Chương 3 Hạnh Tôn Sư

26/12/20185:43 SA(Xem: 5732)
Chương 3 Hạnh Tôn Sư

ĐẠO ĐỨC NGƯỜI XUẤT GIA
Đại sư Liên Trì
Thích Nguyên Hùng dịch

Chương 3
HẠNH TÔN SƯ

3.1. Nỗ lực làm ruộng

Đời nhà Tấn, ở Trường An, chùa Ngũ Cấp, có pháp sư hiệu Đạo An, mười hai tuổi xuất gia. Sư trời sanh bẩm tánh thông minh, nhưng ngoại hình rất xấu, nên không được sư phụ quan tâm, bắt sư làm những việc ruộng đồng nặng nhọc. Sư chăm chỉ làm lụng như vậy trải qua được ba năm, dù cực khổ đến đâu cũng chưa từng biểu hiện thái độ oán hận, phiền lòng. Sau mấy năm, sư tìm sư phụ cầu học kinh điển. Sư phụ đưa cho sư một quyển kinh “Biện Ý”(1) có hơn 5 ngàn chữ. An đại sư mang cuốn kinh này đi ra ruộng, lúc nghỉ ngơi mang kinh ra đọc, đến tối mới trở về, lại xin sư phụ truyền cho kinh khác. Sư phụ nói: “Hôm qua mới đưa cho thầy cuốn kinh đã học xong chưa lại xin học cuốn kinh khác!”. Sư trả lời: “Dạ, con đã đọc thuộc kinh rồi!”. Sư phụ tuy rằng rất kinh ngạc nhưng vẫn chưa tin lắm, lại đưa cho sư cuốn kinh “Thành Cụ Quang Minh”(1), cuốn kinh này gần một vạn chữ. An đại sư nhận kinh mang ra đồng, hoàng hôn lại mang kinh trở về, trả sư phụ và xin được học cuốn khác. Sư phụ bảo ngài tụng lại, ngài tụng không sai một chữ, sư phụ mới vô cùng kinh hãi, hết lời khen ngợi.

Lời bình:

Thiên tài của An đại sư giống như bảo ngọc trong cung điện, vốn để cho người ta chiêm ngưỡng, vậy mà bảo ngài đi cày ruộng! Vậy mà ngài vẫn cam chịu lao khổ không than oán. Các đệ tử ngày nay, có được một chút tài năng, đối sử với nó một chút không trân trọng là muốn bỏ đi chỗ khác rồi, huống nữa là gọi nó đi làm những việc ruộng đồng cần lao phục dịch? Mà là lao động phục dịch lâu ngày nữa chứ! Nghĩ đến đây, tôi không cầm được lời than thở.

3.2. Tự đánh trách mình

Triều nhà Tấn, tại Kinh Châu, chùa Trường Sa, có Thiền sư hiệu Pháp Ngộ.

Pháp Ngộ lạy Thiền sư Đạo An làm thầy. Sau đó về trú trì chùa Trường Sa, ở Giang Lăng, diễn giảng nhiều kinh, có hơn bốn trăm người đến học Phật với sư.

Một hôm, có vị Tăng trong chùa lén uống rượu, sư Pháp Ngộ bắt được, tiến hành sử phạt, nhưng chưa phạt thì vị Tăng ấy chạy vụt ra cửa trốn mất. Đại sư Đạo An ở xa nghe chuyện này, bèn dùng một ống tre lắp đặt một cây roi trong đó, rồi phong bao lại gởi đi cho sư Ngộ. Sư Ngộ mở phong ra thấy cây roi, liền nói:

“Đây là do cái chuyện ông thầy uống rượu mà ra, ta không đủ năng lực dạy dỗ và lãnh chúng, phải khiến cho sư phụ ở xa lo lắngban cho cây roi này!”.

Thế rồi sư đánh kiềng chùy triệu tập đại chúng lại. Sư Ngộ đem cây roi ra đặt trước mặt, đốt hương đảnh lễ chí kính, tự  mình nằm xuống đất, sai thầy duy na cầm roi đánh ba roi. Sư rơi nước mắt tự trách. Một lần như thế, Tăng tục ở địa phương đó không ai là không khen ngợi và bội phục. Nhân sự việc này mà mọi người cảm kích phấn phát tinh tấn tu tập rất nhiều. 

Lời bình:

Ôi! Giả sử người hiện nay mở phong bao ống tre của sư phụ gởi ra, thấy một cây roi, mà không đập vỡ ống tre, chặt đứt cây roi, mở lời chửi rủa sợ rằng còn rất ít. Còn như sư phụthánh nhân, đệ tửhiền nhân đây, tuy thời gian đã quá hơn ngàn năm đến nay, tôi vẫn tiếp tục vì hai đại sư đây làm mãi vẫn không thể than nhiều!

3.3. Vì thầy lễ Phật sám hối

Triều nhà Tấn, ở Thế Thanh, Sơn Trúc, có pháp sư hiệu Pháp Khoáng.

Sư họ Phi, mồ côi cha mẹ từ thuở ấu thơ, phụng thờ kế mẫu rất hiếu thuận nên nỗi tiếng là người con hiếu.

Sau xuất gia, bái pháp sư Đàm Ấn làm thầy. Lần nọ pháp sư Ẩn bị bịnh nặng, rất nguy hiểm. Khoáng đại sư 7 ngày 7 đêm, thành kính lễ Phật sám hối hồi hướng công đức cho sư phụ thoát khỏi bệnh hiểm nghèo. Đến ngày thứ 7, hốt nhiên thấy hào quang năm sắc chiếu sáng khắp phòng đại sư Đàm Ấn. Ấn đại sư tỉnh dậy, nói rằng thấy có một người dùng tay xoa thân thể của mình, thế là ngay sau đó lành bệnh.

3.4. Tuyết ngập quá gối

Triều đại nhà Lương (502-255), Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang, lúc đầu yết kiến vua Lương Vũ Đế, nhưng thấy không độ được vị vua này nên sang đất Ngụy.

Triều nhà Ngụy (534-550, thuộc bắc Triều), có Thần Quang, ở huyện Nghiệp Trung, đương thời là người đứng đầu trong giới học vấn, giải nghĩa.

 Bồ Đề Đạt Ma đến đất Ngụy, ở ẩn trên Thiếu Lâm, động Thiếu Thất. Thần Quang đến động Thiếu Thất muốn bái sư làm thầy. Đạt Ma ngồi quay đầu vào vách không nói một lời. Cả một ngày một đêm tuyết rơi lớn, Thần Quang vẫn cứ đứng trầm mình trong tuyết lạnh giữa sân, tuyết ngập đến gối. Đạt Ma bấy giờ quay đầu lại hỏi: “Ông đứng trầm mình trong tuyết lâu như vậy, muốn gì?”.

Thần Quang rơi lệ thưa: “Ngưỡng mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng sanh”.

Đạt Ma nói: “Diệu pháp vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm mà làm được, khó nhẫn mà nhẫn được, hạng tu tập như ông có thể tu chứng được sao? Hôm nay ông đem lòng khinh mạn, đòi hỏi muốn cầu chân đế Phật pháp, quả là làm mộng, lao khổ vô ích”.

Thần Quang nghe quở vậy, vì muốn biểu thị quyết tâm cầu pháp không sợ lao nhọc bản thân, liền lấy dao chặt đứt cánh tay trái đặt trước mặt Đạt Ma.

Đạt Ma nói: Chư Phật lúc cầu đạo đều vì pháp quên thân, hôm nay ông chặt đứt một cánh tay cũng có thể cầu pháp được rồi.

Thần Quang thưa: Tâm con không được an, xin thầy an tâm cho con.

Đạt Ma nói: Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.

Thần Quang nói: Con tìm tâm mãi mà không thấy.

Đạt Ma nói: Vậy ta đã an tâm cho người rồi đó!

Ngay câu nói ấy Thần Quang bừng ngộ, tâm pháp Thiền môn truyền cho ngài, trở thành tổ thứ 2 Thiền tông Trung Hoa.

Lời bình:

Nhị tổ Thần Quang được truyền tâm pháp là do lòng tinh cần đã đến cực độ, cơ duyên đã chín muồi. Có như đá nam châm hút sắt, hổ phách nhặt hạt cải, một cái vỗ tay, một cái đánh… tức là khế hợp, bùng vỡ, tinh thông. Không nhất định phải chặt tay! Người ngu si muốn bắt chước sư Thần Quang, không biết học tinh thần của Ngài, chỉ bắt chước cầm dao chặt đứt thân thể. Ôi! Nếu như truyền pháp nhất định phải chặt tay, như vậy thì lịch đại chư vị tổ sư thân thể đều không nguyên vẹn, mỗi mỗi tàn phế; muốn thành Phật tất phải thiêu thân thể, như vậy thì tiên thánh, tiên hiền chẳng có ai còn mạng sống. Thật ra, chặt tay là chặt tay phiền não, thiêu thân là thiêu thân vô minh! Hi vọng người muốn tu tập thiền nên giúp đỡ nhau, để cổ vũ nhau như vậy.

3.5. Xa thầy tự trách

Đời nhà Đường, ở Tương Châu, chùa Biện Giác, có sư hiệu Thanh Giang.

Thanh Giang từ nhỏ đã lãnh ngộ chân lý cuộc đời là huyễn mộng, như bọt nước, như ánh chớp, tất cả các pháp đều vô thường, nên đến yết bái luật sư Đàm Nhất làm thầy. Thân cận gần gũi theo luật sư Đàm Nhất học kinh. Kinh sách chỉ một lần qua mắt là hiểu rõ. Ngài Minh Nhãn nói: “Vị Tăng này là con ngựa thiên lý của Phật pháp”. Có thời gian, ngài với sư phụ Đàm Nhất nhân duyên không hợp, thế là ngài đành xa sư phụ đi hành cước tham học các nơi, đi đến đâu đều mở pháp hội giảng kinh. Sau đó, ngài tự trách mình, nói : “Hầu như đi khắp một nửa thiên hạ, tham học vô số pháp sư, nếu so sánh khả năng với sư phụ Đàm Nhất của ta trước đây, người hơn thật chẳng có nhiều”. Thế là ngài trở lại với luật sư Đàm Nhất.

Lúc chúng Tăng đang vân tập, sư vạn lần xấu hỗ cúi đầu nhận tội, nói: “Con, Thanh Giang, hôm nay trở về gần gủi với sư phụ, hi vọng sư phụ từ bi mà thâu nhận lại con làm đồ đệ”.

Lúc ấy, Đàm Nhất đại sư trách ngài, không muốn nhận trở lại. Thanh Giang khóc như mưa, lạy thầy sám hốithan thở: “Trước đây do con vô tri, giờ đây đã hiểu rõ, khẩn cầu sư phụ từ bi chấp nhận cho con trở lại hầu dưới toà, để cho con được mãn nguyện làm tròn bổn phận người học trò”. Ba lần bi thiết khẩn cầu như thế, Đàm Nhất thương, khôi phục lại quan hệ thầy trò lúc đầu. Sau Đại sư Đàm Nhất viên tịch, Thanh Giang lại đến Nam Dương bái yết Huệ Trung Quốc sư, được Quốc sư coi trọng truyền yếu quyết tâm pháp cho.

Lời bình:

Giác ngộ được rằng mình xa rời bậc thánh hiền là một hành động sai lầm, chấp nhận sự thống mạ mà vẫn không thối tâm, có thể nói đó là người minh trí và lại thành kính nữa; sau lại được quốc sư Huệ Trung coi trọng và truyền cho tâm pháp cũng vì Ngài là người minh tríthành kính vậy! Những kẻ hậu bối thiển kiến, niềm tin mỏng manh, đối xử với nó một chút không tốt, thì muốn bỏ đi, một khi đi không bao giờ trở lại, mới quở trách nó một vài câu, thì đã luôn luôn ôm hận trong lòng, như vậy thì dù có gặp được sư phụ cao minh, lại có thể dùng được sao? Giống như kẻ bình dân được vận may gặp Hoàng đếkết giao với anh ta mà chẳng được nửa chức quan, thật đáng tiếc thay!

3.6. Đón thầy về ở chính đường

Đời nhà Đường, tỉnh Trường Sa, núi Thạch Sương, có Thiền sư hiệu Khánh Chư.

Khánh Chư (807-888) họ Trần, người xứ Tân Cam, Lô Lăng (nay là huyện Tân Can, tỉnh Giang Tây) Trung Quốc. Năm 13 tuổi, sư nương Thiền sư Hồng Tỉnh Tây Sơn Thiệu Giám cạo tóc xuất gia, năm 23 tuổi đến Tung Sơn thụ giới cụ túc, học giới luật. Về sau sư chuyên chí Thiền, làm Mễ đầu ở dưới hội của ngài Quy Sơn Linh Hựu, siêng năng phục vụ đại chúng. Sư còn đến Vân Nham Đàm Châu (nay là huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam) yết kiến Đạo Ngô Tông Trí, ngay nơi lời nói khế cơ, từ đây đại ngộ. Ở Trường Sa, sư sống lẫn lộn cùng thế tục, mọi người đều chẳng biết. Động Sơn Lương Giới sai tăng đi tìm hỏi, sư mới lộ diện, đến núi Thạch Sương xiển dương Thiền tông, chư tăng tụ hội đến trên 500 vị.

Lúc Đạo Ngô sắp viên tịch, đặc biệt coi trọng Khánh Chư, đem y bát chính truyền của mình trao cho. Sau Đạo Ngô rời chúng đi đến ở với Khánh Chư. Khánh Chư mời đại sư Đạo Ngô lên ở chính đường, rồi tự mình chăm sóc cúng dường, lúc đi ra đường nhất định dìu thầy đi, lúc ngồi nhất định đứng hầu một bên, lễ phép, kính dưỡng hết sức tận tình.  

3.7. Hầu thầy lâu năm

Đời nhà Đường, tỉnh Chiêu Hiền, có Thiền sư hiệu Hội Thông. Thuở nhỏ, Hội Thông làm Lục quan đại sứ (quan liên lạc trong cung đình, vương thất) của triều vua Đường Đức Tông (780-805), nhưng không muốn theo nghiệp công danh phú quý, nên bỏ hết, đến yết bái  thiền sư Đạo Lâm Điểu Khòa, cầu thế độ xuất gia. Lúc đầu Đạo Lâm không nhận. Ngài bi thiết khẩn cầu, cuối cùng Đạo Lâm mới xuống tóc thế độ và nhận làm đệ tử. Ngài hầu hạ Thiền sư, tùy tùng hai bên, siêng năng cần mẫn chưa từng thay đổi, trải qua 16 năm, vẫn chưa được Thiền sư khai thị. Thế rồi một hôm, ngài tâm sự với thầy, ý muốn đi xa, Thiền sư Điểu Khòa hỏi ông muốn đi đâu? Ngài đáp: “Muốn đi đến các thiền viện tham học Phật pháp”.

Đạo Lâm Thiền sư nói: “Phật pháp ta đây cũng có một ít”, nói xong sư nhặt lấy một sợi lông vải nơi y thổi một cái. Thông pháp sư hốt nhiên đại ngộ. Nhân một sợi lông vải rơi xuống mà khai ngộ, cho nên người ta gọi ngài là “Thị giả bố ma”(1).

Lời bình:

Người ta chỉ thấy Thông Thiền sư qua sự kiện thấy một sợ lông vải rơi xuống mà khai ngộ, chứ không biết rằng trước đó Thiền sư đã phải trải qua 16 năm tinh cần không giải đãi, nghiên tập Phật pháp và thường ngày tiếp nhận, huân tập một cách vô hình trung nơi Thiền sư Điểu Khòa. Đã đến lúc, giống như giây cung đã giương lên, một khi chạm đến liền phát ra cảnh giới, nếu như chưa từng có công phu nhiều năm tinh cần thì làm sao có ngày khai ngộ đó? Gặp được người minh sư như trên, hi vọng không cần quá cấp bách! 

3.8. Cẩn thận giữ gìn di mệnh của thầy

Triều nhà Tống, ở Nam Nhạc, am Thạch Đầu, có Thiền sư hiệu Hoài Chí.

Sư Hoài Chí người Kim Hoa. Lúc tuổi thanh niên học giảng kinh, do vì bị kích thích bởi một vị tu thiền, sư bỏ giảng kinh đi tham thiền khắp 4 phương. Sau sư đến đạo tràng Động Sơn (Đạo tràng tông Tào Động, Tổ sư Động Sơn Lương Giới), được Thiền sư Chơn Tịnh Văn khai thị cho mà ngộ đạo. Sau theo hầu Thiền sư Chơn Tịnh Văn rất lâu. Một hôm, sư muốn xa Thiền sư Văn. Văn nói với sư: “Thiền học của thầy tuy cao siêu thoát tục, chỗ ngộ cũng rất lớn, nhưng nhân duyên hoá độ chúng sanh của thầy không tốt, miễn cưỡng hóa độ chỉ là dẫn đến sự huỷ báng, cẩn thận kẻo trở lại tạo nghiệp”. Chí thiền sư lãnh mệnh bái biệt, khắc ghi lời dạy trong lòng.

Đến Viễn Châu, người trong châu thỉnh sư trú trì chùa Dương Kỳ, nhưng có người làm trở ngại nên bỏ đi. Sau chu du đến Hồ Nam, Tương Giang, quan mục Đàm Châu thỉnh sư trụ trì chùa Thượng Phong hoặc Bắc Thiền, sư đều từ chối. Rồi sư trụ lại trong một túp lều tranh ở Hành Sơn hơn 20 năm. Sư có một bài kệ như vầy:

“Thấy rõ vạn sự, bỏ hết vạn duyên, việc đời chẳng tranh đua, giả vờ thành một kẻ si ngốc, thật thà chất phát, ta rong chơi trong núi rừng, làm bạn với lũ nai cùng nhau du ngoạn, gai gốc bám cũng chẳng thèm gỡ, lấy nắm tay gối đầu, gập cánh tay mà ngủ. Từ vô lượng kiếp đến nay ta trôi lăn trong sanh tử, có bao nhiêu cuộc sống, bao nhiêu thế giới giống như cuộc sống hôm nay, ở am tranh giữa núi rừng cây cỏ xanh um như thế này không?”

Cuối cuộc đời, sư tham bái Thiền sư Long An Chiếu. Chiếu Thiền sư an bài cho sư ở An Lạc Cung trong chùa. Sư ở tại đó cho đến khi viên tịch.

Lời bình:

Người ta ai cũng thích nỗi danh, chứ còn tôn trọng giữ gìn di mệnh của thầy, từ chối mời thỉnh mọi phương diện, hiện tại rất khó tìm! Người bây giờ chỉ tìm cầu danh lợi, ném bỏ lễ nghĩa không thèm nhìn tới, người ta không thỉnh không mời tự mình tìm đến rất nhiều, như thế đó còn nhớ đến lời huấn thị của thầy sao?!

3.9. Vâng lời dạy của thầy suốt đời ẩn cư

Thanh Tố, Thiền tăng nhà Tống, sau khi được thiền sư Từ Minh Sở Viên, ở Thạch Sương, Đàm Châu truyền pháp, sư ẩn cư trong chúng. Thiền sư Đâu Suất Duyệt bấy giờ cũng ở chung. Một hôm, trời tối, Đâu Duyệt nghe nói chuyện trong đêm, hỏi ra mới biết thiền sư Thanh Tố từng là thị giả thiền sư Từ Minh, một phen kinh hãi. Hôm sau, Đâu Duyệt chỉnh đốn dung nghi trang nghiêm đến yết bái Thiền sư Tố. Về sau lại thường xuyên thỉnh giáo, trải qua mấy lần khai thị và khảo phát, Duyệt Công cuối cùng đại ngộ.

Thiền sư Tố cảnh giác Duyệt Công rằng: “Ta do vì phước báo cạn mỏng, tiên sư dạy ta không được truyền pháp độ chúng, hôm nay ta thấy ngươi cũng chí tâm thành ý, thương ngươi mà quên đi lời giáo giới của tiên sư, hi vọng từ đây về sau ngươi không được nói pháp do ta truyền”.

Tố Thiền sư ẩn cư mai danh trong chúng suốt đời hầu như không có ai biết Ngài là một Đại đức đã khai ngộ.

3.10. Binh nạn không lìa

Triều nhà Nguyên ở Bắc Kinh, có Thiền sư hiệu Ấn Giản (1202-1257).

Sư họ Tống, tự Hải Vân, người xứ Lam Cốc (nay là huyện Lam, tỉnh Sơn Tây) Trung Quốc. 8 tuổi bái Thiền sư Trung Quán Chiểu làm thầy. Lúc 18 tuổi, quân Nguyên dấy binh đánh hạ thành Ninh Viễn, dân chúng đều đi tị nạn, sư Giản vẫn phục thị thiền sư Trung Quán như cũ, không có ý chạy trốn. Quán Thiền sư nói với sư:

- Ta tuổi đã lớn, chẳng biết làm gì, thầy tuổi đang thanh niên còn có việc làm, hà tất phải lưu lại nơi đây, bên lão già sắp chết này làm gì? Thầy hãy tự mình đi lánh nạn đi!

Ấn Giản rơi lệ nói:

- Nhân quả thì một sợi tơ kẻ tóc không sai, sống chết có số, con làm sao có thể bỏ sư phụ mà đi, hoá ra là kẻ tham sống sao?

Hôm sau thành Ninh Viễn bị phá vỡ, quân lính đầu hàng. Thống sự quân Nguyên, Sử Công Thiên, hỏi sư Giản: “Ngươi là người thế nào?”. Sư Giản đáp: “Là người xuất gia”. Sử lại hỏi: “Ngươi ăn thịt chứ?”. Giản sư đáp: “Thịt gì?”. Sử nói: “Thịt người”. Giản sư đáp: “Hổ là loài súc sinh hung dữ còn không ăn thịt đồng loại, huống chi là con người?”. Sử nghe nói rất khen thưởng, nhân đó thả sư đi.

3.11. Sư Tánh Không

Ở huyện Ngô, chùa Tứ Châu, có một vị Tỳ-kheo pháp hiệuTánh Không. Tánh Không bỏ đạo tràng tụng kinh sám hối, đến bế quan ở Hiểu Phong sơn. Thầy đã từng cho tôi những bài văn thệ nguyện và những bẩm cáo mười phương v.v… của thầy, tôi rất khen ngợi, tán thán hoằng nguyện của thầy. Nhưng không bao lâu thầy bị ma nhập, điên rồ phát cuồng mà chết. Tôi đau đớn tưởng niệm thầy, vô cùng thương xót, vừa giận vừa tiếc, bèn truy cứu nguyên nhân, thì ra duyên cớ là vì lúc mới phát tín tâm, thầy ấy có tín tâm nhưng không có trí tuệ! Người xưa, trước khi tâm chưa khai ngộ, không ngại đường xa vạn dặm tìm thầy học đạo, xa một Tòng Lâm này liền vào một Đạo tràng khác, cho đến cùng trời cuối đất, đi học khắp nơi, chưa có một giờ một khắc nào dừng nghỉ, mỏi mệt, lười biếng. Sau khi tâm địa đã minh bạch, mới vào ẩn cư trong rừng, bên suối, dùng công phu để nuôi lớn và giữ gìn minh tâm kiến tánh. Còn giống như thầy này đây không dễ gì xuất gia tu hành được, chỉ muốn thoát ly năm uẩn mạnh mẽ như lửa thiêu đốt nhà thế tục, bèn nhắm mắt bước vào tử quan, tự tuyệt huệ mạng ư? Do vì lỗi lầm của bản thân mình chưa được minh bạch, những nghi hoặc trong tâm chưa phân biệt rõ ràng, cho nên mới biến khéo thành vụng, muốn cầu tiến bộ mà ngược lại bị đọa lạc. Có rất nhiều người lúc mới phát tâm tu hành, ở am tranh trong rừng sâu núi thẳm, ở một mình tu đạo, tự lấy làm thanh cao. Giỏi lắm! Tuy nhiên không bị ma nhập phát điên, nhưng cũng vì vậy không thể biết được lỗi lầm, không được giải nghi, vô cùng bất lợi cho việc tu hành, người mắt sáng thử nghĩ xem.

3.12. Lục quần Tăng

Thời Phật còn tại thế, có sáu vị Tì kheo, tên là: Nan Đà (Nanda), Bạt Nan Đà (Upananda), Ca Lưu Đà Di (Kālodāyin), Đan Đà (Chanda), Mã Sư (Aśvaka), và Mãn Túc (Punarvasu) kết bè kéo cánh làm toàn những việc không hợp oai y, không như pháp, vì vậy thường bị Đức Phật quở trách, bị các đệ tử lớn coi thường. Nhưng, từ xưa đến nay, người ta vẫn nói lục quần Tỳ-kheo thời Đức Phật còn tại thế giống như chư vị Bồ tát Mã Minh, Long Thọ sau này, khi đức Phật đã diệt độ. Ôi! Khổng Phu Tử đã từng chỉ trích Tử Lộ khỏe mạnh mà thô lỗ, Nghiễm Cầu thì dùng chính sách phiền nhiễu tàn khốc ngược đãi nhân dân, nói Phàn Tu là kẻ tiểu nhân, nhưng mà, nếu như dùng Tử Lộ và Nghiễm Cầu làm quan thì sửa trị chính sách được. Tuy nhiên, so sánh những người mà Khổng Phu tử khen ngợi lúc bấy giờ có chỗ không bằng Lục quần tăng, nhưng ngày nay, thì là trác việt và cả thế giới cũng hiếm có. Người hiền thời bây giờ thì có thể làm thái phủ hoặc huyện lệnh, giỏi lắm thì làm tướng! Sau này các danh tướng như Uyên Hà, Tào Tham, Cung Thắng, Hoằng Bá, Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Diêu Sùng, Tống Cảnh, Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Âu Dương Tu, cũng chưa hẳn có thể so sánh được với những người trên! Nếu như Lục quần Tỳ-kheo là những người thù thắng, căn cứ vào đó mà người đời sau này lại có thể làm điều kỳ quái vậy sao? Cho nên, trong kinh ‘Đại Phương Đẳng Đại Tập’, ở phẩm ‘Nguyệt Tạng Diêm Phù Đề’, đức Phật nói: “Sau khi ta diệt độ trong khoảng 500 năm đầu, các Tỳ-kheo giải thoát giống như pháp của ta rất kiên cố, 500 năm tiếp theo, chánh pháp Thiền tông tam muội của ta được trụ kiên cố, 500 năm tiếp theo nữa, những người đọc tụng, đa văn được trụ kiên cố, 500 năm tiếp theo nữa trong pháp của ta kiến tạo nhiều chùa tháp được trụ kiên cố, và 500 năm tiếp theo nữa là thời kỳ đấu tranh kiên cố, lời tụng pháp trong sáng bị ẩn đi, nhưng chưa thật sự tổn giảm”. Cách Phật càng lâu thì đạo càng khắc nghiệt; càng mạt pháp, tu hành càng kém. Trong Hoài Nam Tử, chương Trụy Hình, cũng nói: “Vũ gia sinh Phi Long, Phi Long sinh Phượng Hoàng, Phượng Hoàng sinh Loan Điểu, Loan Điểu sinh Vũ Điểu, phàm là Vũ thì đều sinh chim hết”. Đây không phải cũng là sự biểu thị một đời không như một đời sao? Thật tại nói rất có lý! Sao có thể không vì vậy mà thốt lên ba tiếng ai thán! Mặc dù như thế, nhưng Mạnh Tử nói: “Kẻ sĩ hào kiệt tuy rằng sinh phải thời không có người trọng dụng như minh quân Văn Vương, nhưng cũng có thể tự mình sáng tạo một sự nghiệp”. Nếu như câu nói này không sai thì quả là đại vạn hạnh cho chúng sanh! Tôi mỗi ngày đều hi vọng như vậy.

 

TỔNG LUẬN

 

Thời xưa, kẻ làm đệ tử, sau khi sư phụ chết, kính ngưỡng rất kiên định, không trái di mệnh của thầy, tín thọ phụng hành. Ngày nay kẻ làm đệ tử, sư phụ hãy còn chưa chết tín ngưỡng đã dao động, thay đổi, nguyên nhân vì sao? Thật tại là vì, lúc mới phát tâm xuất gia, tất cả không phải ai cũng chân chính muốn nương vào chánh tri, chánh kiến của thầy để liễu thoát sanh tử, là mà nhất thời hứng khởi, ngẫu nhiên trùng hợp bái thầy mà thôi. Cho nên, thấy có danh lợi có thể mưu đồ được thì bỏ sư phụ liền, hoặc giả gặp bạn bè xấu mê hoặc dụ dỗ rồi bỏ thầy mà đi, hoặc giả làm việc sai bị thầy quở trách, dạy dỗ mà căm hờn bỏ sang chỗ khác, thậm chí có thầy bạn tốt không theo, ngược lại đi theo bạn ác, thầy hư, giống như từ cây cao bóng mát lại bỏ đi đến khe núi sâu tối, càng đi xuống chỗ chênh vênh. Mạnh Tử có nói trong chương Đặng Văn Công rằng, bấy giờ, học trò của Trần Lương là Trần Tương, sau khi thầy chết rồi, liền theo Hứa Thành, người rợ Man phương Nam, học cày ruộng; lại có pháp sư Linh Nghiệp bỏ học Phật đi làm đạo sĩ cầu trường sanh, thậm chí giống như thị giả của Thiền sư Thái Dương (gọi là Bình thị giả) đem di thể của sư phụ từ trong tháp ra để phá huỷ, đạp nát đầu, tự lấy làm cao minh… Mấy trường hợp như thế cũng có nhiều! Luân lý đạo thầy trò đã mất, thật đáng buồn thay!



(1) Tên đầy đủ của cuốn kinh này là “Biện Ý Trưởng Giả Tử Sở Vấn”, Pháp Tràng dịch vào đời Bắc Ngụy, tiếng Phạn là Pratibhāna-mati-paripṛcchā, còn có tên khác là “Biện Ý Trưởng Giả Tử Kinh”. Nội dung kinh này thuật lại chuyện đức Phật trả lời những câu hỏi của trưởng giả Biện Ý, như những việc sanh lên cõi trời, cõi người, hay đọa địa ngục, đọa ngạ quỷ… tất cả 10 việc; mỗi một việc lại có 5 nhân duyên. Đức Thế Tôn trả lời tường tận, khiến trưởng giả cùng với đại chúng hoan hỷ phụng hành.

(1) Tên đầy là “Thành Cụ Quang Minh Định Ý Kinh”, Chi Diệu dịch vào thời hậu Hán. Kinh này cho biết vì sao đức Phật thành tựu diệu đức trang nghiêm, đó là nhờ định ý.

(1) Tích này sau thành một công án, gọi là “Bố mao thị pháp”. Công án này được thấy ở tiết Điểu Khoà Hoà thượng trong Tổ Đường tập q. 3.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.