11 Chướng ngại trong việc tu thiền

01/01/202110:26 SA(Xem: 4781)
11 Chướng ngại trong việc tu thiền
TRÊN ĐƯỜNG VỀ NHÀ
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation

11

 CHƯỚNG NGẠI

TRONG VIỆC TU THIỀN LÀ GÌ?

I. THIỀN PHẬT GIÁO

            Thiền Phật giáo là một môn tu tập, hành trì miên mật để kinh nghiệm trực tiếp trên thân và tâm về những giáo lý nhà Phật mà hành giả đã học từ kinh điển hay qua sự hướng dẫn của những bậc chân nhân.

            Thiền  (Jhãna) hay sống thiền là sống trọn vẹn ngay bây giờ và ở đây với cái “biết như thật ” về hiện tượng thế gian, nghĩa là biết mà không phê phán khen chê, không ôm ấp nỗi khổ niềm đau của quá khứ, cũng không sống trong tưởng tượng không thật có ở tương lai, hoặc mê muội dính mắc với tham dục nơi hiện tại.

            Giáo pháp của Đức Phật để lại không ngoài mục đích giúp con người thoát khổ, giác ngộ, giải thoát. Và con đường đi đến thoát khổ, giác ngộ, giải thoát đó phải thông qua thiền Địnhthiền Huệ.

            Theo ngôn ngữ Phật giáo, chữ Thiền thường được kết hợp chặt chẽ với chữ Định (Samãdhi). Trạng thái ban đầu của Samãdhi trong kinh điển định nghĩa là Nhất tâm (Citta Ekagaya). Nhất tâmtrạng thái của thiền chứng ở mức độ “tịnh chỉ” (Samatha). Ở giai đoạn này định Nhất tâm chưa hoàn thiện vì còn chịu ảnh hưởng khuấy động của tầm và tứ. Khi tâm hoàn toàn được ổn định ở mức độ kiên cố, không còn tán loạn, nghĩa là tầm và tứ hoàn toàn yên lặng, thì lúc bấy giờ mới được gọi là Samãdhi tức Định vững chắc.

            Sự thành đạo của Đức Phật được biểu thị qua tiến trình tu chứng bốn bậc Thiền Định. Đó là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam ThiềnTứ Thiền, còn gọi là Sơ Định, Nhị Định, Tam Định hay Tứ Định.

            Kể lại kinh nghiệm chứng ngộ Sơ Thiền, trong Kinh Sa Môn Quả, Đức Phật cho biết: "Tỷ kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ." Mức độ thứ hai là Nhị Thiền, Đức Phật dạy tiếp: "Vị Tỳ Kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm và tứ, nội tĩnh nhất tâm." Nội tĩnh Nhất tâm có nghĩa là tâm yên lặng không còn bị tầm và tứ khuấy động nên Nhị Thiền này kết quả thù thắng hơn Sơ Thiền. Mức độ thứ ba, Đức Phật nói: "Vị Tỳ Kheo ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và trú tam thiền." Trong kinh gọi tầng định này là Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. Mức độ cao nhất trong thiền Phật giáo lúc đó là Tứ thiền còn gọi là Định bất động tức ngôn hành, ý hành và thân hành không động. Đức Phật chia sẻ như sau: "Vị Tỳ Kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú tứ thiền, không khổ, không lạc, "xả niệm thanh tịnh" tức kinh nghiệm trạng thái tâm hoàn toàn thanh tịnh, do xả sanh.

            Muốn kinh nghiệm các tầng Thiền kể trên, bước đầu hành giả phải "Như lý tác ý" nhằm tẩy trừ các bất thiện pháp: "tham dục, sân hận, hôn trầm - thuỳ miên, trạo cử - hối quáhoài nghi" là những nguyên nhân cản trở sự tự chủ nội tâm nơi hành giả gọi là "năm triền cái".

            Như vậy, bước đầu tu Thiền, hành giả phải tu tập đoạn trừ "năm triền cái" và thay thế bằng "năm thiền chi", tức là năm tâm sở đối nghịch với năm triền cái, đó là: "tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm."

II. NĂM TRIỀN CÁI

             Triền tức là trói buộc, trì kéo nặng nề, hay là ngăn che. Năm triền cái là năm thứ trói buộc tâm con người trong phiền não… Chức năng của triền cái là ngăn che trí tuệ khiến con người bị vô minh che mờ không Giác ngộ được. Đối với người tu Thiền thì năm triền cái chính là các ác pháp gồm: "tham, sân, hôn trầm / thuỵ miên, trạo cử / hối quá và nghi ". Những triền cái này khiến cho hành giả tu Thiền không thể đạt được tâm yên lặng, định tĩnh… là nền tảng phát huy trí huệ đưa đến giác ngộ, giải thoát.

            Đức Phật dạy muốn loại trừ năm triền cái: "Tỷ kheo tự mình quán năm triền cái chưa xả ly như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường sa mạc" để ghê sợviễn ly nó. Trước hết chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của mỗi triền cái như thế nào rồi mới áp dụng phương pháp Phật dạy để xa lìa nó.

            1) Tham dục:ham muốn có được thân hình đẹp đẽ, thích được nghe lời nói ngọt ngào, ưa mùi hương hấp dẫn, thích nếm những món ngon vật lạ và những cảm giác êm dịu đê mê của thân khi xúc chạm. Nói chung đó là những mong cầu dục lạc qua năm giác quan như sắc dục, thanh dục, hương dục, tỷ dục, vị dục, xúc dục và những ước muốn đó không bao giờ dừng lại. Người đời thường nói ham muốn càng nhiều thì phiền não càng gia tăng. Điều này thật đúng, nhưng rất tiếc, tuy biết thế nhưng đa số con người vẫn luôn ngụp lặn trong tranh giành được mất hơn thua do tham dục đòi hỏi, rồi than đau, than khổ!

            2) Sân hận: Nghĩa là tâm tức giận đối với những hoàn cảnh không vừa ý hay do người khác làm trái ý mình. Người sân hận là người mang tâm trạng muốn chống đối, trừng phạt, gây gổ hay tàn phá. Sân hậntrạng thái tiêu cực tiềm ẩn trong mỗi con người, nó sẽ bộc phát khi gặp điều kiện thích hợp tác động. Cảnh báo sự độc hại của sân hận, Đức Phật cho biết tham, sân, si là tam độc, nó có khả năng phá hoại tâm hồn và thể xác con người không chỉ đời này mà còn nhiều đời sau. Trong kinh còn cho rằng sân hận tàn khốc và nguy hiểm hơn lửa dữ, nó như là giặc cướp, như là rắn độc, một niệm sân hận dễ dàng đốt cháy cả rừng công đức… Sân hận khiến người ta tạo nghiệp xấu qua lời nói, ý nghĩ và hành động. Nó là nguyên nhân bất thiện đưa tới quả luân hồi sinh tử. Vì thế người tu phải tìm đủ mọi cách để ngăn chận loại trừ nó.

            3) Hôn trầm-Thuỵ Miên: Là sự mệt mỏi của thân và sự dã dượi của tâm. Là trạng thái nặng nề uể oải của cơ thể và sự mơ màng của tâm thức. Trạng thái đầu tiên là khi hành giả toạ thiền là đánh mất chánh niệm, phóng tâm lang thang ra khỏi chủ đề, sau đó rơi vào trạng thái vô ký nửa mê nửa tỉnh. Đây là trạng thái tâm không ngủ mà cũng không thức gọi là hôn trầm.

             Tu Thiềnrèn luyện tâm. Khi thân uể oải, tâm ngầy ngật thì ta không có nghị lực để làm bất cứ chuyện gì. Không có nghị lực sẽ đưa đến hôn trầm. Hôn trầm làm cho niệm Biết mất đi sự rõ ràng, tiến tới sự rời rạc, yếu ớt và biến mất. Từ đó đưa đến thuỵ miên là ngủ gục trong lúc toạ thiền mà ta không hay biết.

            4) Trạo cử - hối quá: Trạo cửhai mặt, trạo cử nơi thân và trạo cử nơi tâm. Thân thì không lúc nào ngồi yên một chỗ, cứ lắc lư thay đổi thế ngồi, mắt trạo cử liếc nhìn qua lại. Hoặc do hành giả tinh tấn hành trì quá sức chịu đựng khiến cho cơ thể bị rả rời hay đau nhức, dễ đưa đến tình trạng chán nãn lười biếng trong việc tu tập. Trạo cử của tâm, là trạng thái tâm bị các niệm lăng xăng xẹt vô, xẹt ra, chi phối trong lúc hành thiền. Tâm này trong kinh gọi là "tâm lang thang" hết suy nghĩ chuyện này, sang suy nghĩ chuyện khác, như chú khỉ chuyền cành không bao giờ chịu ngồi yên, hoặc là hành giả không hài lòng với đề mục tu tập nên phóng tâm ra ngoài tìm những đề mục khác hứa hẹn tốt hơn. Tìm những đề mục khác có nghĩa là hành giả đang bị triền cái nghi chi phối.

            Hối quátrạng thái đặc biệt khác của trạo cử thuộc về tâm. Tâm không yên là bởi lương tâm cắn rứt hối hận những lầm lỗi đã qua. Đó là nghiệp quả của các hành động bất thiện trong quá khứ khiến cho tâm không được an ổn trong lúc hành thiền.

            5) Nghi ngờ: Trạng thái tâm luôn do dự, không nhất quyết nhận ra điều nào thực sự đúng, và điều nào thực sự sai, nghĩa là trong tâm còn nhiều thắc mắc về khả năng tu tập của chính mình, hoặc nghi ngờ pháp học, pháp hành, không biết có đúng không? Có khi nghi ngờ khả năng chứng đắc của Thầy mình, hay chưa chắc chắn tin vào Tam Bảo.

            Nghi ngờ cũng có thể xem như là một trạng thái khác của trạo cử, khi trong đầu có quá nhiều kiến thức, nhiều khái niệm, do đó tâm rơi vào trạng thái lưỡng lự, không quyết định. Vì thế, những câu hỏi, những thắc mắc trong lúc toạ Thiền cần phải được giải quyết một cách rõ ràng thấu đáo trước khi thực hành.

            Khi quyết định chọn tu thiền, hành giả phải có niềm tin vững chắc, hiểu rõ phương pháp kỹ thuật hành thiền, hiểu rõ đề mục tu tậphiểu rõ mục đích tu tập này đi về đâu.

III "NĂM THIỀN CHI" Có Khả Năng

Loại Trừ "NĂM TRIỀN CÁI"

            Để chứng ngộ Sơ Thiền, Đức Phật dạy chúng ta cần "ly dục, ly bất thiện pháp", hay nói cách khác là phải đoạn trừ toàn bộ "năm triền cái". Muốn đoạn trừ "năm triền cái" là những pháp bất thiện, thì bên cạnh việc tu tâm, hành giả cần tu tướng. Tu tướng có nghĩa là hành giả cần: Có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo, nắm vững pháp học (giáo lý) và pháp hành (kỹ thuật thực hành) để chế ngự lòng nghi ngờ. Giữ gìn giới luật không không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không sử dụng những chất say làm lu mờ tâm trí. Ngoài ra hành giả cần sống "tri túc thiểu dục" trên mọi mặt để chế ngự lòng tham lam khao khát. Nuôi dưỡng lòng từ bi, rộng lượng với mọi ngườimọi vật để chế ngự lòng sân hận.

            Nhờ sự tu tập hằng ngày chừa bỏ những ác pháp, thực hành những pháp lành, hành giả có thể ngăn chận "năm triền cái" lúc toạ thiền. Khi có kinh nghiệm Định thì "năm thiền chi" xuất hiện lấn áp và làm cho "năm triền cái" không thể trồi lên được.

         A. Tầm và Tứ có công năng đối trị Hôn Trầm - Thuỵ MiênNghi Ngờ

            Tầm tiếng Pãli gọi là “Vitakka có nghĩa là: tư duy, suy nghĩ, ngẫm nghĩ, lý luận, lý lẽ… Trên mặt thực hành thiền, ta thấy bên trong cốt lõi của “suy tư, ngẫm nghĩ, lý luận, lý lẽ, suy nghĩ…” thực sự đó là tâm ngôn. Đơn giảndễ hiểu, Hoà Thượng Thích Thông Triệt giải thích Tầm là "sự nói thầm trong não" (tự mình tư duy, suy nghĩ) .

Tứ tiếng Pãli gọi là Vicàra”. Trước kia người Tàu dịch là Quán, ngày nay dịch là Tứ. Nguyên gốc Vicàra có nghĩa là: dò xét, quán sát, tư duy biện luận, cân nhắc…. Trên mặt thực hành thiền, ta thấy bên trong cốt lõi của “sự dò xét, quán sát hay tư duy biện luận…” chính là “sự đối thoại thầm lặng của tự ngã”. Đây là sự đối thoại dây dưa trong não, Hòa Thượng Thích Thông Triệt định nghĩa một cách bình dân:  “Tứ là sự đối thoại thầm lặng trong não”.

            Trong kinh ghi chức năng của Tầm là "hướng tâm" hay "tập trung tâm đến đối tượng, mang lại sự sâu lắng cho Định. Tứ thì "gắn chặt và neo tâm vào đối tượng” nghĩa là "duy trì sự định tâm nơi đối tượng đã thành tựu từ Tầm". Ở mức độ Samatha, Tầm-Tứ là hai yếu tố thiết yếu cho sự thành tựu và ổn định của Sơ Thiền.

            Khi tâm của hành giả đang tư duy, hay đang hướng đến, hoặc tập trung vào một đối tượng tức là "thiền chi Tầm" đang có mặt, lúc bấy giờ hành giả không thể rơi vào trạng thái hôn trầm. Cũng vậy, nếu trong tâm có sự hiện diện của "thiền chi Tứ" đang làm công việc gắn chặt sự hướng tâm của Tầm vào đối tượng, thì chứng tỏ rằng hành giả đang tinh tấn tu tập, không có sự nghi ngờ về pháp học hay pháp hành ở đây. Như vậy chúng ta có thể nói khi "hai thiền chi Tầm và Tứ" có mặt trong trạng thái Định thì "hai triền cái hôn trầm và nghi ngờ" không thể trồi lên được.

            Có điều quan trọng, hành giả cần ghi nhớ Tầm và Tứ là hai chi xuất hiện trong Sơ Thiền, nhưng muốn tiến cao hơn thì hành giả cần phải buông cả Tầm và Tứ thì mới đạt được Định sâu lắng vững chắc ở tầng Thiền thứ hai.

             B. Hỷ và Lạc công năng đối trị Sân HậnTrạo Cử

            Chi thiền thứ Ba có mặt trong Sơ Thiền là Hỷ tiếng Phạn là "Pìti". Hỷ có nghĩa là sự hân hoan, thích thú, vui mừng, hỷ duyệt, hài lòng, phấn khởi của tâm. Chức năng của Hỷ là làm cho thân và tâm được tươi tỉnh, phấn chấn. Như vậy "thiền chi Hỷ" trái ngược với sự buồn bực, thù hằn, sẵn sàng trừng phạt, la hét của "triền cái Sân Hận". Như vậy Hỷ có khả năng đối trị sự sân hận.

            Chi thiền thứ Tư có mặt trong Sơ Thiền là Lạc tiếng Phạn là "Sukha". Chữ Lạc được dùng như danh từ thì có nghĩa là: Sự dễ chịu, niềm hạnh phúc hay sự hài lòng. Nếu dùng như tĩnh từ thì Lạc có nghĩa là: trạng thái an lạc, trạng thái dễ chịu. Lạc biểu thị cảm giác dễ chịu ngược với khó chịu bất mãn là khổ. Trong lúc toạ thiền mà có kinh nghiệm "dễ chịu, hài lòng" thì trạo cử không xuất hiện.

 

                   C. Chi thiền Nhất Tâmcông năng loại trừ Tham Dục

            Nhất tâmthiền chi thứ Năm. Ở mức Sơ Thiền, Nhất tâm có thể hiểu là trạng thái Samatha, nghĩa là tịnh chỉ mọi hoạt động trong tâm, nhưng vẫn còn Tầm và Tứ. Khi nào Tầm và Tứ cũng yên lặng luôn thì Nhất tâm được gọi là Samãdhi tức Định vững chắc.

            Nhất tâmSơ Thiền tích tụ một sức mạnh đặc biệt nhờ bốn chi thiền kia hợp nhất, neo tâm vào một đối tượng vững chắc được gọi là định căn. Chức năng của Nhất tâmngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện tác động vào tâm, đặc biệttham dục. Bởi vì nó duy trì một sức mạnh ổn định nên gọi là định lực. Định lực đưa tâm đến trạng thái tịnh chỉ, tức trạng thái Samatha. Samatha là nền tảng của Samãdhi, mà Samãdhi là nền tảng cho tuệ giải thoát phát huy sau này.

            Trong lúc hành thiền, hành giả kinh nghiệm trạng thái Nhất tâm có nghĩa là tâm hoàn toàn yên lặng, không còn dính mắc đến thân thể hay hoạt động của năm giác quan, vì thế tham dục không thể khởi lên.

IV. KẾT LUẬN

            Trên bước đường tu tập, nhất là tu Thiền thì năm triền cái: Tham dục, Sân hận, Hôn trầm, Trạo hối và Nghi, là những chướng ngại lớn nhất. Khi hành giả bắt đầu ngồi xuống toạ thiền, thì một trong những triền cái, hay toàn bộ năm triền cái nổi lên quậy phá, khiến cho hành giả đánh mất chánh niệm, đánh mất sự tỉnh giác, thả hồn lang thang theo hết hiện tượng này, qua hiện tượng khác. Năm triền cái tựa như một chiếc xe hứa hẹn đưa hành giả đi vào con đường luân hồi sinh tử. Chúng tác động vào tâm khiến hành giả đánh mất những giới hạnh cao quý, lăng xả vào dục vọng thế gian, hành xử bất thiện, tạo những nhân xấu trong đời sống nhiều hơn là nhân tốt. Cho nên muốn hành trì giáo pháp để đi đến Giác ngộ Giải thoát thì việc đầu tiên là phải đoạn trừ năm triền cái. Đoạn trừ bằng cách nào? Trước hết là phải "Như lý tác ý" không được "Phi như lý tác ý".

            "Như lý tác ý" nghĩa là khởi ý, tác ý học hỏiáp dụng thực hành những chân lýĐức Phật đã dạy. Chúng ta thực hành "Như lý tác ý" để hướng tâm đến đối tượng thiện lành. Tâm được huân tập những thói quen tốt, thì khi toạ thiền chúng ta ít bị triền cái phá rối. Nhưng nếu triền cái có ló dạng thì chúng ta "Như lý tác ý" buông bỏ liền vì đã biết đó là bất thiện pháp.

            Còn "năm thiền chi" chỉ xuất hiện sau khi "năm triền cái" không có mặt. Lúc bấy giờ công năng của "năm thiền chi" như là ánh sáng, còn "năm triền cái" như là bóng tối. Hễ cái này có mặt thì không có cái kia. Nhưng nếu "năm thiền chi" hiện diện yếu ớt, thì triền cái sẽ có dịp trồi lên. Cho nên phải có định lực vững chắc thì mới hoàn toàn diệt được "năm triền cái".

            Tóm lại, trong lúc hành thiền, năm triền cáichướng ngại khiến cho việc tập trung tâm vào đề mục đang hành trì rất khó khăn. Chúng ta cần kiểm điểm xem chúng ta đã vướng phải triền cái nào: Tham dục, Sân hận, Hôn trầm, Trạo hối hay Nghi ngờ? Từ đó chúng ta tìm phương cách hoá giải thích hợp để vượt qua hàng rào ngăn che đó, hầu vượt lên mức Thiền Định cao hơn.

            Thí dụ như tham dục quá mạnh thì chúng ta cần quán hiện tượng thân bất tịnh, quán vô thường khổ, vô ngã của tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Áp dụng pháp tu phòng hộ sáu căn, tiết độ sự ăn uống, ngủ nghỉ v.v... Nếu như chúng ta dễ dàng nổi sân đối với mọi người thì chúng ta nên chọn đề mục Thiền từ ái. Quán xét những nghiệp mình gây ra, quán xét bản chất vô thường về tài sản mình đang sở hữu. Thường xuyên Như lý tác ý làm việc lành, nói lời lành, tu hạnh bố thí v.v... để tạo thành thói quen trợ giúp cho việc phát triển tâm Từloại bỏ sân hận.

Còn như thường xuyên bị hôn trầm, chúng ta cần biết lý do của hôn trầm, phần lớn là do ăn uống quá độ, hoặc thiếu ngủ, hay đích thực là cơ thể đang quá mệt mỏi. Vì thế chúng ta không nên ăn quá no trước khi ngồi thiền, nên ngủ đủ giấc để thân tâm khoẻ khoắn khi toạ thiền. Chọn chỗ ngồi thiền thoáng mát, không quá tối tăm. Tư thế toạ thiền cũng rất quan trọng, ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, hai vai ngang với hai trái tai v.v... Khi buồn ngủ thì không nên nhắm mắt.

Trạo cử, hoài nghi, phần lớn do chúng ta chưa có niềm tin vững chắc về pháp tu hoặc kiến thức của chúng ta quá rộng rãi, nên có nhiều thắc mắc, nghi ngờ. Để trị hai căn bệnh này, chúng ta cần tìm hiểu rõ về cuộc đời và đường lối tu tập cũng như sự chứng ngộ của Đức Phật. Tìm hiểu về giáo pháp của Ngài. Khi đã quyết định trở thành đệ tử của Phật thì phải thông suốt giới luật, đặt trọn niềm tin nơi Tam Bảo. Lý thuyết tức pháp học phải vững chắc thì khi thực hành mới không bị trạo cử hay nghi ngờ.

            Ở giai đoạn đầu của Nhất tâm, chúng ta có thể nhờ vào định lực đè nén sự nổi dậy của năm triền cái, nhưng vì chúng ta chưa Chánh Tư Duy rốt ráo và chưa tu tập pháp "Như lý tác ý"  để làm suy yếu tiềm năng của chúng, thì chúng vẫn còn tiềm tàng ẩn náu trong tiềm thức chúng ta. Chúng là những chất ô nhiễm, là lậu hoặc, tập khí bám chặt trong tâm và có khuynh hướng "nổi loạn" nhằm chọc thủng sự tịnh chỉ (Samatha), phá tan định lực của chúng ta khi có cơ hội.

            Con đường tu thiềncon đường đi về ngôi nhà tâm linh của mình. Trên đường đi phải qua nhiều cửa ải. Một trong những cửa ải đó là "năm triền cái". Qua được "năm triền cái" rồi, chúng ta còn phải buông bỏ Tầm và Tứ để an trú trong tầng Thiền thứ hai, tức Định không Tầm không Tứ. Đây là cửa ải khó khăn nhất. Khi tâm chúng ta đã quen thuộc với sự tĩnh lặng không Tầm không Tứ rồi thì "năm triền cái" không có cơ hội xen vào cuộc hành trình của chúng ta. Ngay lúc đó, trước mặt của chúng tacon đường thênh thang rộng mở, chúng ta sẽ nếm được pháp vị của Thiền và từ đó thẳng tiến tu cho đến khi nào kinh nghiệm được mục tiêu Thoát khổ, Giác ngộ, Giải thoát ngay trong đời này.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

August 18-2018

Tài liệu:

- Tìm Hiểu Kinh Sa Môn Quả: Đoạn Xả Ly Năm Triền Cái của Hoà Thượng Thích Nhuận Thịnh.

- Tài liệu học tập thuộc giáo trình giảng dạy các cấp lớp Bát Nhã của HT. Thích Thông Triệt (Thiền Tánh Không).
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
04/06/2014(Xem: 23620)
14/12/2014(Xem: 12284)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.