn không thấy pháp, không thấy vật nhưng không xả bỏ việc bố thí cho các loài hữu tình. Như vậy, Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dùng trí nhất thiết trí đã chứng đắc xét đoán, quán sát thế gian, rống lên tiếng sư tử: “Ta hoàn toàn không có sự thấy đối với các pháp, ta cũng không có sự thấy đối với những thứ có hình sắc, không hình sắc, các vật bên ngoài, bên trong cũng không thấy; tuy không thấy nhưng ta có thể xả bỏ.” Nghĩa là không thấy có pháp, có vật, nhưng không hay bố thí cho các hữu tình.

Như vậy, Bồ-tát thường nhớ nghĩ: Khi ta chứng đắc Vô thượng giác, đối với tất cả pháp, ta hoàn toàn không có sự thấy, tuy không có sự thấy nhưng ta đều hiện chứng và biết khắp tất cả pháp. Do Bồ-tát hay xả bỏ tất cả, nên khi chứng đắc Vô thượng giác, Bồ-tát có thể xả bỏ rốt ráo tất cả pháp. Do xả bỏ rốt ráo tất cả pháp nên Bồ-tát đều hiện chứng và biết rõ tất cả pháp. Hiện thể pháp tánh của pháp xả bỏ tất cả. Như vậy, như vậy, hoàn toàn không thấy các pháp. Hiện thể pháp tánh của pháp cũng hoàn toàn không có sự thấy. Như vậy, Bồ-tát đều hiện chứng, đều biết khắp tất cả các pháp.

Như vậy, Bồ-tát đối với bên ngoài hay bên trong, tất cả đều xả bỏ. Pháp bên ngoài, bên trong đều có thể xả bỏ hoàn toàn nên không còn sự thấy. Do không có sự thấy các pháp nên khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì hoàn toàn hiện chứng, hoàn toàn biết rõ khắp các pháp và có thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Chúng Bồ-tát nên học bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh như vậy. Bồ-tát nào có khả năng học cách bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh như vậy, thì mới gọi là chơn tịnh Bồ-tát, thường không xa lìa tâm trí nhất thiết. Khi nào Bồ-tát thường không xa lìa tâm trí nhất thiết, thì khi đó Bồ-tát không bị ác ma làm hại, huống nữa là loài Dược-xoa, Tất-xá-già (quỷ ăn thịt) v.v… làm sao hại được. Nếu có hữu tình nào tìm chỗ sơ hở của Bồ-tát này thì chắc chắn không có điều đó. Vì sao? Vì nếu ở địa phương nào có Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, luôn tư duy về trí nhất thiết trí không chút nào rời bỏ, thì người và chẳng phải người (phi nhơn) ở địa phương đó không thể tìm chỗ sơ hở của Bồ-tát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu thường tư duy trí nhất thiết trítác ý không thể nghĩ bàn, rộng lớn sâu xa, hiếm có trong đời. Trí nhất thiết trí không thể nghĩ bàn, rộng lớn sâu xa, khó đo lường.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát hay học hạnh của đại Bồ-đề như vậy, thì có ân đức lớn với các hữu tình, và có khả năng nuôi dưỡng, dạy dỗ tất cả hữu tình, nghĩa là Bồ-tát hay giúp các loài hữu tình trong thế gian không bị tai nạn, bỏ điều ác, tu tập điều lành. Do nhân duyên này, nên các chúng Bồ-tát an trụ nơi quả vị Bồ-tát, thường hay làm lợi ích an vui cho tất cả phàm phu, Thanh vănĐộc giác. Khi các Bồ-tát chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng đã có ân đức lớn với các hữu tình, khéo nuôi dưỡng, dạy dỗ tất cả hữu tình, nghĩa là hay giảng Chánh pháp giúp cho hữu tình dứt hết phiền não. Nhờ vậy nên vô lượng, vô biên hữu tình đều đắc Niết-bàn, được an vui rốt ráo.

Vì thế, khi sắp chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, Bồ-tát đối với phàm phu, Thanh văn, Độc giác là tài giỏi hơn, tốt đẹp hơn, là tôn quí, là mầu nhiệm, là vi diệu không thể nghĩ được, là trên hết, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Sau khi nhập Niết-bàn, Bồ-tát cũng có ân đức lớn đối với các loài hữu tình, hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Nghĩa là đối với tháp của Như Lai hay cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen, dâng cúng các thứ vòng hoa thượng diệu, những thứ hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi ngọc, cờ báu, lọng lụa, kỹ nhạc đèn sáng v.v… Do nhân duyên này, các loài hữu tình đã gieo trồng vô lượng căn lành thù thắng. Hoặc nghe giáo pháp Niết-bàn cốt yếu của Như Lai, siêng năng tu học chứng đắc Niết-bàn. Đối với tháp của Như Lai, hữu tình nào dâng cúng một chút hương, một cành hoa thì Phật sẽ thọ ký cho hữu tình đó đều được xa lìa sự dục, rốt ráo được Niết-bàn.

Như vậy, Bồ-tát ở nơi địa vị Bồ-tát có ân đức lớn đối với các hữu tình, hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng có ân đức lớn đối với các hữu tình, hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Sau khi vào Niết-bàn, Bồ-tát cũng có ân đức lớn đối với các hữu tình, khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Vì các Bồ-tát thường có ân đức lớn đối với các loài hữu tình, cho nên khéo dưỡng dục tất cả hữu tình, là bậc tôn quí nhất, giỏi nhất, ngoài chư Phật ra, không ai có thể sánh bằng.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát thành tựu được công đức thù thắng như thế, thì những vị ấy thường hay làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Thí như vàng ròng có thể đem lại lợi ích cho hữu tình. Nghĩa là khi chưa được luyện, hoặc đã luyện rồi, khi chưa được làm thành vật trang sức, hoặc khi đã được làm thành vật trang sức, khi chưa thay đổi, hoặc đã thay đổi, thì vàng vẫn có thể đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình.

Như vậy, Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề, trụ địa vị Bồ-tát hay làm lợi ích lớn cho hữu tình. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi vào Niết-bàn cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như mặt trời, mặt trăng xoay quanh bốn châu làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nghĩa là tất cả hữu tình trong bốn châu nhờ có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu ra mà có thể làm được mọi việc, giúp hữu tình biết rõ sự khác nhau ban ngày, ban đêm, nửa tháng, đầy tháng, mùa, năm v.v… Các thứ hoa quả, lúa mạ, cỏ cây cũng nhờ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng mà được sanh trưởng chín tới để nuôi sống hữu tình.

Như vậy, Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề trụ địa vị Bồ-tát, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng làm lợi ích cho hữu tình. Sau khi vào Niết-bàn cũng làm lợi ích cho hữu tình.

Này Mãn Từ Tử! Các chúng Bồ-tát thành tựu công đức rộng lớn như thế thường làm lợi ích lớn cho hữu tình. Thí như người chủ buôn có nhiều của cải châu báu, có thể giúp cho trăm ngàn bạn bè thương gia, quyến thuộc đều được đầy đủ các dụng cụ sinh sống, cho đến khi người chủ buôn chết, mọi người nhờ những của cải quí báu này mà đời sống đầy đủ an vui.

Như vậy, Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-đề trụ địa vị Bồ-tát, thường hay làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình, huống nữa là khi đắc được Bồ-đề, và sau khi vào Niết-bàn được oai lực lớn, chẳng lẽ không thể mang lại lợi ích an vui cho các đệ tử sao!?

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như vậy, Bồ-tát thường làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Nghĩa là khi ở địa vị Bồ-tát, hoặc khi thành Chánh giác, hay lúc vào Niết-bàn, Bồ-tát chưa từng tạm bỏ việc làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Như có bậc Thiện sĩ đầy đủ tướng của bậc Thiện sĩ, có thể tìm an vui cho mình và cũng có thể đem lại an vui cho các hữu tình khác. Khéo giữ gìn của cải, khéo phân chia nên gọi là Thiện sĩ.

Như vậy, Bồ-tát khéo thâu giữ của cải công đức quí báu, ngay nơi quả vị Bồ-tát có thể làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình; khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng khéo làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình; sau khi vào Niết-bàn cũng khéo làm lợi ích cho vô lượng hữu tình; nghĩa là sau khi vào Niết-bàn đem năng lực công đức làm lợi lạc cho các đệ tử.

Này Mãn Từ Tử! Như vậy, khi ở địa vị Bồ-tát hoặc khi đắc được Bồ-đề, hoặc sau khi Niết-bàn, Bồ-tát thường hay làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình không ngừng nghỉ phút giây nào. Giống như Thiện sĩ kia, đầy đủ tướng Thiện sĩ, Thiện sĩ có khả năng làm cho mình và người đều được an lạc, xa lìa những việc không như ý. Các chúng Bồ-tát cũng lại như vậy, có thể giúp cho mình và người thường được an lạc, xa lìa mọi nghiệp ác phiền não, không đọa vào đường ác luân hồi sanh tử, được vào Niết-bàn an vui rốt ráo, hoặc thành Chánh giác, làm lợi ích cho tất cả.

Này Mãn Từ Tử! Như con dòng Sát-đế-lợi Quán đảnh vương lên nhận ngôi vua, khi làm vua hoặc lúc làm thái tử, đều đem an lạc cho tất cả Sa-môn, Phạm chíhữu tình khác. Hoặc sau khi băng hà cũng có thể làm cho đất nước và nhân dân an lạc, không ai khổ đau. Nghĩa là do oai lực công đức của nhà vua mà đất nước giàu có thái bình, không có giặc dã, oán thù v.v...

Như vậy, Bồ-tát trụ địa vị Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-đề, Bồ-tát có thể đem an lạc cho tất cả hữu tình. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, Bồ-tát cũng đem an lạc cho tất cả hữu tình. Sau khi vào Niết-bàn, Bồ-tát cũng đem an lạc cho tất cả hữu tình. Nghĩa là sau khi Bồ-tát Niết-bàn, có vô số hữu tình cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen tháp, nên được vô lượng phước đức. Lắng nghe Chánh pháp, thọ trì đọc tụng, tư duy đúng lý, vì người diễn nói Chánh pháp cũng được vô biên công đức thù thắng.

Sau khi đức Phật Thế Tôn Niết-bàn, các loài hữu tình nào nghĩ nhớ đến giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai thì nhờ nhân duyên này, các loài hữu tình ấy sẽ không đọa vào đường ác, được sanh trong cõi trời, người, thường thọ hưởng khoái lạc, hoặc chứng đắc Niết-bàn Tam thừa, có thể làm cho mình và người được rốt ráo an lạc. Trong đời hiện tại, người chẳng phải người v.v… không thể gây hại cho hữu tình này, các sự sợ hãi không thể quấy phá, bức bách họ được. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì công đức niệm Phậtthể diệt trừ sự sợ hãi của người chẳng phải người trên thế gian.

Khi ấy, đức Phật khen ngợi Xá-lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Nếu loài hữu tình nào hay nhớ nghĩ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai, thì loài hữu tình này có thể diệt trừ được sự sợ hãi của người chẳng phải người v.v... ở thế gian.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có! Như Lai đã thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh như vậy.

Thế Tôn dạy Xá-lợi Tử:

- Này Xá-lợi Tử! Nên biết, Bồ-tát cũng có thể thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh như vậy.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sự thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh của Bồ-tát là những gì?

Phật dạy:

- Sự thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh của Bồ-tát là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không thối chuyển. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh nhất là các pháp tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánhquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề tánh. Các Bồ-tát nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không thối chuyển, thì nhất định sẽ thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử nói với cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Các chúng Bồ-tát nên phát tâm: Những hữu tình nào đến chỗ ta cầu xin những vật dụng của cải để sinh sống, thì ta sẽ phát khởi tâm bố thí mãnh liệt. Không nên khởi tâm không cho vật dụng để sinh sống. Giả sử ngay khi ấy không có vật dụng của cải, ta quyết sẽ dùng phương cách để bố thí chứ không phát khởi tâm như vầy: “Bây giờ ta không có của cải vật dụng, không cần tìm phương cách bố thí. Nếu hữu tình nào bố thí cho người ấy, ta sẽ tùy hỷ theo. Nếu họ không muốn bố thí, thì ta sẽ dùng mọi phương tiện dạy dỗ họ, giúp cho người mong cầu đều được mãn nguyện.” Như vậy, Bồ-tát hoặc bố thí của cải vật dụng cho hữu tình, hoặc hầu thầy khi thầy bệnh đau, nếu có chút ít phước nghiệp nào đều ban cho hữu tình và cùng hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và muốn làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai, khiến cho tất cả thoát khỏi đường ác, sanh tử đau khổ, giúp tất cả vào Niết-bàn hoặc đạt được trí nhất thiết.

Hữu tình nào tự thực hành bố thí, tu tập các phước nghiệp khác, thì Bồ-tát khuyên họ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như vậy, Bồ-tát đạt được phước đức nhiều hơn phước nghiệp bố thí của hữu tình khác gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến gấp vô số lần. Vì sao? Vì Bồ-tát khuyên phát tâm hồi hướng thì có thể giúp mình và loài hữu tình đều chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các chúng Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, trước hết phải tu tập phương tiện thiện xảo, tùy theo phương tiện thiện xảo tu tập được mà tu hành bố thí. Tùy theo phước nghiệp tu hành bố thí đều đem hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và nguyện cầu cho các hữu tình đều cùng chứng đắc trí nhất thiết trí. Như vậy, Bồ-tát khéo tu tập dùng phương tiện thiện xảo, có thể giúp mình và người đều được lợi ích thù thắng. Nếu các Bồ-tát tu hành bố thí, không tu tập phương tiện thiện xảo trước, thì giả sửtrải qua hằng hà sa số kiếp tu hành bố thí, cũng không thể phát tâm cùng với hữu tình hồi hướng đến Bồ-đề, không thể nhiếp thọ tu tập bố thí Ba-la-mật-đa, không thể chứng đắc được trí nhất thiết trí như đã mong cầu.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Giả sử có nhiều hữu tình cầm bình bát to lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới đến chỗ Bồ-tát, và nói: “Chúng tôi cần xin đầy bình bát này, mong người gấp gấp ban cho.” Bồ-tát không khởi tâm khác với hữu tình ấy, chỉ khởi tâm nhất quyết bố thí cho hữu tình ấy. Nghĩa là hoàn toàn không khởi tâm sân hận, cho rằng hữu tình khinh thường xúc phạm mình; cũng không khởi tâm không bố thí, nghĩa là nghĩ: Làm sao ta có thể cho người kia nhiều phẩm vật được; cũng không khởi tâm không có của cải, nghĩa là nghĩ: Ta làm sao có thể cho đầy đủ vật báu đầy bát lớn đến ba ngàn đại thiên thế giới của hữu tình kia. Bồ-tát chỉ nên nghĩ: Bây giờ vì hữu tình này, ta phải tu tập thần thông thù thắng, tu tập các phương tiện để gom góp nhiều của cải quí báu, chắc chắn làm cho người mong cầu kia thỏa mãn ý muốn. Khi đó, Bồ-tát tinh tấn vượt bậc, siêng năng gia hạnh cầu thần thông thù thắng, muốn tích góp của cải quí báu để bố thí cho hữu tình đang cầu xin. Bồ-tát nhiếp thọ tinh tấn Ba-la-mật-đa, đắc được thần thông tích góp được nhiều của cải quí báu, Bồ-tát bố thí cho người cầu xin được mãn nguyện. Bồ-tát nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa như vậy, gọi là các chúng Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa phát tâm rộng lớn, thường không nhàm chán, mệt mỏi. Nhờ vậy, Bồ-tát mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, có thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát nên thương xót hữu tìnhthực hành bố thí. Nên trụ tâm từ, ban vui cho chúng sanhthực hành bố thí. Nên trụ tâm bi, dẹp sạch khổ đau cho hữu tìnhthực hành bố thí. Nên trụ tâm hỷ, mừng vui các hữu tình xa lìa khổ đau được an vui mà thực hành bố thí. Nên trụ tâm xả, bình đẳng làm lợi ích cho hữu tìnhthực hành bố thí.

Bố thí như vậy rồi nên phát tâm: Phước đứcviệc lành ta đã tạo được, ta xin bố thí cho loài hữu tình trong mười phương, giúp họ vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì ta làm cho họ sớm phát tâm. Những người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì khiến họ vĩnh viễn không thối lui, đã không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì giúp họ mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Các Bồ-tát này từng giờ từng giờ xả bỏ phước đức và căn lành cho các hữu tình. Các Bồ-tát này từng lúc từng lúc căn lành được tăng trưởng. Các Bồ-tát này từng giờ từng giờ lấy việc tu tập điều lành cùng hồi hướng cho các hữu tình đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cùng nhau chứng được trí nhất thiết trí. Các Bồ-tát này từng lúc từng lúc căn lành tăng trưởng hơn trước.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Thí như vàng ròng từng giờ từng giờ được tôi luyện, được đốt, gò; từng lúc từng lúc màu sắc sáng bóng càng tăng lên; từng giờ từng giờ màu sắc sáng bóng càng tăng thêm hơn trước; từng lúc từng lúc dần dần mềm dẻo có thể làm vật dụng.

Như vậy, Bồ-tát từng giờ từng giờ đem điều lành đã tạo cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện đồng chứng đắc trí nhất thiết trí; từng lúc từng lúc căn lành tăng trưởng; từng giờ từng giờ căn lành càng tăng trưởng hơn, thì từng lúc từng lúc càng gần gũi trí nhất thiết trí.

Này Mãn Từ Tử! Như có người con gái chùi gương soi mặt, từng giờ từng giờ gia công lau chùi gương, từng lúc từng lúc gương càng trong sáng. Từng giờ từng giờ gương càng sáng lần, từng lúc từng lúc mặt gương không còn bụi, mọi cảnh tượng đều hiện rõ trong gương.

Như vậy, Bồ-tát từng giờ từng giờ quyết chí đem phước đứcviệc lành tạo được hồi hướng đến trí nhất thiết trí; từng lúc từng lúc Bồ-tát luôn bố thí khắp tất cả hữu tình trong thế giới mười phương, khiến họ vĩnh viễn thoát đường ác sanh tử. Người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ không còn thối lui. Người nào không còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì giúp họ mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Các Bồ-tát này từng giờ từng giờ xả bỏ căn lành của mình bố thí cho các loài hữu tình; từng lúc từng lúc căn lành càng tăng thêm. Từng giờ từng giờ căn lành càng tăng thêm, từng lúc từng lúc càng gần gũi trí nhất thiết trí.

Như vậy, Bồ-tát tu tập phương tiện thiện xảo, hồi hướng mong cầu trí nhất thiết trí, khiến các công đức dần dần tăng trưởng, mau chóng chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Này Mãn Từ Tử! Tại sao có Bồ-tát thực hành bố thí nhiều nhưng nhận phước đức rất ít? Tại sao có Bồ-tát ít thực hành bố thí lại nhận được nhiều phước đức? Tại sao có Bồ-tát ít thực hành bố thí và nhận được ít phước đức? Tại sao có Bồ-tát bố thí nhiều và nhận được phước đức nhiều?

Nếu những Bồ-tát nào tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, thường xả bỏ vô lượng, vô số của cải quí báu rồi bố thí cho các loài hữu tình trong thế giới mười phương, nhưng không hồi hướng quả vị Vô thượng Bồ-đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc trí nhất thiết trí, thì Bồ-tát đó thực hành bố thí nhiều nhưng được phước ít.

Nếu những Bồ-tát nào dù trải qua thời gian ngắn ngủi bố thí cho hữu tình ít của cải, nhưng hay hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, nguyện cùng với hữu tình đồng chứng đắc trí nhất thiết trí, thì Bồ-tát đó ít thực hành bố thí mà thâu nhận nhiều phước đức.

Nếu những Bồ-tát nào trải qua thời gian ngắn ngủi bố thí chút ít của cải cho hữu tình, nhưng không hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc trí nhất thiết trí, thì Bồ-tát đó thực hành bố thí ít và nhận phước cũng ít.

Nếu những Bồ-tát nào trải qua hằng hà sa số đại kiếp, thường xả bỏ vô lượng, vô số tài sản quí báu và bố thí cho các hữu tình khắp mười phương, lại có thể hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc trí nhất thiết trí, thì Bồ-tát đó thực hành bố thí nhiều và được phước nhiều.

Vì thế, chúng Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải đem căn lành cho hữu tình cùng hồi hướng lên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu Đại Bồ-tát nào muốn có năng lực nhiếp thọ vô số nhóm phước, làm lợi ích cho các hữu tình, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, thì phải thường không xa lìa trí nhất thiết trítương ưng với tác ý tu hành bố thí Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát nào thường không xa lìa trí nhất thiết trítương ưng với tác ý tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát này liền có năng lực nhiếp thọ vô lượng nhóm phước, mau chóng chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm nhiều lợi ích cho các hữu tình. Vì sao? Này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát thường không xa lìa trí nhất thiết trítương ưng với tác ý tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thì công đức và căn lành của các vị Bồ-tát này trong mỗi một sát-na dần dần được tăng trưởng, nhờ vậy mau chứng Vô thượng Bồ-đề, có thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Vì thế, Bồ-tát muốn thường đem lợi ích an vui cho hữu tình, thì trong tất cả hành động thường phải siêng năng tu tập phương tiện thiện xảo, hồi hướng lên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và nguyện làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Quyển thứ 579
HẾT

 

02

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong tất cả các hạnh, trước tiên nên học bố thí Ba-la-mật-đa vô nhiễm. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu học bố thí Ba-la-mật-đa, thì thân tâm phải liên tục mau chóng xa lìa san tham, keo bẩn đã huân tập từ vô thỉ kiếp đến nay, mới dần dần thân cận trí nhất thiết trí. Vì vậy, Bồ-tát từng giờ từng giờ tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí hiện tiền liên tục, từng lúc từng lúc dần dần thân cận trí nhất thiết trí. Từng giờ từng giờ dần dần thân cận trí nhất thiết trí, từng lúc từng lúc xa lìa bậc Thanh vănĐộc giác. Từng giờ từng giờ dần dần xa lìa bậc Thanh vănĐộc giác, từng lúc từng lúc dần dần kề cận trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như khi trời mưa, để vò ở chỗ cao hứng nước mưa. Nước mưa dần dần đầy vò. Khi đầy như vậy là do giọt mưa rơi xuống liên tục, từ đầu đến cuối chảy vào đó không bị gián đoạn. Bồ-tát cũng vậy, chẳng phải cầu trí nhất thiết chỉ phát tâm ban đầuchứng đắc được, cũng chẳng phải sau khi ngồi tòa Bồ-đề, khởi tâm tối hậuchứng đắc được. Nhưng do phát tâm liên tục từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề khởi tâm tối hậu triển chuyển liên tục mà cầu trí nhất thiết, đắc trí nhất thiết. Tâm ở chặn đầu, giữa, sau đều hướng trí nhất thiết, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cốt yếu là do các tâm nối nhau liên tục, dứt trừ các pháp chướng ngại mới thành tựu được.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát muốn mau chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, thì không nên để tâm bị xen tạp.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Lúc nào gọi là tâm các Bồ-tát không bị xen tạp?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ-tát tác ý phi lý, hiện tại có thể chánh niệm quán sát, như thế có thể tùy thuận với trí nhất thiết trí không bị trái nghịch. Các Bồ-tát này có thể như thật biết, ta khởi tác ý phi lý, đối với trí nhất thiết làm bạn giúp đỡ nhau. Nghĩa là ta khởi tác ý phi lý, dấn thân trong việc sanh tử liên tục, an trụ lâu dài, làm lợi ích hữu tình. Nếu thân không tác ý phi lý, giúp đỡ, hướng dẫn làm cho an trụ tức là chấm dứt, tự mình không thể viên mãn thì làm sao đem lại lợi ích cho các hữu tình khác. Mức độ này là tâm các Bồ-tát không bị xen tạp.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát quán các pháp thuận nghịch hỗ trợ nhau đến trí nhất thiết trí, thì các Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo quán tất cả pháp đều tùy thuận sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không bị sự thuận nghịch làm xen tạp tâm. Đối với cảnh nghịch tâm không sân hận, đối với cảnh thuận tâm không ái nhiễm. Nếu nghịch hay thuận đều biết đúng, vì nó hỗ trợ, làm duyên dẫn đến trí nhất thiết. Bồ-tát như vậy thì trong tâm không bị xen tạp đối với tất cả thời, tất cả cảnh.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như có người bị kẻ khác bắt giam, dẫn đến chỗ giết. Người kia run sợ, không còn tưởng việc gì khác, chỉ nghĩ như vầy: Chẳng bao lâu nữa nhất định ta sẽ bị chúng giết hại. Các Bồ-tát cũng lại như vậy, nếu thường suy nghĩ về trí nhất thiết trí, thì trong thời gian đó không có suy nghĩ gì, và trong mọi lúc, tâm các Bồ-tát không bị điều khác xen tạp.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như có người đem nhiều châu báu vào nơi đồng vắng, trong ấy có nhiều giặc cướp hung bạo. Bấy giờ người kia không còn tưởng gì khác, chỉ nghĩ như vầy: Lúc nào ta sẽ ra khỏi chỗ hiểm nạn này để đến nước giàu sang yên ổn? Các Bồ-tát cũng lại như vậy, nếu thường suy nghĩ về trí nhất thiết trí, thì những suy nghĩ khác không khởi lên được. Thân, ý của các Bồ-tát này thanh tịnh, tâm không bị điều khác xen tạp.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như có người từng làm trộm cướp, bị vua tìm bắt. Người kia sợ sệt, trốn vào trong chợ, núp chỗ ồn ào đông đảo để lẩn trốn. Chính ngay nơi đó, đánh trống, thổi kèn, đọc sắc lệnh nhà vua muốn bắt y. Khi đó, người kia không còn tưởng điều gì khác, chỉ nghĩ: Chớ để họ biết ta ở đây, nếu thấy thì sẽ bị bắt trói. Các Bồ-tát cũng lại như vậy, vì muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên thường suy nghĩ về trí nhất thiết trí, mọi suy nghĩ khác không thể khởi lên. Thời gian tu hành của các Bồ-tát này như vậy nên không bị điều gì khác xen tạp tâm.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như thợ vàng, có người đem trăm vàng đến trao tận tay ông ta và nói: “Vật này, vua bảo giao cho ngươi, hãy làm thành những đồ trang sức quí báu và đẹp. Phải hết lòng làm gấp trong một tháng là hoàn tất. Nếu như không hoàn thành hoặc làm xấu xí, đầu ngươi sẽ mất nhất định không tha.” Người thợ vàng nghe thế, thân tâm run sợ, ngày đêm siêng năng gắng sức làm việc, không dám nghĩ các chuyện gì khác, chỉ nghĩ: Ta phải làm thế nào để đúng kỳ hạn cho vua và vật trang sức phải thật đẹp. Trong thời gian vật trang sức chưa hoàn thành, người kia dù có ăn uống v.v… nhưng hoàn toàn không nghĩ đến việc ăn uống v.v..., chỉ để tâm nơi thỏi vàng và liên tục suy nghĩ làm thế nào để sáng tạo các kiểu trang sức thật đẹp. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì người kia rất quí trọng thân mạng. Đúng kỳ hẹn, người thợ vàng hoàn thành các vật trang sức đẹp, đem đến chỗ vua tâu: “Tâu bệ hạ! Các vật trang sức quí báu mà bệ hạ chỉ thị, bề tôi làm nay đã hoàn tất.”

Vua thấy rất vui mừng, an ủi người kia:

“Ngươi vâng theo sắc lệnh của ta, có công rất lớn. Đáng lẽ phải làm mười hai tháng mới xong. Ngươi chỉ làm trong vòng một tháng hoàn thành tất cả.”

Vua liền đem nhiều vật quý báu ra ban thưởng. Các Bồ-tát cũng lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm cho đến tối hậu định Kim cương dụ sắp hiện tiền. Trong khoảng thời gian đó, tâm chưa hề xen tạp điều gì khác, chỉ cầu phát trí nhất thiết trí. Như người thợ vàng kia tiếc thân mạng mình, trong khoảng thời gian đồ trang sức chưa xong, chỉ dốc tâm chế tạo đồ trang sức, chưa hề để vọng tưởng xen tạp. Bồ-tát cũng vậy, vì tôn trọng Bồ-đề, khoảng thời gian chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tâm thường suy nghĩ về trí nhất thiết trí. Trong khoảng thời gian đó, không có một suy nghĩ nào khác. Đây gọi là tâm không bị điều khác xen tạp.

Nếu các Bồ-tát cầu trí nhất thiết, có thể an trụ tâm như vậy không để xen tạp, tinh tấn tu hành hạnh Bồ-đề, mau chóng viên mãn tư lương Bồ-đề. Các Bồ-tát khác vì tu hạnh Bồ-tát mà để tâm xen tạp nên phải trải qua vô số kiếp mới được viên mãn tư lương quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các Bồ-tát này không trải qua trăm kiếp mới có thể viên mãn. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ-tát này cầu trí nhất thiết, không để suy nghĩ khác xen tạp trong tâm đại Bồ-đề dù chỉ chốc lát, nên không có tạp tâm lúc tu Bồ-tát hạnh, không phải trải qua trăm kiếp mới viên mãn, chứng đắc tư lương quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi tâm bị xen tạp liên tục thì không thành tựu tư lương Bồ-đề. Tâm ít bị điều gì xen tạp liên tục, liền thành tựu tư lương Bồ-đề, vì thường tăng trưởng việc tinh tấn trong từng sát-na, sát-na. Như vậy, Bồ-tát muốn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dẫn đến việc viên mãn tư lương mau chóng, thì phải siêng năng dùng phương tiện không điên đảo để tâm không bị xen tạp. Nếu được tâm như vậy thì dễ chứng đắc trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Tâm không xen tạp thì lấy gì làm tánh? Những suy nghĩ gì làm tâm bị xen tạp? Do tâm có đây, kia nên gọi là xen tạp, chúng Bồ-tát phải xa lìa nó thế nào?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo chỉ cầu trí nhất thiết, không suy nghĩ gì khác khỏi bị xen tạp. Tâm không xen tạp thì lấy đâu làm tánh. Nếu tác ý tương ưng với Thanh văn thừa, Độc giác thừa thì không xen tạp tâm đại Bồ-đề, đều gọi là Bồ-tát tác ý phi lý. Vì sao? Vì tác ý Nhị thừa nên trái nghịch với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu ai khởi tâm kia ngay hiện tiền thì không viên mãn tư lương Bồ-đề, lại vui mừng an lạc Niết-bàn, nhàm chán sanh tử. Đối với điều đó, Bồ-tát phải nên xa lìa và tránh xa, phải nghĩ như vầy: Nếu ta tác ý Nhị thừa sẽ xa lìa trí nhất thiết, thuận theo Niết-bàn, không nên để điều đó xen tạp trong tâm ta. Vì vậy, Bồ-tát phải nghĩ: Tâm tương ưng với tham, sân, si v.v..., đối với Đại Bồ-tát tuy làm chướng ngại nhưng tùy thuận tư lương Bồ-đề, thì tâm Bồ-tát chẳng xen tạp lắm, cũng như tâm cầu địa vị Độc giác, Thanh văn. Vì sao? Vì tham, sân, si v.v... có thể làm cho tương tục sanh tử trong các cõi, nhưng hộ trì các Bồ-tát đến trí nhất thiết.

Nghĩa là chúng Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, thọ thân đời sau chịu các phiền não để làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Y vào đó tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm cho được viên mãn.

Y vào đó tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, làm cho được viên mãn.

Y vào đó tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, làm cho được viên mãn.

Y vào đó tu học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện, làm cho được viên mãn.

Y vào đó tu học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, làm cho được viên mãn.

Y vào đó tu học các địa Bồ-tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, làm cho được viên mãn.

Y vào đó tu học mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng v.v…, vô lượng, vô biên công đức chư Phật, làm cho được viên mãn.

Phiền não như vậy có thể hộ trì Bồ-tát, khiến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng phải tác ý các Thanh văn, Độc giác. Vì tác ý kia ngăn cản đại Bồ-đề cũng phá trừ tư lương, không được viên mãn. Cho nên, khi tâm của chúng Đại Bồ-tát bị tác ý kia xen tạp thì càng xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, tâm các Bồ-tát không nên xen tạp tác ý về Thanh văn, Độc giác. Các Bồ-tát vì cầu đại Bồ-đề nên phải tránh xa nó, đừng cho tạm khởi. Thân ở nơi các cõi phải tùy thuận tác ý phiền não, chẳng bị xen tạp lắm đối với tâm Bồ-tát.

Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ-tát cầu đại Bồ-đề chỉ vì muốn độ các hữu tình nên mặc giáp tinh tấn, an trụ lâu dài trong sanh tử để làm lợi ích lớn, không nên suy nghĩ mau chóng chấm dứt phiền não. Do suy nghĩ này, nên ngay hiện tiền thân thọ lâu dài ở các cõi. Y vào đó mà giữ gìn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên Phật pháp khác đều được viên mãn. Tác ý tương ưng với phiền não như vậy sẽ tùy thuận hộ trì các Bồ-tát ở thân sau, đưa đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Từ khi chưa chứng Bồ-đề cho đến lúc chưa ngồi tòa Bồ-đề diệu pháp, thì không dứt sự mong cầu. Tác ý như vậy không nên diệt trừ hẳn.

Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát, nếu ngay khi hiện tiền khởi phiền não, thì không nên quá nhàm chán sanh tử. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì chúng Bồ-tát đối với các phiền não nhớ nghĩ có ơn, nên nghĩ như vầy: Do điều kia nên đưa ta đến các loại tư lương Bồ-đề, làm cho mau chóng viên mãn, điều kia đối với ta có ơn đức lớn. Vì sao? Vì cũng như thiện pháp khác mang lại lợi ích cho ta nên ta kính trọng. Phiền não cũng vậy, không nên chán ghét. Đối với các phiền nãocảnh giới kia, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo cũng phải kính trọng sâu xa như kính Phật Thế Tôn.

Vì sao? Vì các Bồ-tát này biết dùng phương tiện thiện xảo suy nghĩ: Do phiền não các cõi chưa dứt hẳn, nên ta phải tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều được viên mãn. Nhân điều này nên phát trí nhất thiết trí. Từng giờ từng giờ tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn. Từng lúc từng lúc làm cho phiền não các cõi lần lượt được bào mòn, cho đến hoàn toàn chấm dứt, liền chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ví như người buôn dùng xe chở nhiều vật quí báu nặng đến thành lớn rất xa. Từng giờ từng giờ, xe kia vận chuyển tiến dần, tiến dần về phía trước; từng lúc từng lúc các bộ phận trục, vành v.v... nơi bánh xe mòn dần dần, nhưng cũng từ từ vào được thành lớn. Một khi các bộ phận của xe bị hư hoại thì sự việc đã thành tựu rồi, người chủ không hối tiếc nữa.

Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo cũng như vậy, với phiền não dựa vào thân để hộ trì. Từng giờ từng giờ do phiền não hộ trì thân liên tục, khi ấy, từng lúc từng lúc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn. Từng giờ từng giờ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn; khi ấy, từng lúc từng lúc làm cho các phiền não dần dần suy giảm. Từng giờ từng giờ làm cho các phiền não dần dần suy giảm; khi ấy, từng lúc từng lúc dần dần kề cận trí nhất thiết trí.

Nếu khi Bồ-tát chứng đại Bồ-đề, bấy giờ các phiền não y vào thân đều chấm dứt. Những việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thân phiền não, như xe đã vào thành rồi không cần dùng xe. Phiền não như vậy đối với đại Bồ-đề tuy là chướng ngại nhưng có sức hộ trì tư lương Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát cho đến chưa ngồi tòa Bồ-đề diệu giác cũng chưa diệt trừ hẳn. Nếu được Bồ-đề thì tất cả đều chấm dứt.

Nếu có hữu tình đến chỗ Bồ-tát trước thì khinh khi, quở trách, sau cầu xin tài, pháp, thì Bồ-tát hoan hỉ bố thí cho, nghĩ như vầy: Hữu tình này đến chỗ ta, cho ta ơn đức lớn, khiến ta thành tựu bố thí, an nhẫn. Do đó chứng đắc trí nhất thiết trí. Ta nhờ người này nên phát tâm tăng thượng, đạt đến đại Bồ-đề thù thắng hơn cảnh giới khác. Vì vậy, trong các tác ý của Bồ-tát này, chỉ trừ tác ý tương ưng với Nhị thừa, còn các tác ý khác đều không chán bỏ. Vì đối với sự chứng đắc trí nhất thiết trí đều có sức hộ trì này.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Chẳng lẽ Nhị thừa đối với trí nhất thiết không có sức hộ trì sao? Nghĩa là các Thanh văn cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp cho họ siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên Phật pháp khác. Hoặc các Độc giác cũng làm ruộng phước, cúng dường y phục, thức ăn cho các Bồ-tát, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí. Vậy tại sao nói tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác là không có sức hộ trì trí nhất thiếttư lương này?

Xá-lợi Tử liền trả lời cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Thanh văn, Độc giác đều có sức hộ trì trí nhất thiếttư lương này. Nghĩa là các Thanh văn cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh (rốt ráo) Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện hiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ-tát, giúp họ siêng năng tu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Vì vậy, Thanh văn cũng có sức hộ trì trí nhất thiếttư lương này. Hoặc các Độc giác cũng muốn làm ruộng phước, cúng dường cho Bồ-tát, nghĩa là các Bồ-tát nhờ ruộng phước cúng dường đầy đủ vật dụng cho mình, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đó, Độc giác cũng có sức hộ trì trí nhất thiếttư lương này.

Nhưng tác ý Thanh văn, Độc giác hoàn toàn không có sức hộ trì trí nhất thiếttư lương này. Vì sao? Vì tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác, đối với bậc Nhị thừa này có sức hộ trì thù thắng, nhưng không tùy thuận cho các Bồ-tát cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và tư lương này. Nghĩa là nhàm chán sanh tử, ưa thích nhập Niết-bàn, bỏ đại Bồ-đề và các loài hữu tình.

Vì vậy, chế định Bồ-tát không nên khởi tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Do tác ý đó hoàn toàn không tùy thuận cho các Bồ-tát cầu Phật quả và làm lợi ích hữu tình.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Thanh văn thừaơn đức lớn đối với sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Nghĩa là chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tất cả Ba-la-mật-đa và thắng hạnh khác là tương ưng với giáo pháp, dạy dỗ, giáo huấn, khiến siêng năng tu học mau chóng được viên mãn. Cũng cùng Bồ-tát làm ruộng phước thanh tịnh, thọ sự bố thí của Bồ-tát, làm cho các Bồ-tát mau chóng được viên mãn tư lương Bồ-đề. Do đó Thanh văn đối với các Bồ-tát có ơn đức lớn. Vì vậy, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo quán các hữu tình và tất cả pháp, đối với trí nhất thiếttư lương này đều có ơn đức tùy thuận. Tâm trí của các A-la-hán đối với Bồ-tát thừa cũng có ơn đức. Nghĩa là nếu không có điều kia thì không có sự ngăn ngại.

Vì sao nói các Bồ-tát không nên phát khởi tâm A-la-hán, cũng không nên tu trí A-la-hán. Vì do điều kia ngăn ngại nên đưa Bồ-tát phát khởi tư lương Bồ-đề mau được viên mãn, nhanh chóng chứng đắc trí nhất thiết trí. Cho nên, tâm hoặc trí của A-la-hán đối với Bồ-tát thừa cũng có ơn đức, nghĩa là làm cho Bồ-tát đắc trí nhất thiết, làm lợi ích an vui cho hữu tình đến tận đời vị lai.

Tâm hoặc trí của tất cả Độc giác đối với Bồ-tát thừa cũng có ơn đức. Nghĩa là nếu không có điều kia thì không có sự ngăn ngại. Tại sao nói chúng Bồ-tát không nên phát khởi tâm Độc giác thừa, cũng không nên tu trí Độc giác thừa. Bởi kia ngăn ngại cho nên đưa Bồ-tát phát khởi tư lương Bồ-đề, mau được viên mãn, nhanh chóng chứng đắc trí nhất thiết trí. Cho nên, tâm hoặc trí của các Độc giác đối với Bồ-tát thừa cũng có ơn đức, nghĩa là làm cho Bồ-tát đắc trí nhất thiết, làm lợi ích an vui cho hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại quán tâm trí Nhị thừa thấp kém, Bồ-tát tu học tâm trí tăng thượng. Nếu khôngtâm trí Nhị thừa thấp kém, thì Bồ-tát không nên tu học tâm trí tăng thượng. Như vậy là tâm trí các Bồ-tát hữu lậu, vô lậu, chỉ trừ tâm trí Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Cho nên tâm hoặc trí của tất cả Thanh văn, Độc giác đối với trí nhất thiết cũng có phần tùy thuận thế lực.

Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, quán các hữu tình và tất cả pháp, đều tùy thuận theo thế lực trí nhất thiếttư lương này, cho nên không chán bỏ tất cả tâm.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tuy có xả bỏ tiền tài, châu báu v.v…, nhưng đối với sự việc kia không nhớ nghĩ chấp tướng. Nghĩa là nếu xả bỏ tất cả tướng, tất cả pháp, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Nếu không bỏ tướng, hồi hướng Bồ-đề, mà muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình thì hoàn toàn không đắc trí nhất thiết trí.

Nếu các Bồ-tát được nhiều loại châu báu như vàng, bạc v.v…, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn. Nếu các Bồ-tát bỏ tất cả châu báu như vàng, bạc v.v... thì mới gọi là được lợi lớn.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ các tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới gọi là thiện lợi Vô thượng. Nếu Bồ-tát làm Chuyển luân vương, thống lãnh thế giới bốn châu, được tự tại lớn, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ ngôi vị Chuyển luân vương chủ thế giới bốn châu, mới đáng gọi là được lợi lớn. Nếu các Bồ-tát xả bỏ các tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới được gọi là thiện lợi Vô thượng.

Nếu các Bồ-tát muốn làm vua cõi Dục, thống lãnh cõi Dục, được tự tại lớn, tuy nói được lợi nhưng chưa đáng gọi là được tự tại lớn. Nếu các Bồ-tát xả bỏ ngôi vua tự tại cõi Dục, thì mới đáng gọi là được tự tại lớn.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ các tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, thì mới đáng gọi được thiện lợi Vô thượng.

Nếu các hữu tình xả bỏ các tướng đắc quả Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất-hoàn, hoặc A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn. Nếu các hữu tình xả bỏ các tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thì mới đáng gọi là được thiện lợi Vô thượng.

Nếu đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với trong các lợi kia thì là tối thượng, tối thắng, không gì sánh bằng. Vì sao? Vì các Bồ-tát cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm lợi ích lớn cho hữu tình. Còn Thanh văn, Độc giác và các phàm phu không làm việc này.

Nếu các Bồ-tát duyên tưởng tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở khắp mười phương, làm các đồ ăn thức uống thượng diệu, y phục, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, phòng xá, tài sản, hương hoa v.v..., đều dâng lên cúng dường, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi Vô thượng. Nếu các Bồ-tát xả bỏ các tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, thì mới đáng gọi là được thiện lợi Vô thượng. Vì sao ? Vì các vật thức ăn, nước uống v.v... đều có nhiều tướng. Pháp tướng ở các cõi đều có số lượng. Pháp có số lượng là có phân hạn. Duyên vào điều kia nên không thể chứng đắc trí nhất thiết trí không phân hạn.

Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo duyên tưởng tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử đầy đủ vô lượng công đức hi hữu, nhưng không chấp lấy tướng. Tuy nhớ nghĩ thức thức ăn, nước uống vô biên thượng diệu, y phục, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, phòng xá, tài sản, hương hoa v.v…, đều dâng cúng dường nhưng không chấp lấy tướng. Tuy hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho hữu tình nhưng không chấp lấy tướng. Do chứng đắc trí nhất thiết trí này, nên làm lợi ích cho hữu tình đến tận đời vị lai. Nên biết, đây mới đáng gọi là được lợi Vô thượng, và đối với tất cả lợi thì đây là lợi đệ nhất.

Nếu các Bồ-tát làm được phương tiện thiện xảo như vậy, tu hành bố thí, thì mới đáng gọi là Bồ-tát ở trên cao, nhất định sẽ đắc trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí rất khó có thể chứng đắc. Như vậy, Bồ-tát có thể xả bỏ tất cả các tướng trong ngoài, tâm không dính mắc, cầu chứng trí nhất thiết trí như vậy, đối với các Bồ-tát giỏi là thượng thủ, nên đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề tối tôn.

Bồ-tát ở quá khứ, vị lai, hiện tại đã, sẽ và đang chứng đắc trí nhất thiết trí, đều do sự phát khởi phương tiện thiện xảo như vậy mà chứng đắc.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Làm sao Bồ-tát được nhập vào số Bồ-tát ở trên cao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, không chấp lấy pháp tướng, thì các Bồ-tát này nhập vào số Bồ-tát ở trên cao.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Các Bồ-tát này đối với những pháp gì không chấp lấy tướng nào?

Xá-lợi Tử đáp:

- Các Bồ-tát này đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng vui (lạc), không vui; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với sắc uẩn không chấp tướng tịnh, bất tịnh; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với sắc xứ không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với sắc giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với sắc giới không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với sắc giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với sắc giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với sắc giới không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với sắc giới không chấp lấy tuớng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịnh tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với địa giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với địa giới không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với địa giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với địa giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với địa giới không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với địa giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhân duyên không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tịnh, bất tịnh.

Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với vô minh không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với vô minh không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với vô minh không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với vô minh không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với vô minh không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với vô minh không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với cõi Dục không chấp lấy tướng thường, vô thuờng; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường.

Đối với cõi Dục không chấp lấy tướng vui, không vui; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không chấp lấy tướng vui, không vui.

Đối với cõi Dục không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã.

Đối với cõi Dục không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh.

Đối với cõi Dục không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không chấp lấy tướng viễn ly, không viễn ly.

Đối với cõi Dục không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Nếu các Bồ-tát nào dùng phương tiện thiện xảo như vậy, không chấp lấy pháp tướng tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thì các Bồ-tát này được nhập vào số Bồ-tát ở trên cao, có thể đắc trí nhất thiết trí tận cùng.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát biết tất cả pháp đều chẳng phải thật có, xa lìa các tướng mà hành bố thí Ba-la-mật-đa, thì các Bồ-tát này được nhập vào số các Bồ-tát ở trên cao, có thể đắc trí nhất thiết trí tận cùng, cũng có thể giáo hóa tất cả hữu tình làm cho họ y vào trí nhất thiết trí như vậy, phát nguyện hướng đến sự mong cầu đều chứng đắc.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các hữu tình đối với pháp vô tướng không phát khởi thắng giải, thì không thể phát tâm trí nhất thiết. Nếu không thể phát tâm trí nhất thiết, thì không thể tu hạnh của các Bồ-tát. Nếu không tu hạnh của các Bồ-tát, thì không thể đắc trí nhất thiết trí. Nếu các hữu tình đối với pháp vô tướng có thể phát khởi thắng giải, thì có thể khởi tâm trí nhất thiết. Nếu phát khởi tâm trí nhất thiết, thì tu hành hạnh của các Bồ-tát. Nếu tu hành hạnh của các Bồ-tát thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát phát tâm cầu trí nhất thiết rồi, tùy theo sự xả bỏ đều biết là Không, vô sở hữu mà hành bố thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là như thật biết các sự xả bỏ đều như huyễn hóa, chẳng phải như chúng ta từ vô thỉ đến nay đã chấp lấy các tướng. Do biết như vậy nên đối với các sở hữu đều xả bỏ, không chấp lấy các tướng.

Các hữu tình không như thật biết các pháp chẳng phải có, đều như huyễn hóa. Đối với các sự việc khởi tâm kiên trì chấp trước. Do kiên trì chấp trước nên không xả bỏ. Do không xả bỏ, nên giữ gìn keo kiệt. Do keo kiệt nên thân hoại mạng chung đọa vào các đường ác, chịu bần cùng khổ cực. Tùy có sở đắc không chịu xả bỏ, lại mỗi lúc chấp chặt việc đó, keo kiệt càng tăng trưởng. Do đó lại đọa vào các đường ác, chịu nhiều khổ đau. Thọ khổ như vậy đều do chấp tướng.

Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo biết pháp chẳng có, đều như huyễn hóa. Đã như huyễn hóa thì phải nên xả bỏ. Huyễn hóa chẳng phải ngã và ngã sở, nên đối với tất cả sự việc đều xả bỏ. Vì sao? Vì việc ngã, ngã sở bất khả đắc, không nên chấp trước. Không chấp trước nên xả bỏ được. Do xả bỏ được nên đối với Chánh phápPhật Thế Tôn đã thuyết thâm tâm càng kính trọng. Nghĩa là suy nghĩ như vầy: Hi hữu thay đức Thế Tôn khéo thuyết các pháp đều như huyễn. Con dựa vào lời dạy của Phật nên xả bỏ tất cả, nghĩa là xả bỏ pháp như huyễn hóa, khiến cho con sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề như huyễn vô tướng.

Các Bồ-tát này lại nghĩ như vầy: Chư Phật Thế Tôn làm việc khó làm, nghĩa là dạy Bồ-tát như thật biết các pháp chẳng có, đều như huyễn hóa. Do biết rõ nên không sanh chấp trước, ít dụng công sức mà xả bỏ tất cả, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, Bồ-tát này muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biết các pháp chẳng có, đều như huyễn hóa, xả bỏ xa lìa các tướng, dùng tâm vô tướng siêng năng cầu trí nhất thiết trí tận cùng.

Ngài Mãn Từ Tử! Chớ bảo tôi thuyết pháp như vậy là tự biện tài. Đây đều do sức oai thần của Như Lai.

Bấy giờ, Phật dạy A-nan-đà:

- Những gì Xá-lợi Tử đã thuyết đều nhờ thần lực của Phật, ông nên thọ trì. Sau khi Ta Niết-bàn nên lưu truyền rộng rãi.

Quyển thứ 580
HẾT

03

Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng có thật, thì các Bồ-tát khi hành bố thí là xả cái gì?

Phật dạy:

- Khi Bồ-tát hành bố thí hoàn toàn không xả gì hết.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát khi hành bố thí hoàn toàn không xả gì hết, thì khi các Bồ-tát này chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là đắc cái gì?

Phật dạy:

- Bồ-tát khi bố thí như vậy, đối với tất cả pháp hoàn toàn không xả gì hết, nên khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với tất cả pháp cũng không có đắc điều gì. Như khi các Bồ-tát hành bố thí, đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sự tổn hoại. Nên khi Bồ-tát chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với tất cả pháp cũng không có lợi ích. Hai môn tổn, ích chỉ là tướng đối đãi nhau mà thành lập vậy.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như khi Bồ-tát hành bố thí, biết tất cả pháp đều như huyễn hóa không thật, có thể xả. Như khi Bồ-tát này chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, biết tất cả pháp cũng như huyễn hóa không thật, có thể đắc. Nếu các Bồ-tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật có sự xả bỏ, thì khi các Bồ-tát này chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng phải đối với pháp thật có sự chứng đắc. Tuy nhiên khi các Bồ-tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật không có sự xả bỏ, thì khi Bồ-tát này chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với tất cả pháp thật không có sự chứng đắc.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như hai nhà huyễn thuật chơi giỡn làm trao đổi. Một bên giả làm thứ có giá trị, một bên hóa làm vật đẹp. Trong hai việc này đều chẳng thật có. Bồ-tát khi hành bố thí cũng như vậy, chẳng thật có vật xả bỏ, như huyễn hóa nên khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng thật có pháp đắc như huyễn hóa. Khi các Bồ-tát này bố thí cũng như vậy, thật không có sự hao tổn, và khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không thật sự lợi ích.

Các Bồ-tát này khi hành bố thí, tuy thật giống như có hao tổn nhưng thật sự không hao tổn, nên khi sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuy giống như có lợi ích nhưng thật không lợi ích. Cũng như nhà huyễn thuật kia, xả bỏ thứ giá trị huyễn, tuy giống như có hao tổn nhưng thật không hao tổn. Bồ-tát khi hành bố thí cũng lại như vậy, xả bỏ vật chẳng thật, tuy giống như có hao tổn nhưng thật không hao tổn. Như nhà huyễn thuật kia hóa được vật đẹp, tuy giống như có lợi ích nhưng thật không lợi ích. Khi Bồ-tát chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng như vậy, tuy giống như có lợi ích nhưng thật không lợi ích. Pháp dụ như vậy, nhân quả tương xứng, những người có trí phải biết rõ.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như nhà huyễn thuật giỏi hoặc đệ tử ông ta, ở ngã tư đường hóa làm người con gái bỗng nhiên mang thai, ngay đó thấy sanh con, đứa trẻ chỉ sống trong chốc lát lại chết. Ý thầy thế nào? Người con gái kia đối với đứa con có vui mừng khi sanh, có đau buồn khi nó chết không?

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nàng kia và con của cô ta đều là huyễn có, thật khôngsanh tử, thì ai đối với ai mà có thể sanh buồn vui.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các Bồ-tát cũng lại như vậy, khi hành bố thí không có xả bỏ, không có tổn hoại, nên khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không có chứng đắc, không có lợi ích. Cho nên khi Bồ-tát hành bố thí, tuy có sự xả bỏ nhưng không có ưu phiền, và khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuy có sự chứng đắc nhưng không vui. Vì biết sự xả bỏ, chứng đắc như huyễn hóa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ý thầy thế nào? Thầy có cho Như Lai đối với các thiện pháp có lòng mong muốn nhiều không?

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không có. Bạch Thiện Thệ! Không có. Vì sao? Vì sự chứng đắc các pháp của Như Lai đều Không. Như Lai có chứng các pháp cũng là Không, vì trong Không hoàn toàn không có mong muốn và sự mong muốn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Như Lai quán tất cả pháp đều Không. Trong thiện pháp cũng không có mong muốn lớn. Như Ta ngày nay đối với tất cả pháp hoàn toàn không có lòng mong muốn. Ngày xưa, khi làm Bồ-tát, tuy hành bố thí nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có sự xả bỏ, thấu rõ các pháp một cách rốt ráo Không. Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả pháp không ái không giận. Vì sao? Vì thông đạt các pháp đều chẳng thật có, bản tánh là Không, tịch tĩnh nên ái, giận chấm dứt.

Mãn Từ Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Các Đại Bồ-tát đối với lý thể pháp tánh có sự xả bỏ; như vậy, như vậy hiểu rõ đều Không. Hư không chẳng có thật, tánh không vững chắc, không có hoạt động tự tại và không sự chấp trước. Như con hiểu nghĩa lời Phật dạy cho các Đại Bồ-tát, tuy đem châu báu đầy khắp hằng hà sa số thế giới bố thí cho các hữu tình, nhưng trong đó không nghĩ: Ta đã bố thí châu báu. Đối với việc ấy không sự chấp trước nên khiến cho bố thí Ba-la-mật-đa mau chóng được viên mãn. Bồ-tát như vậy là dùng bố thí tu tập thiện căn, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Làm việc đó rồi, lại nghĩ như vầy: Pháp của Bồ-tát là nên xả tất cả. Ta bây giờ tuy xả vật đáng xả nhưng vật đã xả đều như huyễn hóa. Nếu Đại Bồ-tát biết như vậy, thì Đại Bồ-tát này nhập vào số Bồ-tát. Tuy xả tất cả nhưng không xả gì cả. Tuy đắc tất cả nhưng không có chứng đắc. Nếu các Bồ-tát không biết rõ điều đó như vậy, thì chẳng thật Bồ-tát. Nếu không thể xả bỏ tài sản, bố thí giáo pháp, thì không thể chứng đắc đại Bồ-đề.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:

- Các Đại Bồ-tát nên dùng những tâm gì hành bố thí?

Mãn Từ Tử đáp:

- Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Tôn giả hãy giải nghĩa cho chúng tôi nghe trước. Sau đó với nghĩa này tôi cũng sẽ nói thêm.

Xá-lợi Tử liền nói với cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát này trước hết phải suy nghĩ tánh tất cả pháp hoàn toàn Không, tịch tĩnh. Kế đến nên suy nghĩ trí nhất thiết trí đầy đủ công đức thù thắng. Sau nữa, nên thương xót tất cả hữu tình nghèo thiếu của cải, chịu nhiều đau khổ. Nghĩ như vậy rồi, liền xả tất xả, hoặc có chấp thọ, hoặc không chấp thọ, tiền tài châu báu trong hay ngoài đều bố thí cho các hữu tình, tâm không chấp trước. Cũng dùng chánh pháp bố thí cho các hữu tình. Cũng dùng vô biên phẩm vật thượng diệu, cung kính dâng lên Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Các Đại Bồ-tát khi hành bố thí như vậy, duyên trí nhất thiết, tâm không chấp trước nên hành bố thí. Bố thí như vậy là tùy thuận Bồ-đề, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên quán pháp Không, duyên trí nhất thiết đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình mà hành bố thí, tâm không chấp trước. Nếu tu hành bố thí như vậy thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Bây giờ, thầy muốn thấy Bồ-tát ở mười phương thế giới hành bố thí không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Cúi xin Thế Tôn! Con muốn thấy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật liền thấy ở phương Đông, qua trăm thế giới có đông đảo đại chúng, Thanh văn, Bồ-tát vây quanh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, để nghe ngài tuyên thuyết bố thí Ba-la-mật-đa, đầy đủ công đức thù thắng, đạt được quả báo lớn. Cõi kia có Bồ-tát tên là Vô Ngại, tuy ở cư gia nhưng không chấp trước điều gì, xả bỏ các vật sở hữu, bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi lại đem cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo các hữu tình cần dùng vật gì đều đem cho. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi lại đem cho người khác, tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Xá-lợi Tử và đại chúng, tất cả lại thấy Bồ-tát Vô Ngại có trăm ngàn xe vàng làm bằng bảy báu. Mỗi một xe chở một bảo nữ, hình mạo đoan trang đầy đủ vẻ đẹp. Mỗi một bảo nữ có một trăm thị nữ theo hầu, đều cởi một xe, trang hoàng các vật báu. Trên mỗi xe để trăm ngàn vàng và đầy đủ các vật dụng cá nhân, không thiếu thứ gì. Đến để ở chợ, cất tiếng: “Ai cần vật gì, cứ tùy ý lấy.”

Hành bố thí như vậy nhưng không nhiễm trước điều gì. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Bấy giờ, Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy Bồ-tát Vô Ngại ở phương Đông, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề, đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Bồ-tát Vô Ngại bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Bồ-tát Vô Ngại bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, hơn gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của Bồ-tát Vô Ngại đạt được ở phương Đông kia.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi lại đem cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không nhiễm trước điều gì. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... đầy như núi, tùy theo các hữu tình cần dùng vật gì đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi lại đem cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới ở phương Đông kia.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy hằng hà sa số thế giới chư Phật ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... đầy như núi, tùy theo sự cần dùng các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy hằng hà sa số thế giới chư Phật ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi hằng hà sa số thế giới chư Phật ở phương Đông.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy như mười hằng hà sa số thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy như mười hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, như mười hằng hà sa số thế giới ở phương Đông.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy như trăm hằng hà sa số thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy như trăm hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, như trăm hằng hà sa số thế giới ở phương Đông.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy như ngàn hằng hà sa số thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy như ngàn hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, như ngàn hằng hà sa số thế giới ở phương Đông.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn hằng hà sa số thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn hằng hà sa số thế giới ở phương Đông.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Nam. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Nam như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Nam.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Bắc. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Bắc như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nếu các Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông nam. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông nam như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông nam.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây nam. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây nam như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây nam.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây bắc. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây bắc như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây bắc.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông bắc. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông bắc như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông bắc.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương dưới. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương dưới, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương dưới như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương dưới, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương dưới.

Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương trên. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương trên, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Như vậy, tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực v.v... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng rồi đem bố thí cho người khác, tâm khôngsự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có thấy trăm ngàn thế giới ở phương trên như vậy, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương trên, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật dạy:

- Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nhưng nếu có Bồ-tát nào quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thíchbố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng Bồ-tát đạt được ở mỗi một thế giới, nơi trăm ngàn thế giới, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương trên.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi lạc hữu tình đến tận đời vị lai, thì phải nên quán pháp Không, duyên nơi trí nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình chịu nhiều đau khổ thiếu thốn, nên hành bố thí Ba-la-mật-đa. Đem thiện căn này bố thí khắp tất cả, giúp họ thoát khỏi đường ác và các nỗi khổ sanh tử. Lập nguyện rằng: “Các hữu tìnhmười phương thế giới do nhờ oai lực công đức thiện căn của ta, ai chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì mau chóng phát tâm. Ai đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì khiến vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không thối chuyển, thì mau viên mãn trí nhất thiết trí.

Quyển thứ 581
HẾT

04

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát phát tâm ban đầu? Thế nào là Bồ-tát phát tâm lần thứ hai? Thế nào là Bồ-tát trụ bậc Bất thối? Thế nào là Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề? Cúi xin Thế Tôn thương xót dạy cho con hiểu.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát phát tâm ban đầu vượt hẳn A-la-hán, đáng nhận sự cúng dường thượng diệu của tất cả thế gian, trời người, A-tu-la v.v...

Nếu các Bồ-tát phát tâm lần thứ hai, vượt hẳn bậc Độc giác, hiểu rõ tất cả ngã Không, pháp Không, sự hiển lộ pháp giới bình đẳng chơn thật.

Nếu các Bồ-tát trụ bậc Bất thối vượt hẳn Bồ-tát bất định, chưa thọ ký, nhất định sẽ chứng đắc đại Bồ-đề, tâm không bị phiền não xen tạp.

Nếu các Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, không khởi định được trí nhất thiết trí, vì các Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, nếu chưa chứng đắc trí nhất thiết trí, thì không có trường hợp nào và không có lý do nào rời tòa Bồ-đề.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ở quá khứ, vị lai, hiện tại, Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề khi chưa đắc trí nhất thiết trí, trong khoảng thời gian đó không rời khỏi tòa này.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các thầy nên biết! Nếu khi Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề tức là ngồi tòa Bồ-đề của Như Lai. Vì sao? Vì Bồ-tát như vậy, nhất định chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hiệu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, như thật lợi lạc cho các hữu tình.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật liền thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, vô số Bồ-tát chứng đại Bồ-đề, vô số Bồ-tát dùng tâm chánh tín, giải thoát các nẻo, tu hạnh Bồ-tát, và vô số Bồ-tát tâm không nhiễm trước, ở tại gia tu hạnh Bồ-tát.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát xả bỏ những điều khó xả, đem của cải châu báu cho các hữu tình, vô số Bồ-tát tự chém đầu mình bố thí cho các hữu tình, vố số Bồ-tát cắt mũi, tai cho các hữu tình, vô số Bồ-tát chặt tay chân bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát chích thân lấy máu bố thí các hữu tình, vô số Bồ-tát rút xương tủy bố thí các hữu tình, vô số Bồ-tát phân chia lóng, đốt bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem vợ con yêu quý cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem ruộng nhà tốt bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem các loại cầm thú: voi, ngựa v.v... bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem các người hầu nam, nữ bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem thức ăn, nước uống, y phục, ngọa cụ thượng diệu và nhiều loài tiền tài vật chất bố thí cho các hữu tình.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát làm Chuyển luân vương hành đạo Bồ-tát, vô số Bồ-tát làm trời Đế Thích hành đạo Bồ-tát, vô số Bồ-tát sanh về trời Đổ-sử-đa, thuyết nhiều pháp vi diệu cho các chúng trời, vô số Bồ-tát từ cõi trời kia mất, nhập vào thai mẹ giáo hóa hữu tình, vô số Bồ-tát lúc mới sanh ra liền thuyết pháp vi diệu cho các hữu tình, vô số Bồ-tát vì muốn cứu giúp các hữu tình nên chịu nhiều sự khổ.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, nên hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hành cước đi bộ hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng các phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì mười thiện nghiệp.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần quy y Phật, Pháp, Tăng bảo.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, nên hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì tám giới cận trụ.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì năm giới cận sự.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì các giới xuất gia.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ phát tâm hướng đến quả Thanh văn, tinh cần tu học hạnh Thanh văn thừa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ phát tâm hướng đến quả Độc giác, tinh cần tu học hạnh Độc giác thừa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, hành cước đi bộ trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do-tuần, hoặc hơn thế nữa, khi đến đó tuỳ nghi, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ phát tâm hướng đến quả Vô thượng, tinh cần tu học hạnh Vô thượng thừa.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học pháp nội Không (Không của các pháp nội tại), ngoại Không (Không của các pháp ngoại tại), nội ngoại Không (Không của các pháp nội ngoại tại), Không Không (Không của Không), đại Không (Không lớn), thắng nghĩa Không (Không của chân lý cứu cánh), hữu vi Không (Không của các pháp hữu vi), vô vi Không (Không của các pháp vô vi), tất cánh Không (Không rốt ráo), vô tế Không (Không không biên tế), tán Không (Không của sự phân tán), vô biến dị Không (Không của sự không thay đổi), bản tính Không (Không của bản tính tự nhiên), tự tướng Không (Không của tự tướng), cộng tướng Không (Không của cộng tướng), nhất thiết pháp Không (Không của vạn hữu), bất khả đắc Không (Không của cái bất khả đắc ), vô tính Không (Không của cái không tồn tại), tự tính Không (Không của tự tính), vô tính tự tính Không (Không của vô thể của tự tính).

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học pháp môn Đà-la-ni, hoặc pháp môn Tam-ma-địa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học hoặc mười lực Như Lai, hoặc bốn điều không sợ, hoặc bốn sự hiểu biết thông suốt, hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, hoặc mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc ba mươi hai tướng Đại sĩ, hoặc tám mươi vẻ đẹp, hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả, hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát xuất gia tu hành trong pháp ngoại đạo, không nghe, không thấy pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa, hơn trăm ngàn kiếp lưu chuyển trong vòng sanh tử, không chứng đắc trí nhất thiết trí. Vô số Bồ-tát xuất gia tu hành ở trong pháp Phật thường nghe, thường thấy pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thuyết giảng cho người khác, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.



Vô số Bồ-tát tuy siêng năng, tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa không gián đoạn, nhưng không dùng phương tiện nên không chứng đắc. Vô số Bồ-tát tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, có dùng phương tiện, nên tuy dụng công ít nhưng mau chứng đắc. Vô số Bồ-tát tu hành các hạnh khổ khó hành. Vô số Bồ-tát xả bỏ hạnh khổ, tu hành trung đạo. Vô số Bồ-tát đến cội Bồ-đề. Vô số Bồ-tát ngồi tòa Kim cang. Vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn vui (lạc), không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn xứ thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xứ vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xứ ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xứ tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xứ viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xứ tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc xứ thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc xứ vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc xứ ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc xứ tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc xứ viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc xứ tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn giới thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn giới vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn giới ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn giới tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn giới viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc giới thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc giới vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc giới ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc giới tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc giới viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn thức giới thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn xúc thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xúc vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xúc ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xúc tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xúc viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhãn xúc tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng địa giới thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng địa giới vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng địa giới ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng địa giới tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng địa giới viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng địa giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhân duyên thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhân duyên vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhân duyên ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhân duyên tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhân duyên viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng nhân duyên tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng vô minh thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng vô minh vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng vô minh ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng vô minh tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng vô minh viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng vô minh tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết nhiều loại pháp môn sai biệt có, không có.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Bồ-tát nên nhiều ức kiếp không nhập Niết-bàn, ai chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ phát tâm. Ai đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi thì làm cho vĩnh viễn không thối chưyển. Nếu ai đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không thối chuyển thì làm cho họ viên mãn trí nhất thiết trí.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Thanh văn, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa. Ai chưa phát tâm, giáo hóa khiến cho phát tâm. Ai đã phát tâm rồi, làm cho siêng năng tu hành. Ai đã tu hành rồi thì giúp họ mau chứng quả A-la-hán.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Độc giác, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa. Ai chưa phát tâm, giáo hóa khiến cho phát tâm. Ai đã phát tâm rồi, làm cho siêng năng tu hành. Ai đã tu hành rồi thì giúp họ chứng đắc Độc giác Bồ-đề.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích các hữu tình, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa, làm cho vô lượng hằng hà sa các hữu tình, tùy theo chủng tánh của họ được nhập Niết-bàn, hoặc vô lượng hằng hà sa các hữu tình thoát hẳn nỗi khổ nơi đường ác, được hưởng vui ở cõi trời, người.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông, qua vô lượng vô biên thế giới khác, bằng phương tiện thiện xảo làm lợi ích an lạc vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến cho chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, làm cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, có thể giúp Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Nam, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Nam, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Nam, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Bắc, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Bắc, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Bắc, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông nam, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông nam, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông nam, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây nam, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây nam, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây nam, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây bắc, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây bắc, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Tây bắc, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông bắc, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông bắc, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông bắc, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương dưới, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương dưới, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương dưới, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương trên, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương trên, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con thấy được vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương trên, có vô số chúng Đại Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu có ai muốn được ở cõi người tăng thượng, không động chuyển nên tu thiện nghiệp, chiêu cảm sự thù thắng kia như vua Chuyển luân. Nếu có ai muốn được ở cõi trời tăng thượng, không động chuyển, nên tu thiện nghiệp, chiêu cảm sự thù thắng kia như trời Đế Thích. Nếu ai muốn tuổi thọ lâu dài, không động chuyển, nên tu định thù thắng kia, như sanh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, nếu chúng Đại Bồ-tát muốn làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại pháp sư ở ba ngàn đại thiên thế giới, và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì nên quyết phát tâm cầu trí nhất thiết.

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nếu ai quyết phát tâm cầu trí nhất thiết, thì người đó chắc chắn sẽ làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại pháp sư ở ba ngàn đại thiên thế giới và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mang lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Quyển thứ 582
HẾT

05

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sự phát tâm ban đầuthù thắng hơn phát tâm sau không?

Phật bảo:

- Lành thay! Lành thay! Thầy khéo hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như vậy. Thầy nên lắng nghe. Ta sẽ vì thầy mà nói nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Nghĩa là, các A-la-hán với tâm vô lậu, tuy xa lìa tất cả phiền não tự thân, nhưng không thể hóa độ vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ-tát mới phát tâm đại Bồ-đề, tuy đối với phiền não tự thân chưa chấm dứt, nhưng có thể giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não, lần lượt lợi ích vô lượng hữu tình. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Lại có các Độc giác với tâm vô lậu, tuy xa lìa tất cả phiền não tự thân, nhưng không giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ-tát mới phát tâm đại Bồ-đề, tuy đối với phiền não tự thân chưa chấm dứt, nhưng có thể giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não, lần lượt lợi ích vô lượng hữu tình. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Sự phát tâm đại Bồ-đề của Bồ-tát, hoặc tu hoặc tập, hoặc làm nhiều việc đều dẫn đến bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng vô biên Phật pháp khác, mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Do đó hóa độ vô lượng hữu tình này đắc quả Thanh văn, Độc giác thừa, hoặc chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc tu thiện nghiệp thù thắngcõi trời, người, được an vui ở cõi trời, người, thoát khỏi khổ nơi đường ác.

Tâm của các vị Thanh văn, Độc giác đã được vô lậu, tự thân tuy đã chứng sự an vui Niết-bàn, nhưng lại không thể dẫn đến bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tính tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng vô biên Phật pháp khác, cũng không thể chứng đắc trí nhất thiết trí, không thể hóa độ vô lượng hữu tình, khiến chứng đắc quả Thanh văn, Độc giác thừa, hoặc chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc tu thiện nghiệp thù thắngcõi trời, người và được an vui ở cõi trời, người, thoát khỏi khổ nơi đường ác. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Sự phát tâm đại Bồ-đề của Bồ-tát, oai lực thật thù thắng. Nếu khéo tu tập, thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thọ ký không điên đảo cho hữu tình. Nghĩa là thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sanh tử tu hạnh Bồ-tát, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sanh tử tu hạnh Độc giác, ở cõi trời, người gặp duyên chứng đắc Độc giác Bồ-đề, đầy đủ sáu phép thần thông, tự tại an lạc. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sanh tử tu hạnh Thanh văn, đắc quả Thanh văncõi trời, người. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp làm các nghiệp thiện, ác, sanh ở cõi trời, người, hoặc đọa đường ác, trôi lăn theo dòng sanh tử. Ngược lại các Độc giác chẳng thể thọ ký không điên đảo cho các hữu tình. Nghĩa là không thọ ký như lời các Bồ-tát. Ông ở đời vị lai, trải qua bấy nhiêu kiếp sẽ được làm Phật hiệu…, tên..., cũng không thọ ký hữu tình như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, nhất định sẽ đắc Độc giác Bồ-đề, hoặc quả Thanh văn, hoặc ở các cõi thiện, ác chịu các khổ, vui. Cũng vậy, Thanh văn không thể thọ ký cho người khác, nếu có đều nghe từ Phật. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Bồ-tát đã phát tâm đại Bồ-đề, muốn lợi ích tất cả hữu tình đến đời vị lai. Bấy giờ đại địa, các núi, biển cả biến động sáu cách. Ma vương kinh hãi sợ sệt. Các trời, rồng, thần đều rất vui mừng nói:

“Bồ-tát sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt chúng ta thoát khổ lớn sanh tử, được an lạc. Thanh văn, Độc giác khi an trụ tâm vô lậu tối hậu, thì không có việc như thế.”

Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Giả sử giáo hóa tất cả hữu tình đều trụ quả Độc giác, A-la-hán thì không thể hộ trì Ba-la-mật-đa và trí nhất thiết. Nếu có dạy dỗ giáo huấn Bồ-tát, làm cho họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tức là hộ trì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và trí nhất thiết. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác không thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được, bởi vì phát tâm rất yếu ớt, chỉ có các Bồ-tát mới thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Do đó muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đều nên phát tâm cầu trí nhất thiết.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao biết được tướng các Bồ-tát tu những hạnh gì được gọi là Bồ-tát?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu có ai phát tâm đại Bồ-đề, siêng năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không mệt mỏi, tuy gặp nhiều bạn xấu làm thối duyên nhưng không khuất phục. Đây là tướng Bồ-tát. Ai đầy đủ tướng này gọi là Bồ-tát.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu các hữu tình tu nhiều thiện pháp, tâm không nhàm chán, thọ trì tịnh giới, trọn không hủy phạm, thường ưa làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, tuy gặp khổ duyên nhưng không khiếp nhược. Tùy sự tu học nguyện cùng hữu tình đồng chứng Bồ-đề rốt ráo an lạc. Đấy gọi là tướng đại Bồ-tát. Đầy đủ tướng này gọi là Bồ-tát.

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao hiểu được nghĩa sâu xa Phật đã thuyết? Đó là tâm Bồ-tát thù thắng hơn tâm vô lậu của các Độc giác và A-la-hán. Cúi xin Thế Tôn vì con mà giải thích nghĩa đó, làm cho chúng con hiểu rõ để thọ trì không sai trái.

Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy cho tâm Bồ-tát còn có tham, còn có sân, còn có si, còn có mạn v.v... các tùy phiền não chăng?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Con cho tâm Bồ-tát còn có tham, còn có sân, còn có si và còn có mạn v.v... các tùy phiền não.

Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có cho tâm Độc giác và A-la-hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn v.v... các tùy phiền não không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Con cho tâm Độc giác và A-la-hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn v.v... các tùy phiền não.

Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy có cho Độc giác và A-la-hán đã dứt hẳn các lậu, khi muốn nhập vô lượng từ bi, hoá độ vô lượng vô biên hữu tình, làm cho họ được an lạcxa lìa các khổ; những vị ấy có làm cho các hữu tình thật sự được an lạcxa lìa các khổ chăng?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Bạch Thiện Thệ! Chẳng phải vậy. Các Độc giác và A-la-hán kia, tâm họ hoàn toàn không có phương tiện thiện xảo, làm sao nhập vào vô lượng từ bi, hóa độ vô lượng vô biên hữu tình, làm cho hữu tình thật sự được an lạc, xa lìa các khổ. Tạm thời xét như vầy: Chúng Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, quyết định cầu trí nhất thiết trí, vì muốn tất cả hữu tình được lợi lạc đến tận đời vị lai, thường không gián đoạn. Cho nên Bồ-tát nhập định từ bi, khiến cho vô lượng vô biên hữu tình đều được an lạcxa lìa các khổ. Ai nghiệp chướng không nặng thì chỉ trong sát-na này thật sự được an lạcxa lìa các khổ. Huống khi khi đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng lẽ không làm cho các hữu tình thật sự được an lạcxa lìa các khổ ư? Do nhơn duyên này nếu nói Bồ-tát thật sự làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, thường không gián đoạn, điều này có lý. Còn nếu nói Độc giác và A-la-hán đầy châu Thiệm-bộ, đủ tám giải thoát, đồng thời nhập vô lượng định từ bi, muốn lợi lạc vô lượng vô biên hữu tình, trong đó nếu có một người thật sự được lợi lạc, thì điều này không có lý.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Do nhân duyên này nên tâm các Bồ-tát đối với tâm vô lậu của các Độc giác và A-la-hán là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhmười phương đều dứt các lậu thành A-la-hán, đầy đủ các công đức: sáu thần thông, tám giải thoát v.v... Mỗi mỗi hữu tình lại hóa làm trăm ức quân ma. Các ma quân đó có nhiều không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Số các A-la-hán kia đã rất nhiều, huống chi tất cả đều hóa làm trăm ức quân ma. Các quân ma này đâu có thể lường biết được.

Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Như vậy, vô biên các A-la-hán đã hóa làm vô lượng, vô số quân ma, có năng lực làm cho tâm một vị Bồ-tát bất thối, bị biến chuyển tạm thời không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không thể được. Bạch Thiện Thệ! Không thể được. Vô lượng vô số quân ma như vậy, không thể làm cho tâm một Bồ-tát bất thối bị biến chuyển được.

Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Ý thầy thế nào? Như vậy, tất cả A-la-hán tâm dứt hẳn các lậu cùng với tâm một Bồ-tát bất thối, thì thế lực oai thần vị nào thù thắng hơn?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa lời Phật nói, tâm Bồ-tát bất thối thế lực thù thắng hơn, chẳng phải tâm vô số vô lượng A-la-hán.

Phật bảo:

- Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Thầy nên quán như vầy: Vô lượng tâm vô lậu các A-la-hán lìa hẳn tham dục, sân giận, ngu sikiêu mạn v.v... Tất cả lại hóa làm trăm ức quân ma mạnh mẽ. Các quân ma này dùng hết thần lực của mình, cũng không thể làm cho tâm Bồ-tát còn phiền não tham, sân, si mạn v.v... bị biến chuyển được. Do đây, nên biết tâm lực Bồ-tát thù thắng hơn tâm lậu tận của các A-la-hán.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Ai đối với tâm A-la-hán lìa phiền não tham, sân, si, mạn v.v... như thế là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tâm các Bồ-tát bất thối, tuy còn phiền não tham dục, sân giận, ngu si, kiêu mạn v.v... nhưng đối với tâm vô lậu A-la-hán là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sao? Vì tâm vô lượng, vô biên A-la-hán vô lậu như vậy và người được hóa ra, đem hết thần lực đó cũng không thể làm cho tâm một Bồ-tát bất thối đầy đủ phiền não tham, sân, si, mạn v.v... bị biến chuyển được.

Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Nay Ta hỏi thầy, thầy cứ tùy ý trả lời. Ý thầy thế nào? Nếu có đống ngọc Ca-già-mạt-ni (ngọc thuỷ tinh), trong đó đặt một viên ngọc Lưu ly, thì giá trị ánh sáng của Ca-già-mạt-ni có thể lấn át, hay hút mất giá trị ánh sáng của viên ngọc Lưu ly không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không thể được. Bạch Thiện Thệ! Không thể được. Giá trị ánh sáng của một viên ngọc Lưu ly có thể che mất ánh sáng của một đống ngọc Ca-già-mạt-ni. Vì sao? Vì ngọc Lưu ly sáng suốt từ trong ra ngoài, Ca-già-mạt-ni thì không như vậy. Ánh sáng ngọc Lưu ly rực rỡ, Ca-già-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Lưu ly bản chất xanh biếc, Ca-già-mạt-ni thì không như vậy. Loại ngọc Lưu ly thù thắng, Ca-già-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Lưu ly oai đức rộng lớn, Ca-già-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Lưu ly giá trị vô lượng, Ca-già-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Lưu ly là vật trang sức của người tôn quí, do sức nghiệp tăng thượng nên sanh nơi bãi biển lớn. Ngọc Ca-già-mạt-ni thì sang hèn đều dùng được, vì do công nghiệp tạo ra, nên giá trị ánh sáng của ngọc Lưu ly vượt hơn và che mất tất cả giá trị ánh sáng ngọc Ca-già-mạt-ni.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Tâm Đại Bồ-tát bất thối cũng lại như vậy, che khắp tâm tất cả Độc giác, Thanh văn giống như ngọc Lưu ly che mất ánh sáng ngọc Ca-già. Ta quán nghĩa này nên nói như vầy: Tâm Đại Bồ-tát bất thối đối với tâm vô lậu các Thanh vănĐộc giác đã chấm dứt xa lìa phiền não, là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Tâm Bồ-tát bất thối đầy đủ từ bi, có thể làm cho hữu tình được an lạc, xa lìa các khổ. Tâm Thanh văn, Độc giác đầy đủ từ bi, chỉ có giả tưởng nhưng không thực dụng.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Có A-la-hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng thần lực đẩy thế giới này để ở các phương, nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát bất thốibiến chuyển.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Có A-la-hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng thần lực làm khô nước biển lớn, nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát bất thốibiến chuyển.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Có A-la-hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng thần lực thổi nát hằng hà sa số thế giới; trong ấy, tất cả núi Diệu Cao đều như tro bụi, nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát bất thốibiến chuyển.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Có A-la-hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng sức thần thông, thổi đống lửa hằng hà sa số thế giới đại kiếp đang bốc cháy dữ dội đều tắt, nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát bất thốibiến chuyển.

Do nhân duyên này nên Ta nói như vầy: Tâm Đại Bồ-tát bất thối đối với tâm vô lậu các Độc giác và các Thanh văn vĩnh viễn xa lìa phiền não, là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Tâm Đại Bồ-tát bất thối đầy đủ đại lực oai thần như vậy. Thanh văn, Độc giác không thể biến chuyển được.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Vì sao? Xá-lợi Tử! Lời nói của chư Phật, Thế Tôn không hai. Nghĩa Phật đã thuyết đều thật không dối. Thầy nên thọ trì, thuyết rộng cho người khác.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Vô lượng, vô biên các loài hữu tìnhmười phương thế giới, giả sử trong vô lượng, vô biên hằng hà sa… các thế giớimười phương đó, mỗi một hằng hà sa lại biến thành bấy nhiêu loại hữu tình; giả sử đất, nước, lửa, gió ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới đó biến nát thành cực vi, tất cả đều biến làm bấy nhiêu hữu tình, thì các hữu tình này có nhiều không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Tất cả hữu tình như vậy. Giả sử tất cả đồng thành A-la-hán, dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., thành tựu thần thông tự tại rộng lớn như Đại Thái Thúc Thị (Đại Mục-kiền-liên). Tất cả đại A-la-hán ấy đều hóa làm bấy nhiêu quân ma. Mỗi ác ma lại hóa làm bấy nhiêu quân voi, quân ngựa, quân xe, quân bộ dũng mãnh. Các quân như thế có thể biết được số bao nhiêu không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không thể biết được. Bạch Thiện Thệ! Không thể biết được.

Phật bảo:

- Giả sử có số lượng thiện nam, hoặc thiện nữ bằng ba ngàn đại thiên thế giới biết được số đó, họ dùng sức thần thông phá tan các quân ma. Ý thầy thế nào? Thần thông oai lực của thiện nam, hoặc thiện nữ này có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Thần thông oai lực của thiện nam, hoặc thiện nữ này không ai có thể địch nổi, chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo:

- Giả sử thiện nam, thiện nữ như đã nói ở trước, và số các hữu tình như nói ở trước, mỗi người nam, người nữ ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới hằng hà sa… đại kiếp mà trụ từng niệm, từng niệm, hóa thành vô lượng ác ma như đã nói ở trước, mỗi ác ma lại hóa làm vô lượng quân ngựa, các quân dũng mạnh như đã nói ở trước, cũng không thể làm cho tâm Bồ-tát bất thối bị biến chuyển.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý thầy thế nào? Có bấy nhiêu hữu tình thành A-la-hán. Tất cả lại hóa làm bấy nhiêu ác ma. Mỗi ác ma đầy đủ thần lực lớn. Thần lực như thế so với thần lực của tâm một Bồ-tát bất thối chuyển, bên nào thù thắng hơn?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thần lực của tâm một Đại Bồ-tát bất thối đối với kia thù thắng hơn. Vì sao? Vì thần lực của tâm một Đại Bồ-tát bất thối vô lượng vô số, không thể nghĩ bàn, không thể nói được.

Phật lại bảo Xá-lợi Tử:

- Ý thầy thế nào? Thần lực của tâm một Đại Bồ-tát bất thối đối với thần lực vô lượng, vô biên các A-la-hán đầy đủ đại thần thông, như đã nói ở trước thì ai có thể nói kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lời Phật đã thuyết, thì chỉ có Phật Thế Tôn mới thuyết thần lực của tâm Đại Bồ-tát bất thối kia, đối với thần lực của vô lượng, vô biên các A-la-hán đầy đủ đại thần thông như đã nói ở trước là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sao? Vì thần lực của tâm Đại Bồ-tát bất thối trừ thần lực của tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, thì không ai sánh bằng. Do nhân duyên này nên thần lực của tâm Đại Bồ-tát bất thối, chỉ có Phật mới biết được, chỉ có Phật mới nói được, đối với các thần lực khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tâm Đại Bồ-tát bất thối không có hữu tình nào khác làm biến chuyển được, cũng không có người biết, người thuyết đúng như sự thật. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tâm Bồ-tát bất thối chuyển kia, vì các hữu tình tuyên thuyết như thật.

Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Do nhân duyên gì mà tâm Đại Bồ-tát bất thối không bị biến chuyển?

Xá-lợi Tử đáp:

- Do khi các Bồ-tát hành bố thí đều duyên nơi trí nhất thiết trí, nên tâm kia vững chắc không thể lay động. Khi chứng đắc bất thối chuyển như vậy, tâm không tùy duyên mà bị biến chuyển.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như có người khéo giải quyết, xử đoán mọi việc, từng ở trong vô lượng trưởng giả, cư sĩ, nhà buôn, xử đoán nhiều việc. Có người túng thiếu đến trưởng giả, cư sĩ v.v... vay mượn tiền tài vật chất. Vì sợ người kia đến đòi, không đủ sức trả nợ, bèn dựa vào vua để khỏi bị bắt. Các chủ nợ vì sợ lệnh vua nên không dám lôi kéo sĩ nhục người kia. Vì sao? Vì người kia dựa vào thế lực rất lớn, khó đương đầu nổi với vua. Bồ-tát cũng vậy, hoặc mới phát tâm, hoặc bất thối chuyển đều y vào đại thần lực của trí nhất thiết trí. Nên tất cả Độc giác và A-la-hán đều không thể làm cho tâm kia có biến động.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như người dựa vào vua, tuy rất nghèo thiếu nhưng không bị nhục. Bồ-tát cũng vậy, dựa vào trí nhất thiết trí, ác manhị thừa không thể lay động mà lại chiến thắng tất cả ác ma. Đối với nhị thừa kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì vậy Bồ-tát muốn không thối chuyển thì thường y chỉ vào trí nhất thiết trí, tu hạnh Bồ-tát, chớ ưa thích thừa nào khác.

Mãn Tử Tử hỏi:

- Những gì Bồ-tát không bằng các Độc giác, Thanh văn?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ-tát nghe nói thắng sự của Độc giác, Thanh văn lòng sanh ưa mến, nghĩ như vầy: Ta phải làm sao được pháp như vậy, cũng rất thích khen ngợi giáo lý nhị thừa. Các Bồ-tát này do khởi tác ý phi lý như vậy, liền bị sự chiến thắng của tất cả Độc giác, Thanh văn.

Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Do duyên gì mà nói tác ý của Bồ-tát này là phi lý?

Xá-lợi Tử đáp:

- Vì điều này chướng ngại trí nhất thiết trí, có thể làm cho sự phát tâm trí nhất thiết càng yếu dần, xa dần, nên gọi là Bồ-tát tác ý phi lý. Giống như thầy Du-già muốn chứng thật tế, vui mừng nhập vào Chánh tánh ly sanh, nếu gặp tham, sân, si khởi lên thì làm cho sự phát tâm A-la-hán có chướng ngại, bị yếu dần, xa dần. Cho nên nói là tác ý phi lý. Bồ-tát cầu đại Bồ-đề như vậy, nếu khởi tác ý tương ưng nhị thừa thì chướng ngại trí nhất thiết, tổn hại tâm Bồ-đề. Cho nên gọi là tác ý phi lý. Nếu các Bồ-tát có tác ý này liền bị sự chiến thắng của nhị thừa.

Mãn Từ Tử liền bảo cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát phát khởi tác ý tương ưng nhị thừa, liền bị nhị thừa chinh phục, nên biết, không dựa vào số Bồ-tát. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Bồ-tát chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu khởi tác ý tương ưng với nhị thừa, trái với bổn nguyện, không thể chứng đắc trí nhất thiết. Như bậc Dự lưuphiền não hiện hành, liền trái với sự cầu hoặc trí hoặc đoạn. Vì siêng năng cầu trí, đoạn nên gọi là Dự lưu. Chẳng phải phiền não hiện hành là có nghĩa cầu cầu. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì bậc Dự lưu thì cầu hai biến tri:

1. Một là trí biến tri.

2. Hai là đoạn biến tri.

Nếu phiền não hiện hành thì hai sự cầu kia đều hoại, cho nên bậc Dự lưu thường nên tinh cần diệt trừ các phiền não cầu trí biến tri. Bồ-tát nếu khởi tác ý tương ưng với nhị thừa như vậy, liền trái với bổn nguyện mong cầu trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát xa lìa tâm và tâm sở, mong cầu trí nhất thiết trí, thì không gọi là chơn thật Bồ-tát.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì điều cốt yếu của Bồ-tát là thường mong cầu tâm trí nhất thiết trí, không gián đoạn. Nếu các Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát, thì các ác ma nhị thừa không thể chinh phục được, mà còn chiến thắng được ác ma nhị thừa. Như người bắn cung giỏi đứng đúng tư thế, không bị sự chinh phục của tất cả oán địch, mà chinh phục được oán địch, xa lìa các sự sợ hãi. Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát như vậy, tất cả ác duyên không thể phá hoại được, mà phá hoại tất cả sự nghiệp của chúng ma. Nếu nghe tuyên thuyết giáo pháp nhị thừa, liền nghĩ như vầy: Ta sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng nên tuyên thuyết giáo pháp như vậy cho các hữu tình, giống như ngày nay Thế Tôn Năng Nhơn Tịch Tịnh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết giáo pháp tương nhị thừa cho các vị chủng tánh Độc giác, Thanh văn ở đời vị lai, khi ta được làm Phật, cũng vì các hữu tình như vậy mà tuyên thuyết giáo pháp như thế để họ được lợi lạc. Bồ-tát như vậy trụ tâm Bồ-tát, dùng phương tiện khéo léo, tuy nghe giáo pháp tương ưng với nhị thừa nhưng không bị tổn giảm. Nghĩa là tuy nghe pháp giáo tương ưng kia, nhưng đối với nhị thừa không có sự tham nhiễm. Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát như vậy, không bị ác ma nhị thừa chinh phục, mà chinh phục được ác ma nhị thừa. Như thầy Du-già đối với cảnh không bị thu hút, vì định đã hoàn toàn thiện xảo. Vì sao? Vì định đã khéo điều phục tâm đối với cảnh, nên được tự tại. Bồ-tát trụ tâm Bồ tát như vậy, ác ma nhị thừa không thể chinh phục. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đối với tâm Bồ-tát thường không xa lìa.

Xá-lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:

- Tất cả Bồ-tát hoặc mới phát tâm, hoặc đã được bất thối, hoặc ngồi tòa Bồ-đề đều không thể chinh phục được sao?

Mãn Từ Tử đáp:

- Tất cả Bồ-tát hoặc mới phát tâm, hoặc đã được bất thối, hoặc ngồi tòa Bồ-đề, nên biết tất cả không thể chinh phục được. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các Bồ-tát này đối với tất cả ác duyên, không bị làm cho xả bỏ bản nguyện. Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, đối với các hữu tình chỉ vì muốn làm lợi ích. Giữ vững hai điều thệ nguyện như thế thì tất cả ác duyên không lay động được. Nếu các Bồ-tát an trụ tâm này thì ác ma nhị thừa không thể chinh phục.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Cũng như các Như Lai, hoặc mới thành Phật, hoặc đã thành Phật, trụ trăm ngàn năm đều không lìa bỏ tâm trí nhất thiết, đối với tất cả thời thành trí nhất thiết. Bồ-tát cũng vậy, hoặc mới phát tâm, hoặc đã được bất thối, hoặc ngồi tòa Bồ-đề, đối với tất cả thời duyên trí nhất thiết, suy nghĩ cầu chứng, chưa từng tạm bỏ.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu như thế thì các ngôi vị Bồ-tát đâu có gì sai khác?

Mãn Từ Tử đáp:

- Các ngôi vị Bồ-tát tâm không khác biệt, chỉ có thành Phật thì mau chậm không đồng. Nghĩa là tâm Bồ-tát trước, sau, giữa đều cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, an trụ tâm này thường không thối chuyển.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Như A-la-hán quyết không thối lui tâm A-la-hán. Nghĩa là tâm vô lậu chắc chắn không thối chuyển. Bồ-tát cũng vậy, quyết không thối thất tâm đại Bồ-đề.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả thế nào? Nếu tâm A-la-hán có thối thất thì kia có là chơn thật A-la-hán không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ, không phải. Nếu tâm A-la-hán có thối thất, nên biết vị kia là tăng thượng mạn, nhất định chưa đắc quả A-la-hán.

Mãn Từ Tử! Bồ-tát cũng vậy, nếu có Bồ-tát thối tâm Bồ-đề nên biết, trước kia tự xưng Bồ-tát, chẳng phải Bồ-tát thật, là tăng thượng mạn, làm nhiễm ô chúng Bồ-tát. Như ốc sên làm dơ nước sạch, chẳng thể uống được.

- Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết hàng kia bị vô trí che lấp tâm, tự xưng là Bồ-tát, thật sự chưa được vào số Bồ-tát chơn thật, chỉ có giả danh. Ví như trượng phu, nam căn phải đầy đủ. Có người thiếu căn cũng tự xưng trượng phu, chỉ có hư ngôn nhưng không có nghĩa thật. Bồ-tát thối tâm Bồ-đề cũng vậy, chỉ có giả danh, chẳng thật Bồ-tát. Như người thiếu căn gọi là dị hình. Bồ-tát thối tâm gọi là Bồ-tát hư ngụy. Cho nên Bồ-tát ở đầu, giữa, sau nhất định không thối tâm đại Bồ-đề. Nếu thối tâm này chẳng phải Bồ-tát.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải khởi tác ý tương ưng với những gì?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên phát khởi tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Tất cả pháp Bồ-tát cần phải an trụ tác ý như vậy. Nếu các Bồ-tát trụ tác ý này tu hành bố thí, thì các Bồ-tát này liền hồi hướng trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát hồi hướng trí nhất thiết trí như vậy, thì các Bồ-tát này gìn giữ bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát không hồi hướng trí nhất thiết trí, thì sự tu hành bố thí của các Bồ-tát này không gọi là bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu khi các Bồ-tát hành bố thí, lại suy nghĩ: Ta xả phần ít, hay không xả phần ít. Ta xả vật này, hay không xả vật này. Ta bố thí loài kia, hay không bố thí loài kia. Các Bồ-tát này do dự suy nghĩ đó làm chướng ngại trí nhất thiết, phải trải qua thời gian lâu mới được trí nhất thiết. Để nhiều thời gian bố thí Ba-la-mật-đa mới được viên mãn. Vì vậy Bồ-tát muốn trí nhất thiết trí không bị chướng ngại, muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, muốn làm cho bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, nên xa lìa suy nghĩ phân biệt như vậy. Nên xả bỏ tất cả phân biệt, nên bố thí tất cả vật, đối với tất cả loài nên bố thí bình đẳng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa mà trụ như vậy. Nếu các Bồ-tát vào buổi sáng trong ngày đem các loại thức ăn thượng diệu, bố thí cho hằng hà sa số hữu tình; đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu; vào buổi trưa trong ngày cũng dùng các loại thức ăn thượng diệu, bố thí hằng hà sa số hữu tình; đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu; vào buổi chiều trong ngày cũng đem các loại thức ăn thượng diệu, bố thí cho hằng hà sa số hữu tình; đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu, tiếp đến ba thời của ban đêm cũng lại như vậy. Bố thí như vậy trải qua hằng hà sa số đại kiếp thường không gián đoạn. Các Bồ-tát này bố thí như vậy rồi, nếu không hồi hướng cầu trí nhất thiết trí, tuy gọi bố thí nhưng chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu hồi hướng cầu trí nhất thiết trí thì mới gọi bố thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là sau khi bố thí không khởi sự phân biệt, tùy nhiều ít mà phát tâm rộng lớn, nhờ hữu tình bố thí tất cả. Khi Bồ-tát này hành bố thí, tuy không xả nhiều để bố thí tất cả, nhưng thành tựu bố thí Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì muốn chứng đắc vô lượng Phật pháp mà hành bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu khi bố thí tâm có hạn lượng, nhất định không chứng vô lượng Phật pháp. Nếu tâm các Bồ-tát có hạn lượng mà hành bố thí, thì các Bồ-tát này nhất định không chứng trí nhất thiết trí, chắc chắn đối với bố thí Ba-la-mật-đa không được viên mãn. Vì vậy Bồ-tát muốn chứng vô lượng trí nhất thiết trí phải nên phát khởi tâm không hạn lượng mà hành bố thí. Nếu các Bồ-tát có tâm hạn lượng mà hành bố thí, thì các Bồ-tát này còn tham lam không muốn dứt bỏ, không thể hộ trì trí nhất thiết trí. Chống trái với tướng này, làm sao chứng đắc trí nhất thiết trí, viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Chúng Bồ-tát muốn hành bố thí nên khởi tâm này: Ta nên tu hành bố thí không hạn lượng khi chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các hữu tình nên hành tài thí. Nếu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các hữu tình phải hành pháp thí. Nghĩa là nếu chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với hữu tình nên cho tiền tài, khiến họ xa lìa nghèo khổ, được an lạcthế gian. Nếu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các hữu tình phải đem cho chánh pháp, để họ xa lìa phiền não, được an lạc xuất thế gian. Như người phụng sự vua, trước thì được y phục, nuôi sống vợ con; sau được lòng vua thì được hưởng nhiều tiền của châu báu. Bản thân mình và vợ con đều thọ hưởng sự phú quý an ổn khoái lạc. Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng vậy, tu hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, trước thì dùng tiền tài bố thí cho các hữu tình, để họ xa lìa sự khổ nghèo ở thế gian; về sau khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dùng pháp vô nhiễm dạy dỗ giáo huấn các hữu tình, giúp họ thoát khỏi các khổ sanh tử.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như hơn trăm ngàn các hữu tình siêng năng phụng sự vương tử suốt cả ngày đêm. Bấy giờ, vương tử trợ cấp y phục, vật ăn uống, ngọa cụ v.v... Sau khi lên ngôi vua, tùy theo công lao xưa, khả năng kham nhiệm mà ban quyền cao tước lộc; hoặc là chủ sự nghiệp, hoặc chủ núi sông, hoặc chủ thành lớn, hoặc chủ cửa ải, hoặc chủ làng xóm, hoặc chủ quân lính. Bồ-tát cầu trí nhất thiết cũng vậy, khi chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trước hết phải đem của cải cho hữu tình. Sau khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tùy theo sự hiểu biết khác nhau của các hữu tình, dùng giáo pháp vô thượng dạy dỗ giáo huấn, làm cho họ an trụ quả A-la-hán, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Dự lưu, hoặc mười đường lành, hoặc thắng vị Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát này cầu đại Bồ-đề, hành hạnh Bồ-tát. Khi chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi Niết-bàn cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Ví như vương tử chưa nối ngôi vua, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu nối ngôi vua cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi băng hà cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như người phụng sự vua, tinh tấn đúng mực, trải qua thời gian lâu, bổng lộc cứ thế cứ thế tăng dần. Bồ-tát cầu trí nhất thiết cũng như vậy, tinh tấn đúng mực, trải qua thời gian lâu dài, công đức cứ thế cứ thế dần dần tăng trưởng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát này khi chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem tiền của cho các hữu tình. Nghĩa là dùng các loại y phục, vật ăn uống, ngọa cụ, thuốc men và các tài vật khác, dùng phương tiện khéo léo hộ trì, làm lợi ích hữu tình. Nếu khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dùng chánh pháp hộ trì các hữu tình. Nghĩa là dùng các pháp như bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng vô biên Phật pháp khác hộ trì lợi ích. Hoặc dùng các pháp như: niệm, trụ, chánh, đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chivô lượng vô biên Phật pháp khác hộ trì lợi ích. Hoặc dùng các việc phước nghiệp của thí, việc phước nghiệp của giới, việc phước nghiệp của tu và vô lượng vô biên thiện pháp thế gian hộ trì lợi ích. Sau khi vào Niết-bàn cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng vô biên hữu tình. Nghĩa là cúng dường xá-lợi Phật. Hoặc đối với chánh pháp vô thượng của Như Lai thọ trì, đọc tụng, tu hành như đã thuyết, đều được lợi ích rộng lớn vô biên. Nghĩa là được an lạccõi trời, người, hoặc nhập Niết-bàn, hoặc đại Bồ-đề an lạc rốt ráo.

Mãn Từ Tử bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Thật đúng như lời Tôn giả đã nói. Tôn giả đã thuyết đều đúng nghĩa. Cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói Tôn giả là bậc trí tuệ biện tài đệ nhất trong hàng Thanh văn.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ví như vàng ròng thường lợi ích lớn cho hữu tình. Nghĩa là chưa ra khỏi quặng hoặc khi đã ra, hoặc biến chuyển thành các vật trang sức, hoặc đem ra bán đổi để mua vật khác, đều lợi ích cho vô lượng vô biên hữu tình. Tùy theo sự ứng dụng của họ làm lợi ích lớn. Như vậy, Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát, khi chưa chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nghĩa là dùng tài pháp, tùy theo sự thích ứng của họ mà dùng phương tiện khéo léo hộ trì lợi ích. Nếu khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi ích lớn. Nghĩa là tuyên thuyết sắc uẩn thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết nhãn xứ thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết sắc xứ thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết nhãn giới thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết sắc giới thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết nhãn thức giới thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết nhãn xúc thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết địa giới thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết nhân duyên thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết vô minh thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết ngã thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la (người), ý sanh, thanh niên, người biết, người thấy thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết cõi Dục thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết cõi Sắc, Vô sắc thường, vô thường v.v... bất khả đắc.

Tuyên thuyết các pháp môn như vậy, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Sau khi nhập Niết-bàn, Chánh pháp, Tượng pháp và xá-lợi cũng làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Thanh văn , Độc giác không có việc như vậy. Cho nên chúng Đại Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát thường làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Do đây nên nói các Bồ-tát đối với nhị thừa kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Lúc bấy giờ, Phật dạy A-nan-đà:

- Thầy nên thọ trì những gì Xá-lợi Tử đã thuyết. Chúng Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện, đến đại Bồ-đề, đầy đủ khéo léo thù thắng, ý muốn tăng thượng, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa xả bỏ pháp, xả bỏ tiền tài, không nhiễm không trước.

Khi đức Bạc-già-phạm thuyết kinh này, cụ thọ Xá-lợi Tử, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ A-nan-đà và các Thanh văn, chúng Bồ-tát cùng với thế gian, trời, rồng, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v..., tất cả đại chúng, nghe lời Phật thuyết đều phấn khởi vui mừng và tin thọ phụng hành.

Quyển thứ 583
HẾT

 
HỘI THỨ 12
PHẦN TỊNH GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA

01

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bạc-già-phạm cùng với một ngàn hai trăm năm mươi chúng đại Bí-sô trú ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ-đa, thành Thất-la-phiệt. Bấy giờ, Thế Tôn bảo cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Bây giờ, thầy nên vì các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà tuyên thuyết tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử vâng theo lời dạy của Phật và nương vào thần lực Phật, giáo huấn, trao truyền tịnh giới Ba-la-mật-đa cho các Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Làm sao biết được Bồ-tát trì giới? Làm sao biết được Bồ-tát phạm giới? Thế nào là nơi hành xứ của Bồ-tát? Thế nào là chẳng phải nơi hành xứ của Bồ-tát?

Xá-lợi Tử liền trả lời cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Nếu các Bồ-tát tác ý an trụ Thanh văn, Độc giác, thì gọi là chẳng phải nơi hành xứ của Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát an trụ nơi này nên biết là Bồ-tát phạm giới.

Nếu các Bồ-tát hành nơi phi xứ này thì các Bồ-tát này nhất định không giữ gìn được tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Nếu các Bồ-tát quyết định không giữ gìn tịnh giới Ba-la-mật-đa thì các Bồ-tát này xả bỏ bổn nguyện.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ bổn nguyện nên biết là Bồ-tát phạm giới.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tu hành bố thí, hồi hướng đến địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác thì gọi là Bồ-tát hành nơi phi xứ. Nếu Bồ-tát hành nơi phi xứ, nên biết đây là Bồ-tát phạm giới. Nếu các Bồ-tát an trụ tại nhà, hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nên biết chẳng phải là Bồ-tát phạm giới. Nếu khi Bồ-tát hành bố thí, hồi hướng đến địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác, không cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên biết đây là Bồ-tát phạm giới.

Ví như Vương tử nên học giáo lệnh của Phụ vương, và học những pháp mà Vương tử cần phải học. Nghĩa là các Vương tử đều nên khéo học các ngành nghề tinh xảo và các sự nghiệp. Các ngành nghề tinh xảo và các sự nghiệp, là luyện học các bộ môn, những công việc như, biết cỡi voi, ngựa, xe và giỏi cầm cương, cung, nỏ, mâu nhọn, đao, mâu cán dài, lưỡi câu tròn, chạy nhảy, tránh né, chữ viết, in ấn, toán số, Thanh luận, Nhân minh luận v.v... Nếu các Vương tử siêng năng học tập các thứ như vậy là thuận theo lợi ích pháp vua. Tuy hưởng thọ, vui đùa thỏa thích năm dục lạc nhưng không bị nhà vua quở trách.

Bồ-tát cũng vậy, siêng năng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuy ở tại nhà hưởng thọ thỏa thích năm dục lạc, nhưng không trái nghịch với trí nhất thiết trí. Nếu khi các Bồ-tát hành bố thí, hồi hướng địa vị Thanh văn, Độc giác thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ, chẳng phải là thửa ruộng cho trí nhất thiết. Từng giờ, từng giờ chẳng thành thửa ruộng cho trí nhất thiết. Từng lúc, từng lúc không thể giữ gìn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Từng giờ, từng giờ không thể giữ gìn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Từng lúc, từng lúc xa lìa sự cầu trí nhất thiết trí. Từng giờ, từng giờ xa lìa sự cầu trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc hành nơi phi xứ. Từng giờ, từng giờ hành nơi phi xứ. Từng lúc, từng lúc phạm giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tuy xuất gia thọ trì tịnh giới, nhưng không hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các Bồ-tát này nhất định không thành tựu tịnh giới Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát này nhất định không thành tựu tịnh giới Bồ-tát, thì các Bồ-tát này chỉ có hư danh, hoàn toàn không có thật nghĩa. Nên biết những vị ấy không gọi Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát tuy ở tại gia nhưng thọ tam quy, có lòng tin Tam bảo sâu xa, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các Bồ-tát này dù hưởng thọ năm dục lạc đầy đủ, song đối với sự hành tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát thường không xa lìa, gọi là người trì tịnh giới chơn thật, cũng gọi là an trụ tịnh giới Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát trụ giới Bồ-tát thì các Bồ-tát này thường không xa lìa tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát thường không xa lìa tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, thì các Bồ-tát này thường không xa lìa trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát phát khởi nhiều tác ý phi lý, tương ưng với năm dục nhưng chỉ khởi một tâm niệm tương ưng với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì có thể diệt trừ tất cả. Giống như nhiều ngọc Ca-già-mạc-ni, nhưng chỉ một viên Lưu ly có thể lấn át tất cả ánh sáng kia. Nghĩa là giá trị, ánh sáng của Lưu ly vượt hơn, sáng hơn tất cả ngọc Ca-già-mạt-ni. Bồ-tát cũng vậy, tuy phát khởi nhiều tác ý phi lý tương ưng với năm dục, nhưng nếu chỉ khởi một tâm niệm tương ưng với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì sẽ đẩy lùi tất cả, như một số ngọc Ca-già bị ngọc Lưu ly đoạt mất ánh sáng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát chấp trước các tướng mà hành bố thí, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ-tát hành nơi phi xứ, nên biết các Bồ-tát này phạm giới Bồ-tát. Bồ-tát không nên chấp trước các tướng mà hành bố thí, cũng lại không nên chấp trước quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà hành bố thí. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật xa lìa các tướng. Vì sao? Vì mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng v.v..., vô lượng vô biên các pháp vi diệu của chư Phật đều xa lìa các tướng. Như vậy, Bồ-tát đối với sự hành bố thí không nên chấp trước. Nếu các Bồ-tát đối với sự hành bố thíkhông chấp trước, thì các Bồ-tát này liền hộ trì được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát cầu trí nhất thiết trítu hành bố thí, thì các Bồ-tát này đâu khởi tâm chấp trước trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát khởi tâm chấp trước trí nhất thiết trí sẽ thành giới cấm thủ, thì làm sao gọi là trì giới Bồ-tát?

Xá-lợi Tử đáp:

- Trí nhất thiết trí xa lìa các tướng, chẳng phải giữ gìnmọi nơi mọi chỗ.

Trí nhất thiết trí chẳng phải sắc uẩn, không xa lìa sắc uẩn; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không xa lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn.

Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn xứ, không xa lìa nhãn xứ; chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Trí nhất thiết trí chẳng phải sắc xứ, không xa lìa sắc xứ; chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không xa lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn giới, không xa lìa nhãn giới; chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Trí nhất thiết trí chẳng phải sắc giới, không xa lìa sắc giới; chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không xa lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn thức giới, không xa lìa nhãn thức giới; chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Trí nhất thiết trí chẳng phải nhãn xúc, không xa lìa nhãn xúc; chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Trí nhất thiết trí chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không xa lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không xa lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Trí nhất thiết trí chẳng phải địa giới, không xa lìa địa giới; chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không xa lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Trí nhất thiết trí chẳng phải nhân duyên, không xa lìa nhân duyên; chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, không xa lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Trí nhất thiết trí chẳng phải vô minh, không xa lìa vô minh; chẳng phải hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, không xa lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh, lão tử.

Trí nhất thiết trí chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa, không xa lìa bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, không xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp nội Không, không xa lìa pháp nội Không; chẳng phải pháp ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không; không xa lìa pháp ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không.

Trí nhất thiết trí chẳng phải chơn như, không xa lìa chơn như; chẳng phải pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; không xa lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Trí nhất thiết trí chẳng phải Thánh đế khổ, không xa lìa Thánh đế khổ; chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo, không xa lìa Thánh đế tập, diệt, đạo.

Trí nhất thiết trí chẳng phải bốn tĩnh lự, không xa lìa bốn tĩnh lự; chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc; không xa lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Trí nhất thiết trí chẳng phải bốn niệm trụ, không xa lìa bốn niệm trụ; chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; không xa lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp môn giải thoát Không, không xa lìa pháp môn giải thoát Không; chẳng phải pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; không xa lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Trí nhất thiết trí chẳng phải tám giải thoát, không xa lìa tám giải thoát; chẳng phải tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; không xa lìa tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp môn Đà-la-ni, không xa lìa pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải pháp môn Tam-ma-địa, không xa lìa pháp môn Tam-ma-địa.

Trí nhất thiết trí chẳng phải Tịnh quán địa, không xa lìa Tịnh quán địa; chẳng phải Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa; không xa lìa Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa.

Trí nhất thiết trí chẳng phải Cực hỷ địa, không xa lìa Cực hỷ địa; chẳng phải Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa; không xa lìa Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.

Trí nhất thiết trí chẳng phải năm loại mắt, không xa lìa năm loại mắt; chẳng phải sáu phép thần thông, không xa lìa sáu phép thần thông.

Trí nhất thiết trí chẳng phải mười lực Phật, không xa lìa mười lực Phật; chẳng phải bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; không xa lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Trí nhất thiết trí chẳng phải ba mươi hai tướng Đại sĩ, không xa lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng phải tám mươi vẻ đẹp, không xa lìa tám mươi vẻ đẹp.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp không quên mất, không xa lìa pháp không quên mất; chẳng phải tánh luôn luôn xả, không xa lìa tánh luôn luôn xả.

Trí nhất thiết trí chẳng phải trí nhất thiết, không xa lìa trí nhất thiết; chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không xa lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Trí nhất thiết trí chẳng phải quả Dự lưu, không xa lìa quả Dự lưu; chẳng phải quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề; không xa lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề.

Trí nhất thiết trí chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng phải quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, không xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu sắc, không xa lìa pháp hữu sắc; chẳng phải pháp vô sắc, không xa lìa pháp vô sắc.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu kiến, không xa lìa pháp hữu kiến; chẳng phải pháp vô kiến, không xa lìa pháp vô kiến.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu đối, không xa lìa pháp hữu đối; chẳng phải pháp vô đối, không xa lìa pháp vô đối.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu lậu, không xa lìa pháp hữu lậu; chẳng phải pháp vô lậu, không xa lìa pháp vô lậu.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu vi, không xa lìa pháp hữu vi; chẳng phải pháp vô vi, không xa lìa pháp vô vi.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp hữu lượng, không xa lìa pháp hữu lượng; chẳng phải pháp vô lượng, không xa lìa pháp vô lượng.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp quá khứ, không xa lìa pháp quá khứ; chẳng phải pháp vị lai, hiện tại, không xa lìa pháp vị lai, hiện tại.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp thiện, không xa lìa pháp thiện; chẳng phải pháp bất thiện, vô ký, không xa lìa pháp bất thiện, vô ký.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp buộc cõi Dục, không xa lìa pháp buộc cõi Dục; chẳng phải pháp buộc cõi Sắc, Vô sắc, không xa lìa pháp buộc cõi Sắc, Vô sắc.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp thấy chỗ đoạn, không xa lìa pháp thấy chỗ đoạn; chẳng phải pháp tu chỗ đoạn, không đoạn; không xa lìa pháp tu chỗ đoạn, không đoạn.

Trí nhất thiết trí chẳng phải pháp học, không xa lìa pháp học; chẳng phải pháp không học, chẳng học chẳng không học; không xa lìa pháp không học, chẳng học chẳng không học.

Trí nhất thiết trí xa lìa các tướng pháp như vậy nên không thể chấp thủ. Trí nhất thiết trí xa lìa các tướng, không có pháp có thể đắc, không sở đắc nên không thể chấp thủ.

Trí nhất thiết trí không phải có pháp, cũng không phải không pháp. Do nhân duyên không thể chấp thủ này, nên Bồ-tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tuy cầu chứng đắc trí nhất thiết trí nhưng không gọi là hộ trì giới cấm thủ. Nếu các Bồ-tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng Thanh văn, hoặc Độc giác, chấp lấy tịnh giới thì các Bồ-tát này mất Bồ-tát giới, nên biết đó gọi là phạm giới Bồ-tát.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, vi phạm giới Bồ-tát đã thọ. Các Bồ-tát này nếu có điều kiện có thể trở lại tịnh giới không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu Bồ-tát kia, hồi hướng bậc Thanh văn, Độc giác rồi, chưa thấy Thánh đế, chưa chứng thật tế, hoặc có điều kiện thì dễ có thể trở lại tịnh giới. Nếu đã thấy Thánh đế, chứng thật tế rồi, dị kiến sâu nặng thì khó có thể trở lại tịnh giới.

Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không nên để cho họ chứng thật tế hay sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu các Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không nên để cho họ chứng nơi thật tế.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Do nhân duyên gì mà các Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không nên để cho họ chứng thật tế.

Xá-lợi Tử đáp:

- Có các Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu mau làm cho vị ấy chứng thật tế, thì các Bồ-tát này hoặc được đủ nhân duyên, trú ở bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, khó có thể làm cho họ khởi tâm trí nhất thiết, hoặc gặp lúc chánh pháp Như Lai không còn, không cần chứng đắc trí nhất thiết trí, bấy giờ liền chứng Độc giác Bồ-đề, nhập vào Vô dư y Niết-bàn, hoàn toàn không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nhân duyên này, nếu các Bồ-tát cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không nên làm cho vị ấy mau chứng thực tế, cho đến chưa ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, không nên làm cho vị ấy chứng thật tế, hoặc khi đã ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, sắp chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thể làm cho họ chứng nơi thật tế, dứt trừ tất cả chướng ngại để chứng đại Bồ-đề.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, không nên thọ trì tịnh giới của nhị thừa. Vì tịnh giới kia không thể hộ trì trí nhất thiết trí, không hướng đến phát tâm trí nhất thiết trí, không giữ gìn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát khởi tâm phân biệt, giới hạn làm lợi ích cho hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, thì các Bồ-tát này không giữ gìn được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát không có phân biệt, giới hạn. Nếu các Bồ-tát phát tâm không phân biệt, giới hạn làm lợi ích hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, thì các Bồ-tát này mới giữ gìn được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, cũng viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Do nhân duyên đây, nên gọi các Bồ-tát này thành tựu tịnh giới Bồ-tát.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Sao gọi là Bồ-tát trì giới?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ-tát tùy theo sự hành bố thí, tất cả đều hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, nên biết đó là Bồ-tát trì giới. Nếu các Bồ-tát tùy theo sự hộ trì giới, tất cả hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián không đoạn, nên biết đây là Bồ-tát trì giới.

Nếu các Bồ-tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành trì giới, làm cho được viên mãn, nhưng không hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, thì các Bồ-tát này không hộ trì được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành tịnh giới, làm cho được viên mãn nhưng hồi hướng tâm về Thanh văn, Độc giác thì các Bồ-tát này không hộ trì được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, không viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát tuy không thọ trì tịnh giới của nhị thừa, nhưng không gọi là người phạm tịnh giới. Nếu các Bồ-tát hồi hướng về bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, tuy thọ trì nhiều tịnh giới của nhị thừa nhưng lại gọi là người phạm tịnh giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu các Bồ-tát hồi hướng về Thanh văn, hoặc Độc giác, nên biết đó là hành nơi phi xứ. Nói phi xứ tức là nhị thừa, chẳng phải chỗ hành xứ của Bồ-tát vậy.

Mãn Từ Tử lại hỏi Xá-lợi Tử:

- Sao gọi là Bồ-tát hành xứ?

Xá-lợi Tử đáp:

- Tác ý tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với sự học bốn tĩnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với sự học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với sự học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến trí nhất thiết trí. Nên biết đây là hành xứ của Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát an trụ tu hành chắc chắn nơi hành xứ này, nên biết đây là Bồ-tát trì giới.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, ở tại gia hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nhưng không phát khởi tâm hồi hướng về bậc Thanh văn, Độc giác. Nên biết các Bồ-tát này không gọi là phạm Bồ-tát giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ-tát này ý thích tăng thượng, không thối chuyển, biến hoại.

- Sao gọi là ý thích tăng thượng?

- Nghĩa là quyết định cầu trí nhất thiết trí. Ví như có người đối với tài vật của người khác, thật tình không cướp đoạt, tuy bị cầm tù oan uổng trong một thời gian dài, nhưng tâm ý an lạc thường vui, không bị thối chuyển nản lòng. Tuy ở tù chung với người xấu, nhưng không có tâm trộm cướp tài vật của người khác, nên không gọi là giặc cướp. Bồ-tát cũng vậy, tuy ở tại giatrải qua hằng hà sa số đại kiếp hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nhưng ý thù thắng thường không thối chuyển, biến hoại, nghĩa là luôn cầu trí nhất thiết trí, chưa từng phát khởi tâm nhị thừa. Cho nên không gọi là phạm Bồ-tát giới.

Nếu các Bồ-tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành phạm hạnh, nhưng phát tâm hồi hướng về nhị thừa, nên biết không gọi là người trì tịnh giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì người kia bỏ tịnh giới Bát-nhã ba-la-mật-đa, an trụ giới Thanh văn, Độc giác thừa. Nếu các Bồ-tát an trụ giới Thanh văn, Độc giác thừa, thì không gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì các Bồ-tát này xa lìa tịnh giới Ba-la-mật-đa, tâm không cầu trí nhất thiết trí, nhất định không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát khởi tâm như vầy: Ta nên tinh tấntrải qua bấy nhiêu kiếp trôi lăn trong vòng sanh tử, quyết định phát khởi tâm trí nhất thiết trí. Các Bồ-tát này do khởi tâm này nên không chứng đắc trí nhất thiết trí.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu tâm các Bồ-tát có phân biệt, giới hạn: Ta siêng năng tinh tấn, quyết định chứng đắc trí nhất thiết trí, phải trải qua bấy nhiêu kiếp. Tâm mong cầu như thế mắc phải lỗi gì mà không chứng đắc trí nhất thiết trí?

Xá-lợi Tử đáp:

- Các Bồ-tát này nhàm chán sanh tử, mong cầu mau chứng Bồ-đề. Do tâm mong cầu nên có phân biệt, giới hạn. Do có phân biệt, giới hạn nên không thành thục thiện căn thù thắng. Do sợ sanh tử hoặc cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa. Chẳng phải phân biệt, giới hạn mà lại làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Chẳng phải phân biệt, giới hạn mà làm viên mãn vô lượng bố thí Ba-la-mật-đa. Chẳng phải không viên mãn vô lượng bố thí Ba-la-mật-đa mà chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu tâm các Bồ-tát có phân biệt, giới hạn, giả sửtrải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa nhưng cũng không viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa. Bố thí Ba-la-mật-đa của Bồ-tát không có bờ mé cho nên trí nhất thiết trí cũng không có bờ mé. Nếu Bồ-tát không viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa, mà chứng đắc trí nhất thiết trí thì không có điều này. Vì vậy, Bồ-tát mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhất định không nên khởi tâm phân biệt, giới hạn, mong cầu mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các Bồ-tát này quyết định không có tâm phân biệt, giới hạn tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hạnh Bồ-tát. Từng lúc, từng lúc việc tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa dần dần được thành thục khéo léo, có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Ví như vật bằng đất nung mới, đựng đầy nước sạch phơi giữa nắng. Suốt thời gian dài, nước thấm dần, thấm dần, như vậy vật ấy càng thêm bền chắc. Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hạnh Bồ-tát. Từng lúc, từng lúc việc tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa dần dần thành thục khéo léo, có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như bình sứ mới, đựng đầy bơ dầu, để qua thời gian lâu, cứ vậy, cứ vậy, bơ dầu thấm dần, thấm dần. Do đó nên bình sứ càng chắc, có thể chịu đựng được. Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hạnh Bồ-tát. Từng lúc, từng lúc dần dần gặp được nhiều vị Phật và đệ tử Phật, tin tưởng cung kính, cúng dường. Từng giờ, từng giờ dần dần gặp được nhiều vị Phật và đệ tử Phật, tin tưởng cung kính, cúng dường. Từng lúc, từng lúc dần dần nhờ nhiều vị Phật và đệ tử Phật dạy dỗ, trao truyền. Từng giờ, từng giờ dần dần được nhiều vị Phật và đệ tử Phật dạy dỗ, trao truyền. Từng lúc, từng lúc dần dần được nghe thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ dần dần được nghe thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc dần dần có thể tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ khéo tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc dần dần lại viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ dần dần lại viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc dần dần được thân cận trí nhất thiết trí. Từng giờ, từng giờ dần dần được thân cận trí nhất thiết trí. Khi ấy, dần dần chấm dứt các chướng ngại, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ-tát từng giờ, từng giờ khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc không để tâm phan duyên với cảnh khác. Từng giờ, từng giờ không để tâm phan duyên với cảnh khác. Từng lúc, từng lúc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tiếp nối thấm nhuần nơi tâm, dần dần được viên mãn. Do tâm liên tục được viên mãn, nên gọi là phát tâm đến trí nhất thiết.

Tâm tương tục này không gián đoạn cho đến khi chứng đắc trí nhất thiết trí. Như bình chứa dầu bơ lâu ngày, như vậy hơi dầu thấm nhuần khắp bình, không nhiễm mùi của hơi khác bám vào. Đại Bồ-tát cũng vậy, khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, tâm không bị cảnh khác xen tạp. Do không xen tạp nên bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa huân tập viên mãn. Các quân ma ác muốn rình tìm lỗi, chắc chắn không thể được. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đối cảnh đây mà ma rình tìm lỗi, thì các Bồ-tát liền khởi tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, do đó ác ma chẳng làm gì được.

Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc dần dần phụng thờ nhiều vị Phật và các đệ tử. Từng giờ, từng giờ dần dần phụng thờ nhiều vị Phật và các đệ tử. Từng lúc, từng lúc nghe thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ nghe thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc siêng năng tinh tấn, suy nghĩ đúng lý sự thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ siêng năng tinh tấn, suy nghĩ đúng lý sự thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc siêng năng tinh tấn, tu tập không điên đảo về sự thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ siêng năng tinh tấn, tu tập không điên đảo về sự thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc tương tục nơi tâm, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa dần dần được viên mãn. Từng giờ, từng giờ tương tục nơi tâm, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa dần dần được viên mãn. Khi ấy, dần dần thân cận trí nhất thiết trí. Do đó mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát muốn khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới. Các Bồ-tát này trước hết phải tự khởi tâm, tâm sở tương ưng với tịnh giới; sau đó mới khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới. Đã khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới rồi, lại làm cho họ hồi hướng về trí nhất thiết trí. Bồ-tát như vậy là tự tu thiện căn, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí; lại khuyến hóa, hướng dẫn các hữu tình khác khởi tâm thanh tịnh thọ trì tịnh giới, thọ trì tịnh giới rồi lại làm cho họ hồi hướng trí nhất thiết trí. Mới có thể gọi là bậc thầy khéo léo giáo hóa các thiện nam, thiện nữ v.v...

Nếu các Bồ-tát dạy dỗ, giáo huấn bậc Thanh văn thừa, khiến họ siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, hồi hướng cầu trí nhất thiết trí, thì các Bồ-tát này hơn bậc Thanh văn thừa. Nếu bậc Thanh văn mà dạy dỗ, giáo huấn vị Bồ-tát thừa, khiến vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, hồi hướng cầu trí nhất thiết trí, thì bậc Thanh văn này không hơn vị Bồ-tát, mà là Bồ-tát hơn vị kia. Như có người nam cõng người vàng ròng đi đến nước xa xôi khác, thì dung mạo ánh sáng người vàng này hơn người nam kia.

Như vậy, giả sửhằng hà sa số bậc Thanh văn thừa dạy dỗ, giáo huấn vị Bồ-tát thừa, làm cho vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì một vị Bồ-tát này hơn tất cả bậc Thanh văn kia. Lại cũng như người nam cõng người thủy tinh đến nước xa xôi khác. Dung mạo ánh sáng của người thủy tinh này hơn người nam kia. Cũng vậy, có hằng hà sa số Thanh văn thừa ở ngàn đại thiên thế giới dạy dỗ, giáo huấn vị Bồ-tát, làm cho vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì một vị Bồ-tát này hơn tất cả bậc Thanh văn kia. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các bậc Thanh văn từng giờ, từng giờ dạy dỗ, giáo huấn một vị Bồ-tát, thì từng lúc, từng lúc vị Bồ-tát này hơn hẳn tất cả bậc Thanh văn.

Giả sử trải qua hằng hà sa số kiếp trụ ở bậc Thanh văn, dạy dỗ, giáo huấn một vị Bồ-tát, làm cho vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì thiện căn công đức của một vị Bồ-tát này ngày đêm được tăng trưởng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như vàng ròng được tinh luyện nhiều lần thì màu sắc của nó ngày càng sáng. Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ các chúng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát càng được trong sáng. Từng giờ, từng giờ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát càng được trong sáng. Từng lúc, từng lúc công đức của Bồ-tát càng hơn công đức của tất cả Thanh văn. Bởi vì công đức của Thanh văn chỉ hồi hướng Niết-bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như ngọc Lưu ly, từng giờ, từng giờ được người thợ mài dũa. Từng lúc, từng lúc ánh sáng càng trong suốt. Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ các chúng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, khiến cho vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát được trong sáng. Từng giờ, từng giờ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát được trong sáng. Từng lúc, từng lúc công đức của Bồ-tát càng hơn công đức của tất cả Thanh văn thừa. Bởi vì công đức của Thanh văn chỉ hồi hướng Niết-bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như người họa sĩ giỏi, dùng các màu vẽ hình người. Trước tiên lấy một màu vẽ làm chuẩn, sau đó tô lấp nhiều màu khác lên. Từng giờ, từng giờ dùng các màu dần dần tô lấp vào, Từng lúc, từng lúc dung mạo hình sắc càng đẹp hơn họa sĩ kia gấp trăm ngàn lần. Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ các chúng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, khiến cho vị ấy siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát được trong sáng. Từng giờ, từng giờ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát được trong sáng. Từng lúc, từng lúc công đức của Bồ-tát hơn công đức của tất cả Thanh văn. Bởi vì công đức của Thanh văn chỉ hồi hướng Niết-bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Nhưng Bồ-tát này nhờ sự dạy dỗ, giáo huấn của các Thanh văn, nên các công đức thiện căn của sự tu hành ngày đêm được tăng trưởng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như có người trồng cây tùy lúc, tưới, bón, chăm sóc, sửa sang. Từng giờ, từng giờ tưới, bón, chăm sóc, sửa sang cây đó. Từng lúc, từng lúc cây đó lớn nhanh, dần dần cao lớn. Bồ-tát cũng vậy, được vô lượng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Bồ-tát này, từng giờ, từng giờ được vô lượng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát lần lượt được tăng trưởng. Từng giờ, từng giờ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát lần lượt được tăng trưởng. Từng lúc, từng lúc Bồ-tát hơn hẳn tất cả Thanh văn, Độc giác. Tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát càng được trong sáng, càng được hưng thạnh, dần dần thân cận với bổn nguyện cầu trí nhất thiết trí. Bởi vì Bồ-tát này hơn hẳn Thanh văn, Độc giác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như có người đem lửa nhỏ đốt cây cỏ khô. Từng giờ, từng giờ lửa bén vào cây cỏ. Từng lúc, từng lúc lửa dần dần bốc cháy lan rộng. Từng giờ, từng giờ lửa dần dần bốc cháy lan rộng. Từng lúc, từng lúc ngọn lửa phát triển càng lớn, lần lần chiếu sáng nhiều do-tuần, rồi đến hơn trăm, hơn ngàn, cho đến vô lượng do-tuần. Bồ-tát cũng vậy, được vô lượng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng giờ, từng giờ, Bồ-tát này được vô lượng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát dần dần được trong sáng hưng thạnh. Từng giờ, từng giờ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát dần dần được trong sáng hưng thạnh. Khi ấy, công đức của Bồ-tát hơn vô lượng công đức dạy dỗ, giáo huấn của Thanh văn thừa. Bởi vì công đức của Thanh văn chỉ hồi hướng Niết-bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như có người đào mỏ lấy vàng, lấy rồi đem bán sẽ được giá trị quý hơn gấp trăm ngàn lần người bán kia. Bồ-tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ, được vô lượng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát hơn gấp trăm ngàn lần công đức của Thanh văn kia. Vì công đức kia chỉ hồi hướng Niết-bàn, không cầu hướng đến trí nhất thiết trí. Tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát quyết định cầu trí nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử nói với Xá-lợi Tử:

- Bồ-tát thành tựu diệu pháp rộng lớn. Nghĩa là các Bồ-tát được bậc Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Các Bồ-tát này hơn bậc Thanh văn thừa. Nếu bậc Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn vị Bồ-tát thừa làm cho siêng năng tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, rồi Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì bậc Thanh văn này không hơn vị Bồ-tát kia. Chỉ có Bồ-tát hơn Thanh văn kia.

Xá-lợi Tử liền đáp với cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Bồ-tát thành tựu diệu pháp rộng lớn hơn hẳn Độc giác và các Thanh văn.

Quyển thứ 884
HẾT

 

02

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại nói với Mãn Từ Tử:

- Nếu các Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa thấy có một ít pháp gọi là tác giả, thì nên biết tuy trụ ở trong pháp Bồ-tát nhưng gọi là xả bỏ các pháp Bồ-tát. Đây là Bồ-tát tác ý phi lý. Nếu khởi tác ý phi lý như vậy, nên biết gọi là Bồ-tát phạm giới.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát không thấy một ít pháp gọi là tác giả, thì các Bồ-tát này thọ trì tịnh giới Ba-la-mật-đa không có sự vi phạm. Vậy pháp gì đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát này là lợi ích là tổn giảm?

Xá-lợi Tử đáp:

- Không có pháp nào đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát này là lợi ích là tổn giảm. Nếu thấy một ít pháp đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này là lợi ích là tổn giảm, thì nên biết là Bồ-tát chấp thủ tịnh giới. Nếu các Bồ-tát thấy có một ít pháp đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa này cho là lợi ích là tổn giảm, thì các Bồ-tát này không hộ trì được tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát không thấy có ít pháp gọi là tác giả, thì các Bồ-tát này hộ trì đúng tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát thọ trì tịnh giới, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì mới gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát thọ trì tịnh giới mà không hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì nên biết giới này tuy đắc nhưng gọi là chẳng phải tịnh giới Ba-la-mật-đa, hoặc cầu quả nhị thừa thế gian.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tùy theo sự hành bố thí, đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với trí nhất thiết trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tùy theo sự hộ trì giới, đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với trí nhất thiết trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát bị các hữu tình đánh, hoặc mắng, hoặc phỉ báng, lăng nhục, khinh chê v.v…, tùy theo sự tu hành an nhẫn đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với trí nhất thiết trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát vì muốn cứu vớt tất cả hữu tình thoát khỏi các khổ não sanh tử nơi đường ác, thường hành tinh tấn, đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với trí nhất thiết trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tu tĩnh lự lại suy nghĩ: Ta phải phát khởi tĩnh lự thù thắng, do đấy phát khởi thần thông thù thắng, biết tâm hành sai khác của các hữu tình, nên thuyết giảng trao truyền thuốc pháp, giúp họ thoát các khổ sanh tử nơi đường ác. Lại vì điều hoà phiền não thân tâm, làm phước điền thanh tịnh cho loài hữu tình, kham nhận, phát trí nhất thiết trí. Suy nghĩ như vậy, tu tĩnh lự tất cả đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với trí nhất thiết trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tùy theo sự tu hành trí huệ vi diệu thậm thâm đều vì đối với pháp mà xa lìa điên đảo, được các thiện xảo, nghĩa là uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo, đế thiện xảo, duyên khởi thiện xảo, thị xứ phi xứ thiện xảo.

Thế nào gọi là thiện xảo đối với uẩn?

Nghĩa là các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc uẩn. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc uẩn đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc uẩn. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc uẩn đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Thế nào gọi là thiện xảo đối với giới?

Nghĩa là các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn giới. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn giới. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn giới xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc giới. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc giới. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc giới xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn thức giới. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn thức giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn thức giới. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn thức giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn thức giới xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xúc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xúc đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xúc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xúc đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xúc xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu địa giới. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không thức giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu địa giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu địa giới. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu địa giới đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không thức giới vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không thức giới có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không thức giới có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa giới xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức giới xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với giới.

Thế nào gọi là thiện xảo đối với xứ?

Nghĩa là các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xứ. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xứ. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc xứ. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc xứ. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Thế nào thiện xảo đối với đế?

Nghĩa là các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Quyển thứ 585
HẾT

03

Thế nào gọi là thiện xảo đối với duyên khởi?

Nghĩa là các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhân duyên. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và từ các duyên sanh ra các pháp. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhân duyên đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhân duyên. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhân duyên đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu vô minh. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu vô minh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu vô minh. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu vô minh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Thế nào gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ?

Nghĩa là các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu thị xứ. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu phi xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu thị xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu phi xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu thị xứ. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu phi xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu thị xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu phi xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Như vậy, Bồ-tát đối với các uẩn phải khéo léo tu hành. Do khéo léo nên thuyết pháp cho các hữu tình, giúp họ dứt hẳn các tưởng hữu tình. Bồ-tát khởi tâm thù thắng như vậy là lợi mình và lợi người, tu các trí tuệ vi diệu, tất cả đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với trí nhất thiết trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ-tát, đầy đủ tịnh giới vô thượng. Nếu các Bồ-tát muốn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải siêng năng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát dùng sáu Ba-la-mật-đa này, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, thì các Bồ-tát này do tịnh giới đây nên thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Độc giác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Một Bồ-tát giới mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả hữu tình đều đã thành tựu mười thiện nghiệp đạo, thì Bồ-tát giới hơn giới kia gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp vô số lần lần.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đầy đủ mười nghiệp thiện đạo, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đầy đủ năm thần thông trước, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều an trụ đầy đủ từ, bi, hỷ, xả, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đầy đủ tùy thuận nhẫn Không, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đầy đủ thuận nhẫn vô tướng, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đầy đủ tùy thuận nhẫn vô nguyện, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đầy đủ pháp của bậc đệ bát, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ-tát mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử lại thưa với Xá-lợi Tử:

- Nay tôi muốn hỏi Tôn giả, có bao nhiêu nghĩa thú ở đệ bát địa, xin Tôn giả hứa khả, vì tôi giải thích nghĩa thú này.

Xá-lợi Tử đáp:

- Tùy theo ý của ngài hỏi điều gì, tôi sẽ theo đó mà giải thích.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận sắc uẩn là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa sắc uẩn là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận thọ, tưởng, hành, thức uẩn là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhãn xứ là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhãn xứ là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận sắc xứ là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa sắc xứ là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhãn giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhãn giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận sắc giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa sắc giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhãn thức giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhãn thức giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhãn xúc là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhãn xúc là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận địa giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa địa giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì thân cận thủy, hỏa, phong, không, thức giới là đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì xa lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới là có đệ bát địa sao?

Xá-lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Nếu vậy, Tôn giả nói những pháp nào là đệ bát địa? Làm sao để tôi hiểu rõ được cái nghĩa thú của Tôn giả nói mà thọ trì đúng lý?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu trong tánh bình đẳng của các pháp, dùng trí như thật biết tánh bình đẳng nên chứng tánh bình đẳng. Do trí này nên sự làm đã dứt. Ở trong này tôi không thấy đệ bát địa, cũng lại không thấy biết trí bình đẳng. Trong đây không có ngã, không có ngã sở. Sao lại ở trong đó mà có thể hỏi liên tiếp vậy.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Vì sao lời nói trước sau của Tôn giả đều trái ngược vậy. Nghĩa là lời nói trước là tất cả tịnh giới đệ bát địa, đối với một giới Bồ-tát khi mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một. Nay lại nói ta ở trong đó hoàn toàn không thấy có đệ bát địa và trí.

Xá-lợi Tử đáp:

- Lời nói trước của tôi là vì người mới học, không vì người đã nhập tánh bình đẳng. Lời nói trước của tôi là muốn khiến cho hữu tình vào chánh pháp, không vì người đã nhập tánh bình đẳng. Lời nói trước của tôi là vì muốn hữu tình biết Đại thừa, tu hành vượt qua nhị thừa, không thuyết thật tánh bình đẳng của các pháp. Lời nói trước của tôi là muốn hữu tình hiểu rõ như thật về sự thù thắng của Phật thừa, Đại thừatịnh giới, cho nên nói như vầy: Giả sử tất cả hữu tìnhthế gian đều thành tựu đệ bát địa, người kia có được tịnh giới nhưng đối với một giới Bồ-tát khi mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một. Chứ không thuyết thật tánh bình đẳng của các pháp, xa lìa ngã và ngã sở. Sao lại trái ngược nhau.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả tịnh giới của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, và Độc giác đối với một giới Bồ-tát khi mới phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các Bồ-tát, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Cụ thọ nên biết! Có những người muốn làm cho tịnh giới của Thanh văn, Độc giác hơn giới Bồ-tát, là vì muốn làm cho tịnh giới Thanh văn, Độc giác hơn giới Như Lai. Nên biết, người kia muốn tranh đua hơn thua với Như Lai. Ví như có người tranh giành với Vương tử. Nên biết, người kia muốn tranh giành với vua. Như vậy nếu có người muốn làm cho tịnh giới Thanh văn, Độc giác hơn giới Bồ-tát, là vì muốn làm cho tịnh giới của Thanh văn, Độc giác hơn giới Như Lai. Nên biết, người kia muốn tranh giành hơn thua với Như Lai. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì không thể hơn pháp của các Bồ-tát được, cho nên Bồ-tát là chơn pháp vương tử.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví có người không tay, không chân mà lại nói như vầy: “Tôi muốn bơi qua bờ biển bên kia.”

Lời nói kia hư dối không thật, bởi vì tăng thượng mạn nên nói như thế. Như vậy nếu có Thanh văn, Độc giác nói như vầy: “Giới của ta hơn giới Bồ-tát.”

Nên biết, lời nói kia hoàn toàn không thật. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì công đức Bồ-tát ví như biển lớn, người ngu kia thật sự không có tay chân mà lại nói ta bơi qua khỏi biển lớn. Như vậy, có người chỉ đến nhị thừa, thật sự không có công đức thù thắng của Bồ-tát, nhưng lại nói ta thù thắng hơn tịnh giới Bồ-tát. Điều này không thể có. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tịnh giới Bồ-tát không có ngằn mé.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Do nhân duyên gì mà nói tịnh giới Bồ-tát không có ngằn mé?

Xá-lợi Tử đáp:

- Do tịnh giới Bồ-tát giải thoát vô lượng hữu tình phạm giới ác. An lập vô lượng hữu tình giữ giới thanh tịnh.

Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Tôn giả đã nói người phạm giới ác là khái niệm thế nào?

Xá-lợi Tử đáp:

- Chấp ngã, ngã sở và các phiền não khác gọi là phạm giới ác. Nghĩa là nắm giữ tưởng hoặc tưởng ngã, tưởng hữu tình, tưởng sanh mạng, tưởng sự sống, tưởng sự nuôi dưỡng, tưởng sĩ phu, tưởng chúng sanh, tưởng có, tưởng không. Các tưởng như vậy và các phiền não khác là khái niệm về phạm giới ác. Sự hiển lộ tịnh giới Bồ-tát có thể giải thoát vô lượng hữu tình. Như vậy là đã nói phạm giới ác, số lượng không ngằn mé.

Lại nữa, tịnh giới của các Bồ-tát làm an lập vô lượng hữu tình, khiến trụ tịnh giới là Bồ-tát an trụ sự đắc tịnh giới Đại thừa, số lượng không ngằn mé. Thanh văn, Độc giác đều không bằng, thù thắng hơn tịnh giới Thanh văn, Độc giác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, nghĩa là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Vì sao tịnh giới hữu lậu của Bồ-tát hơn tịnh giới vô lậu của nhị thừa?

Xá-lợi Tử đáp:

- Vì tịnh giới vô lậu của Thanh văn, Độc giác chỉ cầu tự lợi, hồi hướng Niết-bàn. Tịnh giới Bồ-tát vì độ thoát vô lượng hữu tình, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, tịnh giới hữu lậu của Bồ-tát hơn tịnh giới vô lậu của nhị thừa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu tâm các Bồ-tát phát khởi tịnh giớiphân biệt giới hạn khi lợi ích hữu tình, thì sự phát khởi tịnh giới của các Bồ-tát này không hơn được tịnh giới vô lậu của nhị thừa, không gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Nhưng nếu tâm các Bồ-tát không có phân biệt, giới hạn, chỉ vì độ thoát vô lượng hữu tình, cầu đại Bồ-đề nên phát khởi tịnh giới, thì sự phát khởi tịnh giới của Bồ-tát này hơn hẳn tịnh giới vô lậu của nhị thừa, gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như mặt trời mọc phóng ra ánh sáng lớn, làm ánh sáng của lửa đom đóm đều chìm mất. Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa cũng vậy, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, hơn hẳn tịnh giới của tất cả Thanh văn, Độc giác hồi hướng Niết-bàn.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như mặt trăng xuất hiện chiếu ánh sáng lớn, khiến ánh sáng các ngôi sao đều bị lu mờ. Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa cũng vậy, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, hơn hẳn tịnh giới của tất cả Thanh văn, Độc giác hồi hướng Niết-bàn.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Khi Bồ-tát nhớ nghĩ về Như Lai, hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, do khởi tâm lực tương ưng thù thắng, nên được tịnh giới Ba-la-mật-đa. Bấy giờ, gọi là hành tự hành xứ hơn tất cả Thanh văn, Độc giác.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu Bồ-tát không hiện khởi tâm trí nhất thiết, thì khi ấy Bồ-tát gọi là gì?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu Bồ-tát không hiện khởi tâm trí nhất thiết, thì khi ấy Bồ-tát gọi là tâm vô ký an trụ liên tục. Lúc đó, Bồ-tát này gọi là đầy đủ giới Bồ-tát, đối với giới Bồ-tát chưa gọi là hủy phạm, không gọi là xả bỏ tịnh giới Bồ-tát. Nếu khi Bồ-tát không hiện khởi tâm trí nhất thiết, mà Bồ-tát hồi hướng Thanh văn hoặc Độc giác, thì khi ấy Bồ-tát xả bỏ Bồ-tát địa, mất tự hành xứ. Nếu các Bồ-tát bất kỳ khi nào hồi hướng địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, thì khi ấy các Bồ-tát này đối với Vô thượng thừa gọi là chết. Tuy chẳng phải là chết thật nhưng cũng gọi là chết. Như thầy huyễn thuật hoặc đệ tử, nắm tay một bé nhỏ dẫn lên cầu thang cao, nhà ảo thuật cắt thân thể ra từng phần vứt xuống. Khi đó mọi người đều nói đứa bé kia đã chết, thương xót buồn khóc, sanh khổ não lớn: “Đứa bé này bỗng dưng chết mất, thân thuộc chúng tôi làm sao thấy lại!?” Bồ-tát cũng vậy, bỏ đại Bồ-đề thối lui an trụ địa vị Thanh văn, Độc giác, mất trí nhất thiết nên biết như là chết. Cũng như đứa bé kia tuy không chết nhưng thân thuộc lại tưởng chết.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ý thầy thế nào? Tịnh giới Bồ-tát cùng với tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác có khác nhau không?

Mãn Từ Tử đáp:

- Các giới như vậy, pháp tánh chơn như thật không khác nhau.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Các giới như vậy, pháp tánh, chơn như tuy không khác nhau, nhưng cũng có tướng khác nhau. Tướng khác nhau đó nên nói thế nào?

Mãn Từ Tử đáp:

- Như các Bồ-tát cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Phàm phu, Thanh văn, Độc giác không như vậy. Như vậy tịnh giới của Bồ-tát cùng với các giới kia nói có khác nhau.

Xá-lợi Tử nói:

- Bởi vì tịnh giới của Bồ-tát hơn tịnh giới của các phàm phu, Thanh văn, Độc giác. Nghĩa là giới Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Giới khác không như vậy, nên nói là khác nhau. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tịnh giới Bồ-tát hơn ba ngàn đại thiên thế giớivô lượng, vô biên hữu tình. Trừ tịnh giới của Phật Thế Tôn, đối với tịnh giới khác là đệ nhất tối thắng. Vì sao? Vì tịnh giới Bồ-tát đưa vô lượng, vô biên hữu tình giải thoát sanh tử và các đường ác. Do nhân duyên này nên tịnh giới Bồ-tát đối với tịnh giới của các phàm phu, Thanh văn, Độc giác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như núi Tuyết Sơn đầy đủ sự hùng vĩ của ngọn núi. Các núi khác không bằng. Nếu núi nào đầy đủ sự hùng vĩ đều được gọi là núi chúa, nếu không đủ sự hùng vĩ thì không được đặt tên là núi chúa. Tịnh giới của Bồ-tát cũng vậy, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xa lìa cầu trí nhất thiết trí, gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa. Tịnh giới của Độc giác, Thanh văn, phàm phu không muốn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, xa lìa sự cầu trí nhất thiết trí, không gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tịnh giới của các Bồ-tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Do nhân duyên gì mà tịnh giới của chúng Đại Bồ-tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác?

Xá-lợi Tử đáp:

- Tịnh giới Bồ-tát hơn hẳn là vì lợi lạc tất cả hữu tình, hồi hướng cầu trí nhất thiết trí. Phàm phu, Thanh văn, Độc giác không có như vậy. Cho nên tịnh giới Bồ-tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác.

Mãn Từ Tử khen ngợi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng thật như lời Tôn giả nói. Khen ngợi tịnh giới Bồ-tát như thế, làm cho Bồ-tát càng siêng năng tinh tấn, thọ trì tịnh giới Bồ-tát. Tôn giả nhất định phải nương thần lực của Phật mà nói tịnh giới của các Bồ-tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác.

Lúc bấy giờ, Phật bảo A-nan-đà:

- Thầy nên thọ trì giáo pháp tương ưng với tịnh giới Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát, đúng như lời diễn thuyết của Xá-lợi Tử và Mãn Từ Tử. Diễn thuyết như vậy chắc chắn không hư dối. Giả sử có người đem núi Diệu Cao bay lên cõi Phạm Thế, rồi gieo xuống dưới, người kia gieo rồi phát lời thành thật chắc chắn:

“Nếu giới Bồ-tát hơn các tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác thì hãy làm cho núi Diệu Cao trụ ở trong hư không.”

Nói rồi liền trụ chắc chắn không rơi xuống. Vì sao? A-nan-đà! Vì trừ giới của Như Lai ra, chỉ có giới của các Bồ-tát đối với tịnh giới khác hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nhờ thần lực của Phật, thấy cách cõi Phật này có một cõi Phật ở phương Đông quá trăm ngàn cõi, trong ấy hiện có Như Laivô lượng trời, người tuyên thuyết chánh pháp.

Bấy giờ, Phật hỏi Xá-lợi Tử:

- Thầy thấy quá trăm ngàn cõi ở phương Đông có một cõi Phật, hiện có Như Laivô lượng chúng thuyết chánh pháp phải không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy, nhưng chưa biết vị Phật ở cõi kia hiệu là gì?

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Thế giới Phật kia tên là Minh Đăng. Trong ấy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp hiệu là Nguyệt Quang. Vị Phật ấy có một đệ tử Thanh văn tên là Hữu Đảnh, có thần thông đệ nhất, dùng sức thần thông qua lại thế giới khác, dùng tay phải nắm lấy núi Diệu Cao, bay lên cõi Phạm Thế rồi thả xuống. Vị kia vừa thả xuống rồi, phát ra lời thành thật chắc chắn: “Trừ giới của Như Lai ra, chỉ có giới Bồ-tát đối với tịnh giới khác hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.” Lời nói như thế không có hư dối, làm cho núi này trụ ở giữa hư không. Nói rồi liền thấy trụ lại, không bị rơi xuống.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Thầy lại thấy núi Diệu Cao kia trụ giữa hư không chẳng bị rớt xuống phải không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con thấy vậy.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Núi kia trụ ở hư không là do nương vào tịnh giới của Bồ-tát. Trừ giới của Như Lai ra, phát lời thành thật chắc chắn hơn giới của phàm phu, Thanh văn v.v... Cho nên Ta nói nhất định không hư dối. Đệ tử Thanh văn trong chúng của Phật kia, bằng sức thần thông qua lại thế giới khác, dùng tay phải nắm lấy núi Diệu Cao bay để trên cõi Phạm Thế rồi thả rớt xuống. Thả rồi lại phát ra lời thành thật chắc chắn. Nói rồi núi kia liền trụ giữa hư không, là chứng tỏ lời Ta nói nhất định không hư dối. Khi đệ tử Thanh văn của Như Lai kia nương vào giới Bồ-tát mà phát lời thành thật, chắc chắn làm cho núi kia trở về lại chỗ cũ.

Xá-lợi Tử thấy rồi liền khen ngợi:

- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ. Giới các Bồ-tát phát ra lời thành thật oai lực khó nghĩ, tất cả thế gian không ai sánh bằng.

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu có người muốn hơn giới Bồ-tát, nên biết người kia muốn hơn giới Như Lai. Vì sao? Vì trừ giới Như Lai ra không có giới nào hơn giới Bồ-tát. Nếu tu tịnh giới Bồ-tát viên mãn, tức gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thế nên giới Bồ-tát là thù thắng hơn.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Khó có người thối lui tịnh giới phải không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nhất định không có Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát rồi lại còn có thối chuyển. Nếu có thối chuyển thì chẳng phải Bồ-tát. Như người bắn tên giỏi, nếu bắn mũi tên không trúng đích, thì nên biết người kia không phải là người bắn tên giỏi. Bồ-tát cũng vậy, nếu không phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí, tuy siêng năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng không hồi hướng trí nhất thiết trí thì nên biết, người kia không đầy đủ giới Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát tu các công đức không biết làm thế nào để hồi hướng trí nhất thiết trí, thì nên duyên nơi công đức của Thanh văn, Độc giác nói là sự cầu trí nhất thiết trí. Nên biết, những vị kia, do đó cũng được gọi là đầy đủ giới Bồ-tát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì vị kia không có phương tiện thiện xảo của Bồ-tát, không hiểu được hồi hướng trí nhất thiết trí, duyên nơi công đức của hàng nhị thừa, cho là sự cầu trí nhất thiết trí. Trong lòng ưa thích không làm tổn hại, nên cũng gọi là đầy đủ giới Bồ-tát. Vậy, trì giới Bồ-tát, do có hồi hướng trí nhất thiết trí nên được gọi là trì giới Bồ-tát, hộ trì tịnh giới Ba-la-mật-đa. Người kia, về sau nếu gặp bạn lành, duyên nơi trí nhất thiết trí, chơn thật hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhất định sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí.

Quyển thứ 586
HẾT

04

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Có hai Bồ-tát đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Bồ-tát thứ nhất có phương tiện thiện xảo nên mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Bồ-tát thứ hai không có phương tiện thiện xảo nên chậm chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cụ thọ nên biết! Thà làm Bồ-tát chậm chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mà không rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác. Nếu các Bồ-tát mau cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì trong đây nên biết có hai việc xảy ra:

Một là, nếu khôngphương tiện thiện xảo mà liền chứng thật tế sẽ rơi vào nhị thừa.

Hai là, nếu có phương tiện khéo léo, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng như trong nhà lửa có nhiều châu báu, có người muốn vào trong nhà này lấy châu báu. Bấy giờ, có hai điều xảy ra đối với người kia:

Một là, nếu khôngphương tiện khéo léo sẽ chết trong nhà lửa.

Hai là, nếu có phương tiện khéo léo thì lấy được vật báu đem ra.

Bồ-tát cầu mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng vậy. Nên biết, trong đây có hai việc xảy ra:

Một là, nếu khôngphương tiện khéo léo liền chứng thật tế, rơi vào nhị thừa như bị chết trong nhà lửa.

Hai là, nếu có phương tiện khéo léo mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, như người cầm vật báu đi ra.

Vì vậy, nên biết thà là Bồ-tát chậm chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không vì cầu mau chứng để khỏi rơi vào nhị thừa.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Mau chứng thật tế chẳng phải là phương tiện thiện xảo của Bồ-tát. Vì sao? Vì rơi vào nhị thừa chẳng phải là nhân đẳng lưu của phương tiện thiện xảo, mà là quả đẳng lưu của không có phương tiện thiện xảo, nên thối thất sự cầu đại Bồ-đề, vì Bồ-tát cầu đại Bồ-đề, lợi ích hữu tình, không cầu thật tế, nên chứng thật tế thì chẳng phải là quả thiện xảo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta hành bố thí còn Bồ-tát khác không hành, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là bố thí Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta giữ giới còn Bồ-tát khác không giữ, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu nhẫn nhục còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu tinh tấn còn các Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu thiền định còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là tĩnh lự Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu trí huệ còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta hành pháp nội Không còn Bồ-tát không hành, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không hành được rốt ráo pháp nội Không.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta hành pháp ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không, còn các Bồ-tát khác không hành, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không hành rốt ráo pháp ngoại Không, cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta quán vô minh còn Bồ-tát khác không quán, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không quán rốt ráo vô minh.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, còn Bồ-tát khác không quán, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không quán rốt ráo hành cho đến lão tử.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta quán Thánh đế khổ còn Bồ-tát khác không quán, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không quán rốt ráo Thánh đế khổ.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta quán Thánh đế tập, diệt, đạo, còn Bồ-tát khác không quán, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không quán rốt ráo Thánh đế tập, diệt, đạo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành bốn tĩnh lự còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn tĩnh lự.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành bốn niệm trụ, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn niệm trụ.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, còn các Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành pháp môn giải thoát Không, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn pháp môn giải thoát Không.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tám giải thoát, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tám giải thoát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành trí Tịnh quán địa, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn trí Tịnh quán địa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành trí Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn trí Chủng tánh địa cho đến Như Lai địa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành Cực hỷ địa, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn Cực hỷ địa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa, còn các Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tất cả môn Đà-la-ni.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành năm loại mắt, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn năm loại mắt.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành sáu phép thần thông, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn sáu phép thần thông.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành mười lực của Như Lai, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn mười lực của Như Lai.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn điều không sợ, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành ba mươi hai tướng còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn ba mươi hai tướng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tám mươi vẻ đẹp, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tám mươi vẻ đẹp.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành pháp không quên mất, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn pháp không quên mất.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tánh luôn luôn xả, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tánh luôn luôn xả.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành trí nhất thiết, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn trí nhất thiết.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, còn Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, còn Bồ-tát khác thì không, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta giáo hóa hữu tình, còn Bồ-tát khác không giáo hóa, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn giáo hóa hữu tình.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tùy hỷ các công đức của người khác, còn Bồ-tát khác không tuỳ hỷ, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn tùy hỷ các công đức của người khác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta hồi hướng trí nhất thiết trí, còn Bồ-tát khác không hồi hướng, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn hồi hướng trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta có thể đem một bữa ăn bố thí, công đức đạt được hơn tất cả công đức của Bồ-tát đã trải qua hằng hà sa số đại kiếp bỏ ngôi Chuyển luân vương, bố thí thức ăn, nước uống thượng diệu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu hành viên mãn bố thí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta nhất tâm tu tập các công đức, hơn hẳn Bồ-tát khác trụ hằng hà sa số đại kiếp tu tập các công đức, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu tập viên mãn các công đức.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát suy nghĩ, ta tu hành phương tiện thiện xảo, còn các Bồ-tát khác không tu, thì các Bồ-tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn phương tiện thiện xảo.

Cụ thọ nên biết! Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo tu tập các công đức, mà khởi lên những suy nghĩ như vậy, thì nên biết vị kia không có phương tiện thiện xảo. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì Bồ-tát không nên muốn hơn Bồ-tát. Bồ-tát không nên khinh mạn Bồ-tát. Bồ-tát không nên chiến thắng Bồ-tát. Bồ-tát đối với các Bồ-tát khác phải cúng dường, cung kính, như cúng dường, cung kính Như Lai.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Bồ-tát chỉ nên cung kính Bồ-tát hay phải cung kính các hữu tình khác nữa?

Xá-lợi Tử đáp:

- Các Bồ-tát nên cung kính tất cả hữu tình. Nghĩa là các Bồ-tát phải cung kính như cung kính Như Lai, như vậy cũng phải cung kính Bồ-tát khác. Nếu như cung kính Bồ-tát thì cũng nên cung kính hữu tình, tâm không khác nhau. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ-tát đối với các hữu tình tâm phải khiêm hạ, phải thật cung kính, hòa hợp tự tại, và nên xa lìa kiêu mạn. Như vậy Bồ-tát đối với các hữu tình, tâm rất cung kính như cung kính Phật và Bồ-tát. Bồ-tát nên nghĩ như vầy: Khi ta chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phải vì hữu tình thuyết giảng chánh pháp sâu xa, làm cho họ dứt trừ phiền não được nhập Niết-bàn, hoặc được cứu cánh an lạc Bồ-đề, hoặc giúp giải thoát các đường ác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như vậy Bồ-tát đối với hữu tình phải khởi tâm từ bi, tâm xa lìa kiêu mạn. Nghĩ như vầy: Ta nên tu học phương tiện thiện xảo, làm cho tất cả hữu tình đều được tánh thù thắng đệ nhất. Vì sao? Vì tánh đệ nhất gọi là Phật tánh. Ta nên dùng phương tiện để các hữu tình đều được thành Phật. Như vậy Bồ-tát đối với hữu tình đều khởi tâm từ bi, muốn tất cả hữu tình đều ở ngôi vị Pháp vương. Ngôi vị Pháp vương này tối thắng, tối tôn, nên hữu tình đối với pháp đều được tự tại. Vì vậy, Đại Bồ-tát phải cung kính khắp tất cả hữu tình. Trải lòng từ cùng khắp không một chỗ nào thiếu, vì pháp thân Như Lai biến khắp tất cả.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Tại sao Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Ta phải cung kính tất cả hữu tình. Ta chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rồi nên dạy dỗ, trao truyền cho tất cả hữu tình đều chứng đắc tánh tối thắng đệ nhất. Tất cả đều được ở ngôi vị Pháp vương.

Ví như nhà ảo thuật hoặc đệ tử vị ấy, ở ngã tư đường hóa làm đại vương và bốn thứ quân mạnh mẽ khó địch nổi. Vua huyễn trong đây không nghĩ: Nay, ta đầy đủ bốn loại quân hùng dũng, thế lực khó địch. Bốn loại quân huyễn cũng không nghĩ: Tất cả chúng ta đều thuộc quyền của đại vương, tùy ý đại vương điều khiển. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả trong đây, vua hay quân đều chẳng phải thật có, hoàn toàn không tự tánh. Thật có tự tánh thì đều không bị lệ thuộc. Cũng như Thế Tôn thuyết các pháp như huyễn. Tất cả hữu tình cũng lại như vậy, đều như huyễn. Vậy thì ai cung kính ai. Ai lại có thể làm cho ai được tánh đệ nhất, ở ngôi vị Pháp vương thuyết những pháp gì?

Xá-lợi Tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Hữu tình và tất cả pháp đều như huyễn. Nên biết trong đây Bồ-tát như huyễn; cung kính tất cả hữu tình như huyễn; dùng phương tiện khéo léo dạy dỗ, trao truyền làm cho được Phật tánh đệ nhất như huyễn; ở ngôi vị Pháp vương thuyết pháp như huyễn. Mặc dù các Bồ-tát nghĩ như vậy, nhưng trong đó hoàn toàn không có sở chấp, nếu các Bồ-tát đối với trong các pháp, còn có một chút sở kiến thì các Bồ-tát này chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu khi Bồ-tát đối với trong các pháp hoàn toàn không sở kiến, thì Bồ-tát này không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, tuy hành tinh tấn Ba-la-mật-đa giáo hóa hữu tình làm cho được thành Phật, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không sở kiến. Nghĩa là không thấy thật có một chút pháp tánh có thể khiến người khác được tánh đệ nhất. Cũng không thấy thật có một chút pháp tánh nào có thể làm cho người khác ở ngôi vị Pháp vương. Tuy không sở kiến nhưng không thối chuyển.

Nên biết, Bồ-tát mặc áo giáp, đội mũ tinh tấn, hoàn toàn không sở chấp. Nghĩa là các Bồ-tát biết ngôi vị Pháp vương chỉ là huyễn, hoàn toàn không thật có nhưng vẫn siêng năng cần cầu, không thối chuyển. Dù siêng năng tinh tấn cầu quả Phật, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không sở kiến. Tuy không sở kiến nhưng không thối chuyển. Bồ-tát như vậy tuy biết trời, người, A-tu-la v.v... đều hư hoại, nhưng đối với trong đó không tưởng hư hoại, vì hiểu tất cả đều như huyễn. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn vì hữu tình thuyết pháp tịch tĩnh. Nghĩa là mặc dù tuyên thuyết về tên gọi, văn cú, chữ nghĩa, phương tiện của tất cả pháp tánh, nhưng bổn tánh của pháp hoàn toàn bất khả thuyết.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả pháp tánh bất khả hiển thị, bất khả tuyên thuyết. Khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ-đề, tuy vì hữu tình thuyết tánh các pháp nhưng lại suy nghĩ: Ta đối với sự giác ngộ hoàn toàn vô sở đắc, cũng thường đối với pháp khônghữu tình mà có sự tuyên thuyết. Ta tuy chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng Bồ-đề này thật không thể chứng. Ta tuy tuyên thuyết tánh tất cả pháp, nhưng tánh các pháp thật không thể thuyết. Năng thuyết, sở thuyết hoàn toàn không tự tánh. Năng chứng, sở chứng cũng không thể đắc. Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các pháp không nên chấp trước. Tuy không chấp trước nhưng không thối chuyển. Do không thối chuyển nên tâm không bị chìm đắm. Do không bị chìm đắm nên giữ gìn sự tinh tấn. Đây gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Lại dùng tinh tấn Ba-la-mật-đa, hồi hướng cầu trí nhất thiết trí, viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa, lại dùng tịnh giới Ba-la-mật-đa hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, làm cho tịnh giới Ba-la-mật-đa này thêm thù thắng, thêm tăng thượng, thêm sáng tỏ, thêm thanh tịnh. Bồ-tát tu học tịnh giới Ba-la-mật-đa như vậy, mau được viên mãn tăng thượng, thù thắng, sáng tỏ, thanh tịnh, đều do Bồ-tát hồi hướng cầu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp đều như huyễn, hoàn toàn không thật có, thì tại sao Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí mà được thành lập?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nếu tất cả pháp chỉ có một chút phần thật có, chẳng phải việc như huyễn, thì các Bồ-tát hoàn toàn không hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Vì tất cả pháp không có một chút phần thật có, đều như huyễn cho nên các Bồ-tát hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí. Bồ-tát như vậy là có sự kham nhẫn, có thể siêng năng hồi hướng cầu đến trí nhất thiết trí, không nhàm chán. Đều do hiểu rõ các pháp chẳng phải thật, như huyễn như hóa, có sự kham nhẫn. Nên biết tức là Bồ-tát tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Bồ-tát như vậy có sự kham nhẫn, nên tinh tấn hồi hướng cầu trí nhất thiết trí không nhàm chán. Vậy pháp nghiệp gì để thuyết kham nhẫn tức là tinh tấn. Làm sao tu học kham nhẫn như thế?

Xá-lợi Tử đáp:

- Kham nhẫn tức là hành động của phương tiện thiện xảo. Bồ-tát chỉ cần nương vào phương tiện thiện xảo, biết tất cả pháp đều như huyễn, Bồ-tát an trụ phương tiện khéo léo, không sợ pháp Không, không rơi vào thật tế. Ví có người đứng ở trên đỉnh núi cao, hai tay cầm cái lọng to nhẹ, leo đến ngọn núi cao, kiễng chân và ngẩng cổ về phía trước, cúi nhìn xuống vực sâu nguy hiểm. Vì nhờ vào lọng dù căng gió, được sự chống đỡ của sức gió, tuy đến chỗ hiểm mà không bị rớt xuống. Bồ-tát cũng vậy, dùng phương tiện thiện xảo nhờ sức hộ trì của đại bi Bát-nhã, tuy quán sát như thật các pháp như huyễn, hiển thị hư dối, bổn tánh không tịch, nhưng tâm hoàn toàn không thấp hèn sợ sệt, đối với pháp thật tế cũng không chứng nhập.

Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo, nhờ sức hộ trì của đại bi Bát-nhã không sợ pháp Không, không chứng thật tế. Giống như nắm giữ chắc lọng dù, khi bung ra từ trên cao ngó xuống vực sâu, không sợ rớt. Cũng vậy, chúng Đại Bồ-tát mặc áo đội mũ kiên cố, giữ gìn phương tiện thiện xảo là chỗ nương tựa thành tựu viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa đệ nhất. Tuy cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng không thấy pháp đã chứng, đang chứng. Nên biết, như vậy là tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Tất cả đều do sự hộ trì của phương tiện thiện xảo, nên đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Sự hộ trì phương tiện thiện xảo của Bồ-tát như vậy thường không xa lìa sự học sáu Ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này do không xa lìa sự học sáu Ba-la-mật-đa, dần dần thân cận trí nhất thiết trí, vượt hơn tất cả Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ-tát này, tâm chuyên cầu trí nhất thiết trí như cầu vật quí báu vô giá.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như có hai người dùng phương tiện lớn, đi vào hang núi sâu tìm vật báu vô giá. Hai người kia vào chưa được bao lâu liền thấy hai bên có vàng, bạc v.v..., những vật quí ít giá trị, cả hai đều không lấy. Đi lần lần về phía trước, lại thấy hai bên có nhiều vật báu nhiều giá trị. Một người thấy liền tham lam vác lấy rồi đi về. Một người thấy nhưng không lấy, lại tiến về phía trước nữa, đến chỗ rất đẹp, được vật báu vô giá, tha hồ đem về, được nhiều lợi ích. Bồ-tát dùng phương tiện lớn cũng vậy, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, nhập vào Phật pháp. Tóm lược có hai hạng:

Một là, có Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, tuy nghe các thiện phápthế gian, tâm không tham đắm nhiễm trước, nhưng nghe công đức của nhị thừa, tâm liền thích thú. Do thích thú cho nên siêng năng hộ trì, xa lìa sự cầu trí nhất thiết trí, thối thất tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Giống như người mới thấy vật báugiá trị ít, tuy không tham đắm, nhưng thấy vật ấy quá nhiều bèn tham lam đắm trước lấy về, nên đánh mất vật báu vô giá.

Hai là, có Bồ-tát đủ phương tiện thiện xảo, mới nghe các thiện phápthế gian, tâm không tham lam đắm trước. Tiếp đến nghe công đức của nhị thừa, cũng không thích thú. Do không thích thú nên không suy nghĩ. Do không suy nghĩ liền không tu tập. Đã không tu tập còn nhàm chán phương tiện. Vì sao? Vì các Bồ-tát này biết thiện pháp thế gian tội lỗi rất nhiều, hoàn toàn chẳng lợi mình, lợi người, chướng ngại cho sự cầu trí nhất thiết trí. Công đức thiện căn của Thanh văn, Độc giác, tuy ra khỏi thế gian nhưng chỉ tự lợi, không lợi ích cho tất cả hữu tình, cũng chướng ngại cho sự cầu trí nhất thiết trí, cho nên không thích thú cũng không suy nghĩ. Đối với thiện căn kia không ưa tu tập. Do đó vượt khỏi bậc nhị thừa kia, siêng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, dần dần chứng đắc trí nhất thiết trí. Giống như người sau thấy vật báu giá trị ít và giá trị nhiều, đều không tham trước. Tiến dần vào trong đến chỗ rất đẹp, lấy được vật báu vô giá, tha hồ đem về, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Như vậy, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo đã không tham đắm, nhiễm trước thiện pháp thế gian. Đối với pháp nhị thừa cũng không thích thú. Do đây, lần lần đến đại Bồ-đề, tu hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, cúng dường cung kính vô lượng Như Lai, thành thục hữu tình trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, viên mãn trí nhất thiết, lợi ích an lạc vô lượng hữu tình. Như vật báu vật vô giá được nhiều lợi ích.

Như vậy, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo tuy nghe các công đức nhị thừa nhưng biết được nó đều không rốt ráo. Tuy chứng được nhưng rất nhàm chán. Tuy rất nhàm chán nhưng rất khéo léo, dùng phương tiện lợi ích hữu tình kia, làm cho họ khéo tu hành chứng nhập Niết-bàn. Như vậy, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo không hộ trì công đức nhị thừa, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát, chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình.

Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát trụ ở ngôi vị bất thối chuyển, thì đối với những hạnh gì không nên đắm trước vị ngọt của nó?

Xá-lợi Tử đáp:

- Đối với sáu Ba-la-mật-đa không nên đắm trước vị ngọt của nó. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vị ngọt của bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi lạc hữu tình; cũng lại không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua thời gian lâu mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cho nên Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với sáu Ba-la-mật-đa, tuy phải siêng năng tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để một thời gian gián đoạn, như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt các pháp quán Không. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước quán sâu vào vị ngọt của pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây nên trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy Bồ-tát kia phải nên suy nghĩ: Ta đối với các pháp quán Không như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của các pháp quán về chơn như. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của sự quán sâu về các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây nên phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với các pháp quán chơn chư như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đây không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của các pháp quán duyên khởi. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của sự quán sâu về vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Vô minh diệt nên hành diệt cho đến sanh diệt nên lão tử diệt, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới có thể chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với các pháp quán duyên khởi như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của pháp quán về các Thánh đế.Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của pháp quán bốn Thánh đế: khổ, tập, diệt, đạo, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới có thể chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải nghĩ: Ta đối với pháp quán các Thánh đế như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong ấy không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của pháp trợ Bồ-đề phần. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với pháp trợ Bồ-đề phần như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong ấy không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của ba môn giải thoát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới có thể chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với ba môn giải thoát như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong ấy không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong ấy không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của vô lượng tĩnh lự v.v... đến giải thoát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của vô lượng tĩnh lự v.v... đến giải thoát, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với vô lượng tĩnh lự v.v... đến giải thoát, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của thắng xứ, biến xứ, chín định thứ lớp. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của thắng xứ, biến xứ, chín định thứ lớp, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với thắng xứ, biến xứ, chín định thứ lớp, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của sự tu các bậc trí. Vì sao? Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của sự tu các bậc trí, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với các bậc trí, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn, như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của năm loại mắt, sáu phép thần thông. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của năm loại mắt, sáu phép thần thông, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của mười tám pháp Phật bất cộng.Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của mười tám pháp Phật bất cộng, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng lại không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với mười tám pháp Phật bất cộng, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ-tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tâm liền bị tạp nhiễm, không như thật lợi ích an lạc hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tuy tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng đối với trong đó không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không nên hiện hành phân biệt: Ta hộ trì tịnh giới Bồ-tát là do cầu các tướng hảo như vậy. Nếu các Bồ-tát có tâm phân biệt hiện hành như thế, nên biết gọi là phạm giới Bồ-tát. Vì vậy, Bồ-tát không nên tham cầu các tướng hảo, chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Bồ-tát chấp lấy, đắm trước tướng hảo để thọ trì giới, nên biết gọi là chấp trước tịnh giới có sự hủy phạm. Nếu các Bồ-tát chấp trước tịnh giới có sự hủy phạm, nhất định không chứng sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Quyển thứ 587
HẾT

05

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

- Thầy an trụ diệu trí như vậy, nghĩa là như thật biết Bồ-tát chấp trước tịnh giới như vậy là có sự hủy phạm. Bồ-tát không chấp trước tịnh giới như vậy là không có sự hủy phạm.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con tin sự tuyên thuyết diệu pháp của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên khởi trí như vậy, chứ chẳng phải con tự suy nghĩ mà nói được như thế. Theo con hiểu nghĩa lời Phật thuyết là nếu các Bồ-tát tạm thời khởi tâm tán thán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, thì nên biết hủy phạm tịnh giới Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát tạm thời khởi tâm nhàm chán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, thì nên biết hủy phạm tịnh giới Bồ-tát.

Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát tán thán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, sanh tâm ái nhiễm, chấp trước, không cầu đến trí nhất thiết trí, thì đối với giới Bồ-tát có sự hủy phạm. Nếu các Bồ-tát nhàm chán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, sanh tâm khinh miệt, tức bị chướng ngại sự cầu trí nhất thiết trí, thì đối với giới Bồ-tát có sự hủy phạm.

Vì vậy, Bồ-tát đối với nhị thừa không nên tán thán, cũng không nhàm chán. Nếu các Bồ-tát đối với nhị thừa, tâm không cung kính hoặc sanh ái nhiễm, nên biết đều là hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ-tát hành nơi phi xứ, nên biết gọi là phạm giới Bồ-tát, cũng gọi là chấp trước tịnh giới, không chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thế nên, Bồ-tát đối với nhị thừa, chỉ nên xa lìa không nên tán thán, cũng không hủy báng. Nếu các Bồ-tát đối với nhị thừa không xa lìa, nhất định không chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát duyên theo cảnh năm dục lạc, khởi tâm thích thú, tuy gọi là tác ý phi lý nhưng không phá hoại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tác ý phi lý chỉ rơi vào phiền não. Do phiền não kia làm cho các Bồ-tát thọ sanh ở các nơi. Từng giờ, từng giờ các chúng Bồ-tát thọ nhiều thân ở các cõi kia. Từng lúc, từng lúc dần dần tu học viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng vô biên Phật pháp khác. Từng giờ, từng giờ dần dần tu học viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng vô biên Phật pháp khác. Từng lúc, từng lúc các Bồ-tát này lần lần thân cận trí nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Vì vậy con cho rằng, phiền não đối với các Bồ-tát có ân đức lớn. Nghĩa là tùy thuận theo trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát quán sát phiền não có thể hỗ trợ cho việc dẫn đến trí nhất thiết trí, thì phiền nãoân đức lớn với chúng Bồ-tát. Các Bồ-tát nên biết, khi đạt đến sự chứng đắc thì mọi việc đều là phương tiện thiện xảo. Như vậy, Bồ-tát phải biết là an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Nên biết, các Bồ-tát đối với giới Bồ-tát không có sự hủy phạm, cũng không chấp trước tịnh giới Bồ-tát.

Phật khen ngợi Xá-lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Lời thầy nói rất hay. Có các Bồ-tát đối với tịnh giới có sự chấp trước, có sự hủy phạm. Có các Bồ-tát đối với tịnh giới không có sự chấp trước, không có sự hủy phạm. Thầy là người trình bày rõ thật ngữ, pháp ngữ, là người khéo tùy theo pháp, lãnh nhận và thuyết pháp.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát an trụ nơi tịnh giới Ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vầy: Vô lượng hữu tìnhmười phương vô lượng vô biên thế giới, do tăng trưởng oai lực sự trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, nên người không tịnh giới đều được tịnh giới, người có ác giới đều được xa lìa. Và nhờ sự tăng trưởng oai lực việc học tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, nên hộ trì các hữu tình đều được lợi ích an lạc thù thắng. Đại Bồ-tát này biết thành tựu phương tiện thiện xảo.

Từng giờ, từng giờ Đại Bồ-tát tự tịnh giới Ba-la-mật-đa, hồi hướng bố thí cho vô lượng hữu tìnhvô lượng vô biên thế giới. Từng lúc, từng lúc dần dần tăng trưởng sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ dần dần tăng trưởng sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc lại hộ trì vô lượng tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ lại hộ trì vô lượng tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc lại hộ trì vô lượng vô số Phật pháp vi diệu. Do đây mau đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, lại nghĩ như vầy: Vô lượng hữu tìnhmười phương vô lượng vô biên thế giới, do tăng trưởng oai lực sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, nên người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề đều phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề đều vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu người có tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không thối chuyển, thì mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo duyên với các Bồ-tát hồi hướng bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ hồi hướng bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc không xa lìa tâm trí nhất thiết. Từng giờ, từng giờ không xa lìa tâm trí nhất thiết. Từng lúc, từng lúc dần dần thân cận trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát này nhờ tăng trưởng oai lực thiện căn này, lại hộ trì vô lượng tịnh giới Ba-la-mật-đa, làm cho dần dần tăng trưởng rộng lớn. Cũng hộ trì vô lượng, vô số Phật pháp vi diệu, khiến dần dần được viên mãn.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, rồi đem sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình cho một Bồ-tát, thì phước đức đạt được hơn hẳn phước đem cho những hữu tình phạm giớihằng hà sa số thế giới, giúp họ thọ trì tịnh giới viên mãn.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, rồi đem sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình, hồi hướng bố thí cho các hữu tìnhmười phương, giúp họ trụ tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm giới, thì đạt được vô lượng vô biên phước đức.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, rồi đem sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình bố thí cho một Bồ-tát, thì phước đức đạt được hơn phước của Bồ-tát trên gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Đại Bồ-tát này đem sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình bố thí cho một Bồ-tát, khiến cho vị ấy hộ trì trí nhất thiết trí, giữ gìn trí nhất thiết trí, thì có thể hộ trì, giữ gìn vô lượng hữu tìnhvô lượng vô biên thế giới, khiến được an trụ tịnh giới, xa lìa các sự hủy phạm, như vậy dần dần được nhiều lợi ích.

Ví như ngôi nhà lớn gồm mười gian mà chỉ có một cây cột. Vô lượng chúng sanh sống ở trong đó, họ cùng nhau chơi giỡn, vui đùa hưởng lạc. Có người bạo ác muốn chặt cây cột đó, khi ấy có người tốt bảo kẻ xấu kia:

“Trong nhà này có nhiều gia đình, cùng nhau chơi giỡn, vui đùa, hưởng lạc. Nếu chặt cây này thì nhà sụp đổ, tổn hại vô lượng mạng sống trong đó.”

Như vậy, người tốt vì muốn lợi lạc vô lượng hữu tình đang sống trong đó, ngăn chặn người ác kia, không cho chặt cây. Lúc đó, có một người nam, khen ngợi người tốt:

“Lành thay! Lành thay! Nay ông đã đem lại tuổi thọ và sự an lạc cho vô lượng chúng sanh.”

Như vậy, Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại thừavô lượng vô biên Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, giúp họ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu dùng công đức thiện căn của Độc giácThanh văn thừa dạy dỗ, trao truyền, liền bị cản trở công đức thù thắng của vô lượng vô biên hữu tình A-la-hán v.v...

Nếu có Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên đem bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại thừavô lượng vô biên Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, làm cho họ hộ trì trí nhất thiết trí, cũng làm cho giữ gìn trí nhất thiết trí. Đã làm cho hộ trì trí nhất thiết trí, cũng làm cho giữ gìn trí nhất thiết trí, tức là đem công đức thù thắng cho vô lượng vô biên hữu tình A-la-hán v.v…

Như vậy, Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên đem bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại thừavô lượng vô biên các Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, tức là dạy dỗ, trao truyền vô lượng vô biên hữu tình, giúp họ tu hành các diệu hạnh an lạc.

Như vậy, Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vầy: Nhờ sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, nguyện cho các hữu tình đều đầy đủ tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm, nguyện đem thiện căn như thế hồi hướng cho tất cả hữu tình đều được chánh niệm. Do chánh niệm nên sanh hỷ lạc. Các hữu tình kia nghe lời nói này rồi, tâm xa lìa sự hủy phạm, thọ trì tịnh giới.

Lại có Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, khởi nhất tâm đem sự an trụ tịnh giới cho một Bồ-tát. Đối với công đức trên thì hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến hơn gấp muôn ức lần.

Như vậy, Bồ-tát từng giờ, từng giờ vì hữu tình đem sự an trụ giới hồi hướng, bố thí cho Bồ-tát. Từng lúc, từng lúc tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát dần dần tăng trưởng, mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí. Như vậy, Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, hồi hướng, bố thí cho hữu tình, thì phước đức đạt được nhiều loại khác nhau.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bồ-tát làm sao biết được Bồ-tát như thế trải qua bao nhiêu số kiếp mới được xuất ly? Bồ-tát như vậy đã trải qua bao nhiêu phát khởi Đại thừa?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nên biết, Bồ-tát như vậy phải dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, trao truyền cho các hữu tình, khiến họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hành các hạnh Bồ-tát không điên đảo, mau chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nên biết, Bồ-tát như thế dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì các hữu tìnhhồi hướng, nguyện đắc trí nhất thiết trí. Suy nghĩ như vầy:

Nguyện cầu sự tu bố thí Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người tham lam đều biết bố thí.

Nguyện cầu sự tu tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người phạm giới đều được tịnh giới.

Nguyện cầu sự tu an nhẫn Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người sân giận đều được an nhẫn.

Nguyện cầu sự tu tinh tấn Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người giải đãi đều được tinh tấn.

Nguyện cầu sự tu tĩnh lự Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người tâm loạn đều được định (tĩnh lự).

Nguyện cầu sự tu Bát-nhã ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người ác tuệ đều được diệu tuệ.

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát như thế đem thiện căn của mình hồi hướng bố thí cho các hữu tình, phải trải qua bao nhiêu số kiếp tu hành Đại thừa mới được xuất ly?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Bồ-tát như vậy đem thiện căn của mình hồi hướng bố thí cho các hữu tình, phải trải qua năm trăm đại kiếp tu hành Đại thừa mới được xuất ly.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Bồ-tát như vậy hoặc có thành tựu phương tiện thiện xảo, muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, tức là vị ấy trong hiền kiếp này, nguyện thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thuộc vào trong số ngàn đức Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như Phật Từ Thị quán Không các đường ác, thuyết pháp hội đầu tiên có trăm ngàn ức Thanh văn thành A-la-hán. Lúc Ta là Bồ-tát đã ở trong hai ngàn kiếp tu hạnh Bồ-đề, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Các Bồ-tát khác, nếu đầy đủ các tướng hành trạng như trên, phải biết vị kia trải qua năm trăm đại kiếp tu học Đại thừa, nên được xuất ly. Bồ-tát như thế, nên biết đã trụ nơi địa vị bất thối chuyển.

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như vậy, phải sanh tâm hoan hỷ. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa, sanh tâm hoan hỷ, nhất định không xa lìa chư Phật Thế Tôn. Chư Phật Thế Tôn cũng không bỏ vị ấy.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa, người ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa chỉ một ngày đêm, thì biết các Bồ-tát này đã phát khởi tâm Đại thừa từ lâu. Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như thế, người ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa, trải qua hai ngày đêm, thì biết các Bồ-tát này cũng phát khởi tâm Đại thừa từ lâu. Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như thế, người ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa, trải qua ba ngày đêm, lần lượt cho đến trải qua bảy ngày đêm, thì biết các Bồ-tát này đã phát khởi tâm Đại thừa đã lâu, cho đến rất lâu dài.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lời Phật thuyết thì các Bồ-tát này đã trải qua trăm kiếp, hai trăm kiếp, ba trăm kiếp, lần lượt cho đến bảy trăm kiếp phát tâm Đại thừa. Các Bồ-tát này tu hành Đại thừa, trải qua bảy trăm kiếp nên được xuất ly. Các Bồ-tát này nhờ nhân duyên đây nên công đức thiện căn dần dần được tăng trưởng. Các Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như vậy, tuy rất hoan hỷ nhưng không nhiễm trước. Các Bồ-tát này bản tánh thanh tịnh nên nghe thuyết Đại thừa, tâm rất hoan hỷ.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Thầy đã nương thần lực của Phật mà thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa. Nếu các Đại Bồ-tát thuyết đầy đủ các tướng hành trạng như trên, thì nên biết đã phát tâm Đại thừa từ lâu. Các Đại Bồ-tát như vậy đã không thối chuyển tâm Bồ-đề. Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như thế mà không sanh tâm hoan hỷ, thì nên biết các Bồ-tát này phát tâm Đại thừa chưa lâu. Ta đối với các Bồ-tát mới phát tâm Đại thừa như vậy, cũng vì họ tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa, khiến họ siêng năng tu học dần dần được chứng đắc trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không lìa bỏ các Bồ-tát?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Thầy cho rằng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chỉ không xả bỏ các Bồ-tát sao? Thầy không nên thấy như vậy. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không xả bỏ tất cả hữu tình. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều thương xót tất cả hữu tình sâu đậm, thường suy nghĩ phải dùng phương tiện gì để giúp hữu tình kia xa lìa khổ sanh tử, được giải thoát.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các thầy nên biết, tâm của chư Phật Thế Tôn bình đẳng như đối với tâm thuần tịnh của Phật phát khởi an trụ từ biban cho niềm vui, nhổ gốc khổ não. Thương xót tất cả hữu tình một cách bình đẳng, vì muốn họ lìa khổ được vui.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tâm an trụ khác nhau của chư Phật, đối với tâm an trụ khác nhau của các Bồ-tát, đối với tâm an trụ khác nhau của các Độc giác, đối với tâm an trụ khác nhau của bậc A-la-hán, đối với tâm an trụ khác nhau của bậc Bất-hoàn, đối với tâm an trụ khác nhau của bậc Nhất lai, đối với tâm an trụ khác nhau của bậc Dự lưu, đối với tâm an trụ khác nhau của vị tùy pháp hành, đối với tâm an trụ khác nhau của vị tùy tín hành, đối với tâm an trụ khác nhau của vị ngoài năm thần thông, đối với tâm an trụ khác nhau của vị thành tựu giới biệt giải thoát, đối với tâm an trụ khác nhau của vị thành tựu mười nghiệp thiện, đối với tâm an trụ khác nhau của vị thành tựu mười nghiệp ác, đối với tâm an trụ khác nhau của kẻ ác, hạng bần tiện v.v…, tâm các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng tùy theo ý thích sai khác đó mà hành thì chẳng phải là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như đối với tâm thuần tịnh của Phật, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với Bồ-tát cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Bồ-tát, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ

Đối với Độc giác cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Độc giác, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với A-la-hán cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của A-la-hán, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với Bất hoàn cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Bất hoàn, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với bậc Nhất lai cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Nhất lai, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với bậc Dự lưu cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Dự lưu, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với bậc tùy pháp hành cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của bậc tùy pháp hành, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với bậc tùy tín hành cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của bậc tùy tín hành, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với bậc ngoài năm thần thông cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của bậc ngoài năm thần thông, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với vị thành tựu các giới biệt giải thoát cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của vị thành tựu giới biệt giải thoát, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với vị thành tựu mười nghiệp thiện cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của vị thành tựu mười nghiệp thiện, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với vị thành tựu mười nghiệp ác cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của vị thành tựu mười nghiệp ác, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ.

Đối với kẻ ác, hạng bần tiện v.v… cũng lại như vậy.

Do đây nên tâm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không phân biệt, không tùy ý thích mà thực hành, cho nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì vậy chư Phật đầy đủ đại bi, trí tuệ, an trụ trong tất cả pháp tánh bình đẳng, đối với các hữu tình đều không xả bỏ.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ta hoàn toàn không thấy chư Phật Thế Tôn đối với cảnh sở duyên mà khởi lên một chút điều ưa thích hay tức giận. Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với cảnh sở duyên mà khởi lên ưa thích hay tức giận, điều này thật phi lý. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì chư Phật Thế Tôn đối với sự thương ghét, tất cả phiền não đều đã chấm dứt.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tuy nhiên chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các Bồ-tát, chắc chắn không bao giờ xả bỏ. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết-bàn, có các Bồ-tát tinh tấn tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, dần dần được viên mãn. Tinh tấn tu học pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử diệt, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc giác nhân đạo, Độc giác Bồ-đề, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học tất cả hạnh Đại Bồ-tát dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học lìa giết hại sanh mạng, lìa lấy của chẳng cho, lìa hành dục tà, lìa lời dối gạt, lìa lời thô ác, lìa lời chia rẽ, lìa lời tạp uế, lìa tham dục, lìa giận dữ, lìa nghiệp đạo tà kiến, dần dần viên mãn.

Tinh tấn tu học, trình bày các pháp môn diệu trí, dần dần viên mãn. Đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp các thế gian, độ thoát vô lượng vô biên hữu tình, xa lìa khổ sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc.

Chư Phật Thế Tôn quán chiếu nghĩa như vậy, dạy dỗ, trao truyền Bồ-tát như thế. Do nhân duyên này nên chắc chắn không bao giờ xả bỏ các Bồ-tát. Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết-bàn, các Bồ-tát sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp các thế gian, giúp thế gian tu hành đạt được lợi ích lớn. Cho nên đối với Bồ-tát, chắc chắn không bao giờ xả bỏ.

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Thật đúng thánh giáo. Đối với chư Như Lai sau khi Niết-bàn, ở mười phương thế giới có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp các thế gian. Ví như cây lớn có nhiều lá quả. Sau khi cây lớn khô chết, cây nhỏ tiếp nối phát sanh, cọng, thân, nhánh dần dần cao lớn, bóng mát che rộng một do-tuần. Vô lượng chúng sanh dừng nghỉ dưới gốc cây, để tránh gió, mưa, nóng, lạnh v.v…, lại còn bẻ lá hái quả dùng nữa. Những người có trí cùng nhau khen ngợi quả, lá, bóng mát của cây lớn này cũng lợi ích cho hữu tình chẳng khác cây xưa. Chỉ có người ngu không biết đến nương bóng mát này.

Như vậy, Bồ-tát đối với Phật Thế Tôn sau khi Niết-bàn, dần dần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô biên diệu pháp khác của chư Phật, dần dần viên mãn, ở ba ngàn đại thiên thế giới, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tiếp nối Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước. Như thật lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Khiến các Phật sự không đoạn tuyệt.

Nghĩa là vì vô biên các hữu tình dùng phương tiện tuyên thuyết mười nghiệp thiện, khiến cho siêng năng tu học các pháp môn, thí, giới, tu v.v... thoát nỗi khổ đường ác, được sanh trong trời, người, hưởng thọ an vui thích thú.

Hoặc vì vô biên các loài hữu tình, dùng phương tiện tuyên thuyết uẩn, xứ, giới v.v... khiến cho họ siêng năng tinh tấn, không thấy có ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, người nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, người làm, người nhận, người biết, người thấy; quán sát bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, ba môn giải thoátthiện pháp khác, chấm dứt các phiền não, được nhập Niết-bàn.

Hoặc vì vô biên các loài hữu tình dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của sắc uẩn đều bất khả đắc; tánh thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui (lạc), không vui của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết vô lượng pháp môn như vậy, khiến cho họ siêng năng tinh tấn. Dùng phương tiện thiện xảo quán sát, xa lìa các pháp hý luận, không điên đảo. Dùng phương tiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng vô biên Phật pháp khác, chứng đắc trí nhất thiết trí rốt ráo.

Các loài hữu tìnhtrí tuệ hiểu biết, nghe pháp như vậy, bèn tinh tấn tu hành, tùy theo sự hiểu biết sẽ được hương vị cam lồ, hoặc tạm thời, hoặc vĩnh viễn được lợi ích an lạc. Chỉ có người ngu si và các ngoại đạo không nghe thọ giáo pháp, nên bị chìm đắmtrầm luân trong các đường. Chư Phật Thế Tôn quán nghĩa như vậy, hướng đến Bồ-tát dạy dỗ, trao truyền. Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết-bàn, các Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát dần dần viên mãn, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem ánh sáng chánh pháp soi sáng cho các thế gian. Ví như bóng mát của cây to lớn, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy, dạy dỗ trao truyền cho hàng Thanh văn thừa hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến vô số đều an trụ quả A-la-hán, không bằng dùng phương tiện thiện xảo thuyết pháp yếu thâm sâu cho một Bồ-tát. Đó là pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa, làm cho vị ấy nghe rồi khởi niệm nhất tâm tương ưng với trí nhất thiết. Pháp yếu như vậy đối với giáo pháp trên là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sự phát tâm ấy đối với công đức Thanh văntối thắng nhất.

Phật khen Xá-lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời thầy nói. Thầy đúng thật là đệ tử thông minh, sáng suốt của Phật. Nghĩa là khéo dạy dỗ trao truyền sự vô úy cho hàng Bồ-tát thừa, khiến cho họ siêng năng tu hành hạnh Bồ-tát, mau chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc lớn cho các hữu tình.

Bấy giờ, Phật dạy A-nan-đà:

- Thầy nên thọ trì sự tu tịnh giới Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát như Xá-lợi Tử đã thuyết, chớ để quên mất.

A-nan-đà bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Thế Tôn dạy. Con đã thọ trì sự tu tịnh giới Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát như ngài Xá-lợi Tử đã thuyết, chắc chắn không để quên mất, làm cho các Bồ-tát chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề mau chóng phát tâm. Vị nào đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã không thối chuyển, thì giúp cho mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí.

Khi đức Bạc-già-phạm thuyết kinh này rồi, cụ thọ Xá-lợi Tử, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ A-nan-đà và các Thanh văn, Bồ-tát khác cùng tất cả trời, rồng, Dược-xoa, người chẳng phải người v.v... nghe lời Phật thuyết đều hớn hở vui mừng, tín thọ phụng hành.

Quyển thứ 588
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
25/04/2010(Xem: 131882)
14/05/2010(Xem: 445043)
23/04/2023(Xem: 33308)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.