HẠNH PHÚC & HẠNH PHÚC THỰC SỰ THEO QUAN ĐIỂMPHẬT GIÁO Qua kinh Hạnh phúc người tại gia (1) và kinh Điềm lành (Mangala Sutta) TT. Thích Giác Như
Có một cuộc sống hạnh phúc là ước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩahạnh phúctùy thuộc vào trình độnhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân. Do đó, ý nghĩahạnh phúc thật là đa dạng và khác biệt.
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểmhạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọgiác quan trong cuộc sống (sense pleasures), như có được tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, tiện nghi, v.v.; và hạnh phúc về tinh thần (mental happiness), như tâm được vui mừng và an lạc.(2) Sự xuất hiện của Đức Phật ở thế gian và nội dung giáo lýPhật giáo không ngoài mục tiêu đem lại an lạc, hạnh phúc cho chư thiên và loài người. Nội dung giáo lý này là Tứ diệu đế(Cattāri Ariya-saccāni, The Four Noble Truths)bao gồm: dukkha (khổ), nguyên nhân của dukkha, sự đoạn tận dukkha, và phương pháp đem đến sự đoạn tận dukkha.
Trong các kinh Nikāya, Đức Phật thường khuyên các đệ tửtruyền bá nội dung này “Vì lòng thương cuộc đời và vì an lạc, hạnh phúc cho chư thiên và loài người, các ngươi nên truyền bá giáo pháp khắp mọi nơi”. Vậy hạnh phúc theo quan điểm của Phật giáo là như thế nào, và bằng vào phương pháp nào để đạt đượchạnh phúc đó? Quan trọng hơn, Phật giáo cho rằng mọi hiện hữu là vô thường, như thế, hạnh phúc mà con người có được trong bất cứ hình thức nào - vật chất hay tinh thần - đều bị chi phối bởi luật vô thường. Vậy thìhạnh phúc thực sự theo quan điểmPhật giáo là gì? Bài viết này cố gắngtrả lời những câu hỏi trên qua ý nghĩa kinh Hạnh phúc người tại gia và kinh Điềm lành.
A. Hạnh phúctương đối (Hạnh phúc bị chi phối bởi luật vô thường)
Ước mong của bản thân và gia đình được hạnh phúc là điều ước chung của con người trong bất cứ thời đại nào. Ý tưởng này được thể hiện qua lời hỏi của Dighajanu đến với Đức Phật trong kinh Hạnh phúc người tại gia: “Bạch Ngài, chúng con là những người cư sĩtại gia, có vợ và con cái. Mong Ngài dạy bảo cho con được biết bằng cách nào để đời sốnghiện tại và đời sau này con được hạnh phúc”. Khi đó Đức Phật dạy cho Dighajanu bốn điều cần phải làm để tạo cuộc sống hiện tại được hạnh phúc:
1. Phải có một nghề nghiệp giỏi, phải siêng năng và nhiệt thành trong nghề nghiệp của mình.
2. Phải bảo vệ nguồn thu nhập của mình đừng để bị thiên tai làm tổn hại, và trộm cắp lường gạt. Nguồn thu nhập phải hợp pháp.
3. Tránh xa bạn ác. Luôn cẩn thận và học hỏi với những người có đức hạnh và trí tuệ.
4. Chi tiêu phải phù hợp với thu nhập của mình, không tiêu pha lãng phí tiền bạc trong cờ bạc và tửu sắc.
Để tạo cho đời sống tương lai được hạnh phúc, Đức Phật khuyên Dighajanu phải thực hiện bốn điều sau đây:
1. Có niềm tintrọn vẹn về giá trịđạo đức và tâm linh (tức là có đức tinTam bảo, Phật, Pháp, Tăng và tin luật nhân quả).
2. Thực hành năm điều đạo đức bằng cách không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất làm não loạntâm trí như rượu và ma túy.
3. Bố thí và làm những công việc từ thiện.
4. Phát triển trí tuệ để thấy được bản chấtvô thường của cuộc đời, và giúp đoạn tận khổ đau (dukkha).
Tương tự như nội dung những điều trên mà Đức Phật đã dạy cho Dighajuna, trong kinh Điềm lành, một vị Thiên tử đã hỏi Phật rằng bằng vào cách nào để các chúng sinh trong cõi người và trời được hạnh phúc. Đức Phật đã trả lời câu hỏi của vị Thiên tử qua những bài kệ sau:
Không thân cận kẻ ngu,
Nhưng gần gũi bậc trí,
Đảnh lễ người đáng lễ.
Là điềm lànhtối thượng.
Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chân chánh hướng tự tâm,
Là điềm lànhtối thượng.
Học nhiều nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện học tập,
Nói những lời khéo nói,
Là điềm lànhtối thượng.
Hiếu dưỡng với cha mẹ,
Nuôi nấng vợ và con,
Làm nghề không rắc rối,
Là điềm lànhtối thượng.
Bố thí hành đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp không lỗi lầm,
Là điềm lànhtối thượng.
Chấm dứttừ bỏ ác,
Chế ngựđam mê rượu,
Trong Pháp, không phóng dật
Là điềm lànhtối thượng(3)
Nhìn vào những điều Đức Phật dạy cho Dighajanu và những lời dạy của Ngài trong phần đầu của kinh Điềm lành, ta thấy cả hai cùng diễn đạt một nội dung về những phương phápthực hànhcăn bản và thiết thực để xây dựngmột đời sống hạnh phúc: có nghề nghiệp giỏi để kinh tế gia đình được ổn định; biết hiếu dưỡngcha mẹ và nuôi nấng vợ con, gia đình sẽ được hạnh phúc; thực hành bố thí thì kết quả có được cuộc sống giàu có; và thân cận với bạn lành giúp phát triển đạo đức và trí tuệ.
Điều quan trọng ở đây là, trong bốn điều cần phảithực hành để có một đời sống tương lai hạnh phúc, Đức Phật đã dạy cho Dighajanu biết tầm quan trọng của sự thiết lậpniềm tin về giá trịđạo đức trong cuộc sống (điều 1). Theo Phật dạy, muốn có hạnh phúctrong đời sống, mỗi cá nhân phải xem giá trịđạo đức là hướng đi hay kim chỉ nam cho đời sống của mình; nếu không, cuộc sống sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Ý nghĩađạo đức mà Đức Phật dạy cho Dighajanu có thể hiểu qua hai cấp độ liên hệ; thứ nhất, đạo đứcphổ biến(universal ethics), tức là năm giới hay năm điều cơ bản đạo đức (điều 2 và 3); và thứ hai, siêu đạo đức (super-ethics) là sự thanh lọc tâm tham, sân, si bằng trí tuệ để đoạn tận gốc rễ khổ đau và đạt hạnh phúc thực sự (điều 4).(Phần này sẽ được trình bày trong đoạn tiếp). Để thể hiệnniềm tin vào giá trịđạo đứcphổ biến, cả nhân loại phải thực hành năm điều đạo đức cơ bản: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.
Theo luật nhân quả trong Phật giáo, do tạo nhân lành qua sự thực hànhnăm giới, cá nhân sẽ có được kết quả tương ứng về một đời sống hạnh phúc: thân thể khỏe mạnh và sống lâu; cuộc sống được giàu có; gia đình được hạnh phúc; có một cuộc sống hài hòa trong tương quan với mọi người; và tâm luôn được minh mẫn. Đến đây, qua lời dạy của Đức Phật như được trình bày ở trên, chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc và làm thế nào để đạt được nó. Ở đây cũng cần nhắc lại là ở phần đầu bài, hai phạm trùhạnh phúc đã được nêu lên, đó là hạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọtrong đời sống của mỗi cá nhân (sense pleasures) và hạnh phúc về tinh thần(mental happiness). Ý nghĩahạnh phúc mà Đức Phật dạy cho Dighajanu, cũng như ý nghĩa hạnh phúc được trình bày trong những phần đầu của kinh Điềm lành gồm hai phạm trù đó; nghĩa là sự vui mừng, và an lạc của cá nhân cùng tương quan sinh khởi với sự giàu có, gia đình hạnh phúc, sống lâu, khỏe mạnh, danh vọng, và tiện nghi, v.v...
Có một trường hợp ngoại lệ liên hệ đến hạnh phúc về tinh thần; đó là những chúng sinhđạt được một trong bốn tầng bậc của Tứ thiền(Dhyāna, trance).(4) Đối với những chúng sinh này, hạnh phúc về tinh thần không còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và cảm thọ của các quan năng, mà thuần là sự sinh khởitừ tâm thức. Theo Phật giáo, hạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọthế giới bên ngoài hay hạnh phúc về tinh thần - dù tinh thần ở mức độ cao như ở Tứ thiền - tất cả đều bị chi phối bởi luật vô thường. Do vậy, loại hạnh phúc này được gọi là hạnh phúctương đối.
B. Hạnh phúc thực sự
Hạnh phúc thực sự theo quan điểmPhật giáo là gì? Đó là sự chấm dứt khổ đau (dukkha) được giải thích như là Diệt đế(Nirodhā, P.) trong Tứ diệu đế; hay nói một cách rốt ráo, hạnh phúc thực sự là sự tự tại trong khổ đau, sầu muộn và sợ hãi. Chữ khổ hay dukkha nghĩa là không được xứng ý toại lòng (unsatisfactory). Trong giáo lýTứ diệu đế, ngoài ý nghĩa chỉ rõ những kinh nghiệm khổ đau thường tình trong đời như sinh, lão, bệnh, tử, v.v..., ý nghĩathâm sâu của khổ hay dukkha được cho là năm uẩn có tính chấp chặt hay bám víu (pañc' upadanakkhandha, P. The five aggrevates of grasping), thông thường được diễn đạt trong từ Hán-Việt như “Ngũ uẩn thủ là khổ”. Trong trường hợp này, chữ “khổ” mang ý nghĩa không được toại ý được hiểu ở mức độ rộng hơn. Vì sao không được toại ý? Vì bản chất của ngũ uẩn hay bản chất của con người và cuộc đời là vô thường, nhưng ước muốn của con người là thường, do vậy khổ - Vô thường là khổ (yad aniccam tam dukkham, P.). Sự không được toại ý làm con ngườithất vọng và chịu những hệ quả sầu muộn, lo âu và sợ hãi. Khổ do không được toại ýhiện diệnthường trực và chi phốiđời sốngcon người - ngoại trừ những người đã giác ngộ.
Nhìn vào thực tế của đời sống, con người luôn luôn ước mongbản thân và những sở hữu yêu quý của bản thân như tiền bạc, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, và những ý thức hệ, v.v... được trường tồnvĩnh cửu; nhưng cuộc đời là vô thường nên ước mongvĩnh cửu của con người không bao giờ hiện thực. Và hậu quả của sự ước mong không được như ý này làm cho người thất vọng, sợ hãi, sầu muộn và lo âu khi nghĩ đến hoặc khi mất đi những gì mình yêu quý đó.
Làm sao để đoạn trừ khổ đau, sợ hãi, lo âu và sầu muộn; hay nói cách khác, làm sao để đạt đượchạnh phúc thực sự trong cuộc sống? Phương pháp mà Phật đã dạy cho Dighajanu là sự phát triển trí tuệ qua tu tập để đoạn tận khổ đau (điều 4), và đây chính là nội dung được Đức Phật dạy trong Đạo đế(Magga,P.) trong giáo lýTứ đế. Mục đích của sự phát triển trí tuệ(Paññā, P.) là giúp cá nhân thấy được bản chất của ngũ uẩn hay bản chất của con người và cuộc đời là vô thường. Để phát triển trí tuệ, cá nhân phải thực hành giới (Sīla, P.) hay những đạo đứccăn bản, và thực tậpthiền định (meditation). Giới giúp cho phát triển định, và định giúp phát triển tuệ.
Thực tậpthiền định trong Phật giáo đòi hỏi hai phần hỗ tương: tập trung tâm không để tán loạn - định(Samādhi, P. Concentration) và hướng tâm theo dõi và ghi nhậnrõ ràng trên đối tượng - niệm (Sati, P.Mindfulness) và đối tượng này có thể là một trong bốn loại - thân, cảm thọ, tâm và pháp.(5) Do năng lực tập trung tâm để quan sát và ghi nhậnrõ ràng trên đối tượng, hành giảtrực nhận được tính bất ổn, biến chuyển hay vô thường của đối tượng. Khả năng trực nhận hay kinh nghiệm trực tiếp này, được gọi là tuệ(Paññā, P. Wisdom)(6).
Do trực nhận được tính vô thường của đối tượng, hành giảgiải phóngý niệmbám víu và mong cho những gì mình yêu thích được vĩnh cửu, và kết quả là khổ đau, thất vọng, sầu muộn và sợ hãi được đoạn trừ hoàn toàn. Điều quan trọng phải được nhấn mạnh ở đây là người thực chứng được cuộc đờivô thường, cũng phải sống như bao nhiêu người khác trong cuộc đời. Nghĩa là họ cũng phải làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ và cần phải có các phương tiện để tạo cho cuộc sống được hạnh phúc. Tuy nhiên, họ chỉ xem những thứ đó như là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Người đó có một cuộc sống tự chủ, không bị nô lệ bởi tiền bạc, danh vọng và những tiện nghi vật chất khác. Họ tự tạian nhiên trong vui buồn, vinh nhục và thăng trầm của cuộc sống. Đây chính là ý nghĩahạnh phúc thực sự được hiểu như là sự tự tại trong khổ đau, sầu muộn và sợ hãi, được Đức Phật dạy ở những bài kệ cuối của kinh Điềm lành:
Khắc khổ và phạm hạnh,
Thấy được lý Thánh đế,
Giác ngộ quả: Niết-bàn,
Là điềm lànhtối thượng.
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không sầu, không động,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lànhtối thượng.
Ai sống được như thế,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được an toàn
Những điềm lànhtối thượng.
Người như vậy trong đạo Phật gọi là “người tỉnh thức” hay “người giác ngộ”. Do trực nhận hay giác ngộ được tính vô thường của con người và cuộc đời, tâm của vị ấy được tịnh hóa, không còn bị lòng tham và bám víuchi phối. Lòng tham và tính bám víuđồng nghĩa vớivô minh, vị ngã và độc ác. Ngược lại với vô minh, vị ngã và độc ác, người giác ngộ có trí tuệrốt ráo và lòng từ bi vô biên. Do lòng từ bi vô biên, người giác ngộ thấy được khổ đau của tất cả mọi chúng sinh như là khổ đau của chính mình, và nguyện cứu giúp tất cả; với trí tuệrốt ráo, người giác ngộ thi thiết những phương tiện thiện xảo để đem lại hạnh phúctương đối (như tiền bạc, danh vọng, hạnh phúcgia đình, tiện nghi vật chất, v.v...) cho chúng sinh và từ đó hướng dẫn chúng sinhthực tậpgiáo pháp để được hạnh phúc thực sự.
Sống an nhiêntự tạitrong đời với tâm không bị tham lambám víuchi phối, và làm tất cả mọi việc để lợi ích cho chúng sinh với động cơ của lòng từ bi là ý nghĩa “siêu đạo đức” trong Phật giáo. Đức Phật là người giác ngộ. Đại TríVăn Thù Bồ-tát, Đại HạnhPhổ Hiền Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát, Phật hoàng Trần Nhân Tông, v.v..., là những người giác ngộ. Những vị này giúp chuyển hóa khổ đau của chúng sinh thành hạnh phúc và thế giớiô trược thành tịnh độ.
C. Kết luận
Qua hai bài kinh trên, ta thấy ngôn ngữ và cách diễn đạt trong kinh Hạnh phúc người tại gia rất cụ thể và thực tế với đời sống; trong khi đó, ngôn ngữ và cách diễn đạt trong kinh Điềm lành có nét văn chương và đậm tính triết lý. Đối tượng để Phật giảng trong kinh đầu là người - Dighajanu - trong khi đó, kinh sau là chư thiên. Ngoài những điểm khác biệt trên hình thức đó ra, hai bài kinh đều có nội dung thống nhất, chuyển tải quan điểmhạnh phúc trong Phật giáo; đó là, trong khi không phủ nhận giá trịhạnh phúc mà con người (và chư thiên) có được trong cuộc đời, Đức Phật dạy cho chúng ta biết rằng đó không phải là hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc thực sự theo Phật dạy là sự trực nhận được hạnh phúc mà con người và chư thiên có được chỉ là tương đối (vô thường). Đây chính là ý nghĩa “Sinh tử tức Niết-bàn”, “Phiền não tức Bồ-đề” mà Phật giáoĐại thừaxem như là triết lý tu tập và phương thức hành đạo của Bồ-tát.
TT.Thích Giác Như
_____________________
(1) Trong bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, đề mục của kinh là “Dighajanu, Người Koliya.”, chương 8, số 54 trong Tăng chi bộ kinh, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com. Dựa trên nội dung của bài kinh, tôi chuyển đề mục thành đề “Kinh Hạnh phúc người tại gia”. Mục đích là giúp độc giả nghe thuận tai và dễ nhớ.
(2) “Phẩm Lạc,” chương II, phẩm VII, Tăng chi bộ kinh(Aṅguttara Nikāya); Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com
(3) “Kinh Điềm lành” (Mangala Sutta), Tiểu bộ kinh (Khuddhaka Nikāya). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com
(4)Tứ thiền:
- Sơ thiền: Do tách rời lòng dục và những tâm lýbất thiện, tâm của hành giả được “hỷ” và “lạc” (rapture and happiness); tuy nhiên, tâm vẫn còn “tầm” và “tứ” (reflection and investigation).
- Nhị thiền: Do tâm được trở nên tập trung và tĩnh lặng, hành giả loại trừ được “tầm” và “tứ.” Hỷ và lạc vẫn còn.
- Tam thiền: Do nỗ lựcan trú tâm trong tĩnh lặng, nên “hỷ” được đoạn trừ, và chỉ còn “lạc.”
- Tứ thiền: Tâm của hành giả được hoàn toàn tĩnh lặng (equanimity), vắng mặt những ý niệm thiện, ác, hạnh phúc hay khổ đau.
(5) “Kinh Niệm xứ,” số 10, Trung bộ kinh(Majjhima Nikāya). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com. Đây là một trong những bài kinh đầy đủ và quan trọng nhất nói về thiền định, đặc biệtnhấn mạnh về sự phát triển Minh sát tuệ(Vipassanā, P. Insight). Trong kinh Đức Phật dạy, Tứ niệm xứ hay bốn lãnh vực gồm thân, thọ, tâm và pháp, mà hành giả cần để tâmchánh niệm là con đường trực tiếp dẫn đến giải thoát hay hạnh phúc thực sự.
(6)Trí tuệ trong Phật giáobao gồm ba tầng bậc: nghe, nghĩ và thực hành(văn, tư, tu). Để đoạn tận khổ đau, sầu muộn, lo âu, hành giả phải thực hành (tuệ). Tuy nhiên, nghe và tư duy về vô thường hay bản chấttương đối của con người và cuộc đời sẽ giúp đoạn thiểu khổ đau, sầu muộntrong đời sống. Bởi tiến trình nghe pháp hay tụng kinh, ý nghĩavô thường sẽ thẩm thấu vào tâm thức của mình và sẽ tạo nên một kháng lực mỗi khi chúng ta gặp những sự cốbất như ý trong cuộc sống. Từ đó, những khổ đau, sầu muộn sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể. Đây là lý do tại sao các Phật tử phải nên nghe pháp và tụng kinhthường xuyên.
Vào năm 2015 ngôi chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin của xứ Đức, đã đảm nhận trọng trách tổ chức một khóa An Cư Kiết Đông cho hơn 100 vị Chư Tăng Ni đến từ các nơi, chủ yếu là Âu Châu. Gần mười năm sau, Chùa lại được hân hạnh đón tiếp lần thứ hai gần 100 Vị đến tu tập những 10 ngày từ mùng 9 đến 18 tháng 12 năm 2024, đó là khóa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 12, nếu không trừ ra vài khóa vắng bóng thời Cô-Vít ngày nào!
Ngày 3/1, ngày thứ tư kể từ khi đặt chân tới đất Thái Lan, đoàn của sư Minh Tuệ đang đi bộ dọc đường 217 trên khu vực thuộc huyện Phibun Mangsahan, tỉnh Ubon Ratchathani ở miền đông bắc Thái Lan.
Thay mặt Ủy ban Quốc gia Đại lễ Vesak LHQ 2025, xin trân trọng kính mời quý cư sĩ học giả tham gia viết bài và trình bày tại Hội thảo Vesak Liên Hiệp Quốc 2025, diễn ra từ ngày 6 đến 8 tháng 5 năm 2025 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hội thảo năm nay với chủ đề chính: “Hợp nhất và Bao dung vì Nhân phẩm Con người: Tuệ giác Phật giáo cho Hòa bình Thế giới và Phát triển Bền vững” cùng các tiểu chủ đề mang tính thời sự như:
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.