. Người nhiễm bệnh
. Người chết cũng không ít.
Ở nhà vài ngày đối với một ai đó đang khỏe mạnh là việc khó có thể
chấp nhận với cái nhìn của
đa số. Không bệnh tật, không phải nằm yên một chỗ, thì đi đây đi kia là việc tất nhiên, không thể phí hoài. Nếu bạn dành
thời gian cho việc ở nhà
một mình, người ta liền nghĩ ngay đến bệnh trầm cảm, hay bạn đang gặp
vấn đề gì đó trong cuộc sống. Điều này không phải sai với một số người.
Vậy mà bây giờ, có lệnh ngưng hết mọi
sinh hoạt, từ
việc làm cho đến vui chơi. Ngay cả những
đại lễ mang tính
quốc gia cũng phải ngưng. Thành phố trở nên
vắng lặng.
Mọi người hạn chế tiếp xúc… Đó không phải là việc
dễ chịu với những ai đã quen động.
Tôi nhìn thấy
đâu đó tấm hình vẽ một con chó với cái bụng thật to, đang
lim dim ngồi ngửa trên ghế, bên cạnh ghi dòng chữ: “Ở nhà mấy hôm nay, thân nhiệt
bình thường,
hô hấp bình thường,
ăn uống bình thường, cân nặng
dị thường,
tinh thần thất thường”. Hoặc là vài tin nhắn vui vui: “Khuyến
cáo từ bác sĩ tâm lý: Trong
thời gian ở nhà chống dịch, việc bắt chuyện với cây cối,
động vật, thậm chí với bát đĩa trong nhà là
hoàn toàn bình thường, vì
con người ai cũng có nhu cầu giao tiếp.
Tuy nhiên, hãy
liên hệ ngay với bệnh viện khi bạn thấy chúng
trả lời. Xin cảm ơn!”. Những khoảnh khắc tiêu tiếu cho quên
nỗi buồn ở nhà. Nhưng nó đã
diễn tả khá đúng tâm trạng của hầu hết người đời bây giờ: Thân ở yên một chỗ khiến
tâm thức không còn
bình thường.
Trạng thái thường gặp là stress. Sự thất thường đó là
hậu quả của
việc phải giam người trong nhà, dù là tự nguyện. Chỉ mới là kết quả của một sự
giảm bớt, chưa phải là kết quả của một sự
bất động hoàn toàn,
vậy mà căng thẳng đã
xuất hiện. Chỉ vì đi ngược với
thói quen mà mình đã
huân tập từ thời vô thỉ.
Cội nguồn
chân nguyên của tất cả muôn loài, là
bản thể của mọi sự vật và
hiện tượng, vốn chẳng động. Chỉ vì không
tự tánh, không thể tự giữ mà vọng động. Động đó là do
bất giác mà có.
Bất giác, vì chẳng biết đúng
như thật pháp chân như toàn nhất, tâm khởi mà có niệm
1. Niệm này do
bản giác vọng động mà có nên chẳng có tự thể riêng, thể của nó chính là
chân như bản giác2. Tướng vọng động đó,
luận Đại thừa khởi tín gọi là
Nghiệp tướng, nói đủ là
Vô minh nghiệp tướng. Nghiệp này do
vô minh mà có, nên gọi là
Vô minh nghiệp tướng. Tổ
Hiền Thủ nói: “
Đây tuy động nhưng động niệm này rất vi tế, duyên khởi mà thành nhất tướng, năng sở chưa phân, chính là phần tự thể của thức A-lại-da”
3. Chỗ này
năng sở chưa phân. Tức chưa có cái gọi là ta, người,
thế giới,
chúng sinh như hiện nay. Nương
Vô minh nghiệp tướng này mà
xuất hiện cái hay thấy, gọi là
Năng kiến tướng. Nói hay thấy, không có nghĩa là phải có mắt mới thấy, chỉ là sự rõ biết cùng khắp của
tâm thức,
kinh Thủ Lăng nghiêm gọi chỗ này là
Kiến tinh, là cái thấy còn tinh ròng, chưa bị
nhiễm ô bởi
phân biệt. Có năng thì
nhất định có sở, nên
Năng kiến tướng xuất hiện rồi liền có
Cảnh giới tướng.
Cảnh giới tướng này, theo cái nhìn của
Đại sư Hám Sơn là
hư không và
tứ đại4. Quá trình biến khởi đó được
mô tả khá rõ trong
kinh Lăng nghiêm, bằng câu hỏi mở đầu của
Tôn giả Phú-lâu-na: “
Tánh bản nhiên thanh tịnh vì sao bỗng nhiên sinh ra núi, sông, đất liền cùng các thứ hữu vi thứ lớp dời đổi…?”. Sau khi
trả lời chi tiết xong, Phật
kết luận: “
Đều do tánh rõ biết sáng suốt của giác minh. Nhân rõ biết mà phát ra tướng. Từ cái vọng thấy mà sinh ra núi, sông, đất liền cùng các tướng hữu vi thứ lớp dời đổi…”. Vọng thì
không thật.
Thế giới này chỉ là một trường
đại mộng, do
chúng sinh ngủ quên trong giấc ngủ
vô minh mà có.
Chúng sinh tự tạo ra
thân căn và
thế giới quanh mình, rồi theo đó mà buồn, vui,
sợ hãi,
đau khổ. Tất cả không ngoài tâm mà có.
Kinh Hoa nghiêm nói: “
Nếu người muốn thấu tỏ/ Tất cả Phật ba đời/ Nên quán tánh pháp giới/ Tất cả chỉ tâm tạo/ Tâm như tay thợ vẽ/ Vẽ các thứ ngũ uẩn/ Tất cả trong thế gian/ Đều chỉ do tâm tạo”
5. Tất cả không ngoài tâm, nhưng không phải theo kiểu
duy tâm của phương Tây, mà theo cách kinh
Lăng nghiêm và luận
Đại thừa khởi tín đã nói, rõ hơn với bộ
luận Thành duy thức.
Trong
phạm vi xa nguồn hiện nay,
cảnh giới mà một
chúng hữu tình đang thọ nhận chính là
Cảnh giới tướng.
Tứ đại và
hư không đã có cảnh sắc và phần hạn
rõ ràng. Như
loài người thì
Cảnh giới tướng là chỉ cho
thế giới con người đang sống, trong đó có thân và các căn của
loài người. Loài vật thì
Cảnh giới tướng là những gì chúng đang thọ nhận bằng thân và căn của chúng. Còn
Năng kiến tướng thuộc về tâm. Trong
trường hợp này, quá trình trên không chỉ dừng lại ở
ba tướng tế vừa
mô tả trên, mà đã bị
chi phối bởi sáu tướng thô
kế tiếp:
Trí tướng,
Tương tục tướng,
Chấp thủ tướng,
Kế danh tự tướng,
Khởi nghiệp tướng, và
cuối cùng là
Nghiệp hệ khổ tướng. Quá trình đó được
mô tả sơ lược như sau: Khi
chân tâm đã phân
năng sở, liền
xuất hiện sự
phân biệt6.
Phân biệt rồi thì
tâm thức khởi niệm
tương tục không dứt,
duyên niệm cảnh giới,
duy trì sự khổ vui, tâm khởi dính mắc
7. Y sự dính mắc đó mà
phân biệt tướng
danh ngôn hư dối, tìm danh
thủ trước8, tạo mọi thứ nghiệp, đó là
Khởi nghiệp tướng. Khởi
nghiệp tướng này là nhân để có tướng
cảnh giới thuộc
sáu đường. Có
cảnh giới ở
sáu đường rồi thì cái gọi là làm chủ, tự tại… chỉ là trá hình của
nghiệp lực. Nói
Nghiệp hệ khổ tướng là vậy. Hệ
diễn tả tình trạng lệ thuộc,
trói buộc. Tất cả đều
lệ thuộc vào
nghiệp nhân mà
chúng sinh từng gây ra trước đó.
Đó là
lý do vì sao có hai chữ
định mệnh. Vì mạng sống và
mọi việc của
nhân sinh như đã được định sẵn. Có những thứ không muốn vẫn xảy ra. Có những thứ rất muốn vẫn không thể làm được. Vì tất cả đã có
nhân từ trước, giờ đủ duyên chỉ sinh quả mà thôi.
Với cái nhìn của
Phật giáo, cái gọi là
định mệnh chỉ đúng với những gì thuộc
định nghiệp. Nhân đã có, duyên đã đủ, và giờ ra quả. Vẫn còn chút
tự do với những loại nghiệp gọi là
bất định, nhân tuy có mà duyên chưa đủ. Có thể tạo duyên giúp chuyển quả. Vì thế nhà Phật không
công nhận thuyết
định mệnh dù
đời người thật sự bị
trói buộc bởi các nghiệp mình từng gây tạo.
Có một
thực tế là, dù đều là người, nhưng không ai giống ai, từ hình dạng, thân thế, đến
hoàn cảnh v.v… Có thứ giống nhau mà có thứ không giống nhau, phải nói là muôn hình vạn trạng ở
thế giới này. Để
giải quyết vấn đề đồng dị này,
kinh Lăng nghiêm có nói đến hai từ
đồng nghiệp và
biệt nghiệp.
Đồng nghiệp chỉ cho những
tư tưởng và
hành vi giống nhau, kết quả nhận được từ chúng là như nhau, nên nói đồng, như cùng là
loài người hay loài vật, cùng một màu da, cùng
giai cấp v.v… Trong những thứ đồng đó,
xuất hiện những thứ không đồng, là do
tư tưởng và
hành vi không như nhau. Người từng tạo nhân
bố thí nhiều thì
giàu có. Người từng tạo nhân keo kiết mạnh thì
sa cơ,
thấp hèn v.v…
Tóm lại,
bản chất thật
con người đang
sở hữu thì không động, nhưng có mọi thứ như hiện nay là do động. Động đó tuy
không thật nhưng giờ lại
trở thành bản chất trong từng
con người. Hỏi sao ở nhà chỉ vài giờ là không chịu được, vài ngày
trở thành căng thẳng, vài tháng liền thành điên loạn? Ngọn nguồn là vì
chúng ta đã làm quen với cái động quá lâu xa. Thật còn đó mà ẩn mất. Vọng giờ thành chủ. Mọi thứ đều được
xây dựng trên nền tảng ấy, từ cái động
vi tế do
bất giác mà có,
cho đến những cái động thô, là
thói quen trong cách
suy nghĩ,
nhận thức và
hành vi của mỗi người,
Phật giáo gọi là
thân nghiệp,
khẩu nghiệp và
ý nghiệp.
Việc
loạn động này đã được nhà toán học Pascal
cảnh báo vào giữa thế kỷ XVII: “
Mọi vấn đề của con người xuất phát từ chỗ họ không thể ngồi yên một mình trong phòng”.
Gần đây, câu nói này đã được soi tỏ bởi một thí nghiệm của
Đại học Virginia ở Mỹ. Những người
tham gia thí nghiệm được
yêu cầu ngồi
một mình mười lăm phút, trong một căn phòng trống trơn, không có gì ngoài một nút bấm. Nếu bấm nút, họ sẽ bị điện giật. Và tất cả đều được thử trước mức độ điện giật này. Ai cũng
tuyên bố dù được trả tiền cũng không đụng đến
9.
Vậy mà, thay vì
suy tưởng hay nghỉ ngơi
chịu đựng cho qua mười lăm phút, họ đã bấm vào nút giật. Bởi
ngồi yên, với họ là một
cực hình, nó
đáng sợ hơn bất cứ thứ gì trong
hiện tại, cần có gì đó để làm, dù việc đó có hại đến
bản thân chăng nữa.
Thí nghiệm cho thấy
con người bị
chi phối bởi
thói quen tương ưng với sự
loạn động lớn lao thế nào. Thành chẳng có gì
ngạc nhiên khi thấy các bãi biển ở phía Bắc thành phố Sydney vẫn kín người, bất chấp mức phạt 11.000 AUD được
áp dụng cho việc cách ly ở Australia.
Đóng cửa các bãi biển, họ lại tụ qua chỗ khác. Chỉ cần một tin gì đó hơi bất thường
xuất hiện là đã có sự tụ hội nhanh chóng.
Việt Nam và các nước khác cũng không ngoại lệ. Các hội thánh, đền thờ, bãi biển, công viên v.v… đầy ắp người. Ngày 1-4
Việt Nam thực hiện cách ly
xã hội trên toàn quốc,
trong vòng mười lăm ngày, theo chủ trương của
Thủ tướng Chính phủ, nhưng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm vẫn rất đông người. Lực lượng
an ninh và
bảo vệ phải có mặt để tuyên truyền, động viên, giải tán… nhưng đến 7 giờ tối vẫn chưa xong.
Lý do đơn giản là ở nhà cả ngày chán quá, ra đi bộ một lát cho
thoải mái, vì tập
thể dục quanh hồ vốn là
thói quen không thể thiếu của đa phần v.v... Để
thực hiện tốt việc cách ly này, Chính phủ đã phải “tăng cường
kiểm tra,
trường hợp nào không nằm trong diện được đi ra ngoài, đều phải xử phạt”
10. Hầu hết các
quốc gia đều phải có những
biện pháp mạnh đối với việc cách ly này, mới có thể
duy trì tình trạng giúp người dân ở yên một chỗ. Thật là
vất vả khi mọi thứ xảy ra
trái với thói quen hằng ngày của
mọi người.
Cũng chính vì đó mà nghe đến cách ly là sợ. Sợ phải
đối diện với những gì
trái với sinh hoạt cũng như
thói quen của mình. Sợ
tù túng,
bó buộc. Sợ nên bị cách ly là la làng. Rồi khai gian,
báo cáo láo, và nếu trốn được là trốn ngay, bất
chấp sự kêu gọi cùng
thỉnh cầu của các vị có
trách nhiệm. Kết quả là dịch bệnh lan rộng toàn cầu, mức độ lây lan
chóng mặt, người nhiễm
vô số, người chết không ít.
Ý thức vì
cộng đồng hiện nay được nhắc đến rất nhiều.
Hy vọng có thể phát huy được sự
hiểu biết cũng như tính Phật trong mỗi người (dù nó đã lặng khá lâu từ thời vô thỉ),
hy vọng lực ấy bùng lên để có thể ngăn bớt sự vọng động của
con người. Một vài lần, tôi cũng đã ghi một câu gì đó dưới những trang tin, nói lên sự thiếu
ý thức của
con người. Không phải do tức tối hay muốn chửi bới. Một khi bạn đã hiểu
nguyên do phát sinh, hiểu
con người chỉ là nạn nhân của chính những gì mình từng
huân tập, thì chẳng còn sự
bực tức nào
hiện diện nếu không nói là thương cảm. Chỉ là muốn góp phần ngăn bớt những tệ hại nhờ vào lực của số đông.
Hy vọng họ thấy
sợ hãi với việc chửi bới mà
ý thức nhiều hơn với bổn phận và
trách nhiệm mình cần có với
cộng đồng, dùng
hiểu biết và sự thương cảm thắng bớt những vọng động của
bản thân.
Sài thành bây giờ khá vắng vẻ. Đường sá thênh thang… là
ước mơ của khá nhiều người khi phải
chen nhau dưới cái nắng đổ lửa và trong không khí ngột ngạt xăng dầu cùng khói bụi. Nhưng tâm chưa nguôi vọng động nên cảnh
vắng lặng không thể tự hiện, phải nương vào dịch bệnh mới có. Không có dịch bệnh như hiện nay, bao đời thành phố được vắng lặng? Thành dù
thích thú, cũng đành chọn cái không
thích thú để chân tay được
thoải mái, còn kiếm
tiền sinh nhai… Rất nhiều thứ
cần phải giải quyết, không thể
ngồi yên một chỗ mãi. Cái cần
giải quyết trước mắt là
tình trạng căng thẳng và
nhàm chán khi phải đi ngược với
thói quen vọng động của mình.
Tôi trước giờ vẫn không thích cái nắng của Sài thành, nắng trầy mình. Cũng không thích không khí
ô nhiễm bụi bặm của Sài thành, thấy nghẹt thở mỗi khi ra đường, thích ở nhà nhiều hơn.
Vậy mà chính nhờ cái nóng đó, dịch bệnh ở
Việt Nam ít có
điều kiện phát tán.
Nắng và bụi, khẩu trang không
thể không dùng. Người ta quen che kín từ đầu đến chân, không một ai thắc mắc. Cũng không ai thắc mắc vì sao trên mặt
mọi người lại mang khẩu trang y tế.
Can đảm bày mặt giữa khí trời oi bức mới là việc lạ của phố phường.
Thói quen đó không ngờ lại thành
tiện lợi cho việc chống dịch hiện nay, cần thì đeo, không thì thôi, dù việc đó hơi khó với một số người. Nhưng đa phần thì
vô tư, khẩu trang cả ngày lẫn đêm vẫn được. Mới thấy, trong họa có phúc, chẳng nên chê thứ nào. Thành lỡ gây
nghiệp nhân không
mát mẻ và
ô nhiễm rồi thì nhận cái quả
nóng bức bụi bặm trong
vui vẻ cho an. Biết đâu chừng, để
tồn tại trước đám
nhiễm ô đó mà
thân thể sản sinh được một loại kháng thể, nCov không thể
đột nhập.
Ở nước ngoài, đeo khẩu trang là việc cực kỳ khó, dù đó là
phương tiện khá
cần thiết để dịch bệnh không lây lan. Vì trước giờ, không có gì cần
bảo vệ, việc đeo khẩu trang
trở thành bất
bình thường ở nước họ.
Thiên hạ sợ khi thấy ai đeo khẩu trang, như thể là một loại bệnh truyền nhiễm cần tránh xa, dù người đeo không hề bệnh. Đã thấy sợ thì
bản thân khó mà làm được những điều
tương tự. Một bệnh viện thuộc thành phố Irving, tiểu bang Texas, không cho y
bác sĩ mang khẩu trang,
lý do khá
ngộ nghĩnh, mang khẩu trang khi đi thăm bệnh là
coi thường bệnh nhân, khẩu trang chỉ được dùng khi mổ. Trong bưu điện cũng vậy. Dù đã có người nhiễm nCov, quỵ ngay trong giờ làm việc,
lãnh đạo vẫn
yêu cầu nhân
viên không được đeo khẩu trang, khi nào bệnh rồi hãy đeo. Một nhân viên da đen
phản đối: “Nếu bệnh rồi thì làm gì còn ngồi đây mà đeo khẩu trang”. Nhờ đó, khẩu trang được trang bị cho
mọi người, nhưng ai muốn thì đeo, không thì thôi. Không phải như
Việt Nam, người dân tự nguyện đeo, ai không tự nguyện sẽ
bị phạt. Vào chốn đông người mà không có khẩu trang, bạn sẽ được nhắc nhở. Hoặc là bạn
ngoan ngoãn làm theo hoặc là bạn phải
đối diện với sự
phản ứng gay gắt của
mọi người. Nhờ đó, dịch bệnh không có
điều kiện lan tràn như ở các nước
Âu Mỹ.
Phải nói, khi một
tư tưởng được hình thành và bám chặt,
trở thành một loại
định kiến kiên cố trên toàn
xã hội, thì thật là nan giải cho một
quốc gia khi cần một thay đổi mới. Cho nên, muốn
tùy duyên được thì phải vô chấp. Vô chấp mới
tùy duyên được. Tùy được,
an bình mới sinh.
Trúc Lâm Đại
Đầu Đà có kệ “
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên/ Đói đến thì ăn mệt ngủ liền/ Trong nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”. Chẳng thể
tùy duyên mang khẩu trang, cũng chẳng chịu yên ở tại nhà,
cứ theo thói cũ mà đi mãi, mặt cứ đưa ra cũng có ngày... Nhiễm nCov là việc đương nhiên. Lây
lan dịch bệnh là đương nhiên. Việc dừng mọi
hoạt động vui chơi, cách ly giao tiếp, ở yên một chỗ v.v… là
y cứ trên mặt
hiện tượng y học mà
giải quyết, hầu
chấm dứt sự lây lan của dịch bệnh, nhưng lại khá
tương ưng với đạo.
Trong kinh Đại bát Niết-bàn,
Đức Phật dạy “
Này thiện nam tử! Thế nào là hạnh anh nhi? Này thiện nam tử! Chẳng đứng dậy, chẳng dừng trụ, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nói năng, gọi là anh nhi11. Như Lai cũng vậy. Chẳng đứng dậy, vì Như Lai chẳng khởi các pháp tướng. Chẳng dừng trụ, vì Như Lai chẳng trước tất cả pháp. Chẳng đến, vì Như Lai thân hành không có động chuyển. Chẳng đi, vì Như Lai đã được Đại bát Niết-bàn. Chẳng nói năng, vì Như Lai tuy vì tất cả chúng sinh diễn thuyết các pháp mà thật không có sở thuyết…”. Không khởi, không dừng trụ, không
lưu chuyển, không nói năng đều là tướng của
pháp giới thanh tịnh, không bị
nhiễm ô, không có tật bệnh. Nhưng
chúng sinh, là chung lại mà khởi
12, chung lại mà chuyển, khiến
pháp giới thanh tịnh biến thành lục đạo luân hồi. Trong những khoảng
luân hồi ấy,
tha hồ mà nói năng và
bám víu các pháp. Thân, khẩu, ý, nếu dừng được ở cửa
thiện nghiệp,
cõi giới an vui
hạnh phúc hiện ra13. Thân, khẩu, ý nếu vướng vào cửa
bất thiện,
trầm luân khổ nạn trăm đường. Vượt hai ngưỡng ấy, chẳng khởi, chẳng trụ, chẳng đến, chẳng đi, cũng chẳng nói năng, là
con đường trung đạo giúp nhập lại tánh thể
Như Lai trong mỗi người. Đó là chỗ mà
Trung luận nói “
Thật tướng của các pháp/ Tâm hành ngôn ngữ đoạn/ Không sinh cũng không diệt/ Tịch diệt như Niết-bàn”
14. Chẳng động, tức chẳng có khổ.
Chấm dứt hoàn toàn hai cái khổ
sinh tử là Phần đoạn tử và
Biến dịch tử.
Cho nên,
Yên vị một chỗ
tu hành, tương chao qua ngày v.v… chẳng phải là việc dễ làm. Yên được mới là việc khó. Yên tâm lại càng khó hơn. Chẳng phải là kẻ
rỗi việc, không công. Nền tảng
an bình chính là từ đó.
Tụng kinh,
niệm Phật,
trì chú,
thiền định,
giảm bớt tham dục v.v… chẳng phải
tiêu cực, chẳng phải
mê tín dị đoan, chính là giúp thân yên dần, giúp tâm bớt sinh, đó là
tích cực gìn giữ bản thân, phòng lúc nạn tai, cứu người.
Hoạn nạn tuy đồng, vẫn còn
phước nghiệp bản thân.
Động tức có khổ…
Vì quả chẳng lìa nhân
15.
Bà con bớt động cho đời an vui.