Kệ Ngôn 28: Nhìn đời bằng góc cạnh của bậc giải thóat.

18/12/20202:35 CH(Xem: 2260)
Kệ Ngôn 28: Nhìn đời bằng góc cạnh của bậc giải thóat.
blank
Kệ Ngôn 28:
Nhìn đời bằng góc cạnh của bậc giải thóat.
Giảng sư: TT. Thích Bửu Chánh

Bậc trí diệt buông lung

Bằng chánh hạnh tinh cần

Lên đài cao trí tuệ

Vô ưu nhìn sầu khổ

Như người đứng trên núi

Nhìn ngu nhân đất bằng

Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali

Pamaada.m appamaadena yadaa nudati pa.n.dito
Pa~n~naapaasaadamaaruyha asoko sokini.m paja.m
Pabbata.t.tho-va bhumma.t.the dhiiro baale avekkhati.

Lê Văn Phúc chuyển biên, Minh Hạnh biên tập

TT Bửu Chánh: Đức Phật thuyết câu kinh pháp cú này khi ngụ tại chùa Kỳ viên lên quan đến trưởng lão Đại ca Diếp. khi trưởng lão còn ở trong hang Pipphali. Một hôm vào thành Vương Xá khất thực xong trở về độ ngọ, rồi ngài ngồi xuống khai mở tuệ giác dùng thiên nhãn xem xét chúng sanh. Kẻ buông lung, người chánh niệm, trên nước, trên đất và khắp mọi nơi. Kẻ ra đời, người quá vãng. Đức Phật thấy đệ tử của ngài là Đai Ca Diếp đang quán xét chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi. Chúng sanh trong kiếp sống này đến kiếp sống khác thọ mạng trong bào thai của mẹ mình. Biết rằng ngài Ca Diếp chưa đủ năng lực để thấu triệt điều này. Chỉ có chư Phật mới thông suốt tòan bộ chúng sanh. Nên Thế tôn nói tôn giả hay đều đó và phóng ảnh kim thân đức Phật ngồi trước mặt Ca Diếp và đọc bài kệ Pháp cú.
.

Bậc trí diệt buông lung
Bằng chánh hạnh tinh cần
Lên đài cao trí tuệ
Vô ưu nhìn sầu khổ
Như người đứng trên núi
Nhìn ngu nhân đất bằng

Qua câu kệ pháp cú 28 này, chúng ta học được một số bài học như sau: Trong câu chuyện duyên sự có đề cập đến tầm nhìn của đức Phật và tầm nhìn của ngài Đại Ca Diếp. Hay nói cách khác là tuệ giác của Đức Phậttuệ giác của ngài Ca Diếptuệ giác của chúng ta hay tầm nhìn của chúng ta. Chúng ta một người bình thường không thể nhìn hết cả chúng sinh. Không có thiên nhãn để xem xét chúng sanh. Kẻ buông lung, người chánh niệm, sanh trên nước, trên đất, trên núi, khắp mọi nơi, kẻ sanh ra, người quá vãng. Chúng sanh sanh ra trong vòng sinh tử luân hồi. Chúng sanh trôi lăn từ kiếp sống này đến kiếp sống khác. Và thọ mạng trong bào thai mà không biết gì đến cha lẫn mẹ. Chúng ta không thể nào biết được như Đức Phật và ngài Ma ha Ca Diếp. Thậm chí tuệ nhãn của Ca Diếp cũng không bằng Đức Phật. Như vậy chúng ta đi đến một nhận xét là mỗi người, mỗi chúng sanh có tầm nhìn riêng biệt tùy theo trình độ tu chứng của mỗi người. Không phải ai cũng có đầy đủ trí tuệ như người khác. Không phải ai cũng thấy được tất cả giống như đức Phật và các bậc thinh văn La hán, các bậc đệ tử của đức Phật.

hân bằng quyến thuộc. Có học trò đệ tử thì khổ vì học trò, đệ tử. Người có tài sản thì đau khổtài sản. Người sanh tử luân hồi thì đau khổsanh tử luân hồi. Đó là lời dạy của đức Phật. Tầm nhìn của đức Phật khác tầm nhìn của ác ma. Tầm nhìn của người nặng tham, sân, si thì khác với người từ bỏ tham, sân, si. Người có tu tập chánh niệm, người có trí tuệ, có tu thiền thì tầm nhìn của họ khác. Người nặng về sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, xúc lạc thì tầm nhìn của họ cũng khác.

Câu kệ dạy chúng ta, người trí dẹp phóng dật, giới hạnh không phóng dật. Người có chánh niệm, người tỉnh giác, không phóng dật thì sẽ thành tựu trí tuệ. Cũng như người đứng núi cao nhìn những người phóng dật, những người đang đam mê trong trường ái. Chúng ta thấy với nhận xét có hai hạng người. Hạng người đang sống trong phiền não, trong khổ đau, trong phóng dật và một người đã giải thoát phiền não, khổ đau, phóng dật. Người sống trong phóng dật thì không biết mình sống trong phóng dật. Người sống trong khổ đau, người sống trong phiền não thì người đó không biết mình đang sống trong khổ đau, trong phiền não.

Người nào thóat khỏi khổ đau, phiền não, người không sống trong phóng dật thì người này sẽ thóat được khổ đau, phiền não và thấy được người đang sống trong phiền não, khổ đau là người khổ đau. Do đó, chúng ta học bài kệ này, ta thấy rằng trên thế gian này người sống trong phiền não, trong tham, sân, si và người sống thóat khỏi phiền não, tham, sân, si. Người sống trong tham, sân, si giống như đang ở đất bằng, người sống thóat khỏi tham, sân si giống như người lên trên đỉnh núi. Trên núi cao nhìn trở lại những người đang còn tham sân si đang lần mò trong tối tăm phiền não. Đức Phật ngài cũng xem xét chúng sanh như vậy ngài mới nói lên câu kệ pháp cú 28 này. Trong thực tế cuộc sống, chúng ta cũng thấy như vậy.

Cuối cùng chúng tôi muốn nói một ý nữa. Đó là, thưa quí vị, chúng ta không thể bắt người khác làm theo ý mình được. Bởi vì một người nặng về phiền não, nặng về phóng dật, nặng về tham, sân, si thì chúng ta không thể nào bảo người đó trở thành trí tuệ, trở thành người dứt bỏ những điều đó được. Chúng ta là người biết Phật pháp, biết tu hành, biết giải thóat, biết làm phước. Tuy nhiên những người thân bằng quyến thuộc chúng ta lại không làm những điều đó khiến chúng ta nóng ruột mong muốn họ cũng phải giống như mình. Tuy nhiên trên thế gian này có hai hạng người. Hạng người bị phóng dật chi phối, phiền não chi phối, bị tham sân si tấn công. Và hạng người thóat khỏi tham sân si, không bị phóng dật, không bị phiền não tấn công. Cho nên người nào bị phiền não tấn công, tham sân si tấn công thì hãy thương xót họ, thương cảm cho họ. Do phiền nãolý do nào đó chưa chuyển hóa được tâm linh. Và tế độ những người hữu duyên tế độ. Những người có duyên lành thì chúng ta mới có thể tế độ. Còn những ngừơi không có duyên lành thì chúng ta không thể nào tế độ được. Những người nào có duyên lành thì chúng ta giúp cho họ để họ trở thành người thiện, người lành trong Phật pháp. Chuyển hóa được thì từ từ chúng ta cũng tìm cách chuyển hóa. Có những hạng người không chuyển hoá được thì không vì thế mà chúng ta buồn bực, khó chịu.

Trong thế gian này có hai thành phần. Một là những người phiền não, tham sân si. Một là những người ít phiền não, ít phóng dật, ít tham sân si. Những người đang sống trong tham sân si, trong phiền não thì khó có thể phát hiện được rằng là họ là những người đang tham sân si, đang phiền não, đang phóng dật. Đọan kinh này nói rất rõ. Đó là hai hạng người. Người nào biết dùng tâm niệm đẩy lui phóng dật, người có tri kiến chân chánh, thoát khỏi phiền não, vượt lên tận đền đài trí tuệ nhìn xuống đám người đau khổ như người khéo trèo núi lên đến đỉnh tuyệt cao nhìn trở lại đám vô minh. Đó là vài nhận xétchúng tôi trình bài trong bài giảng của mình. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật./.

Namo Buđdhaya








Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
15/10/2010(Xem: 48436)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :