14 Tánh KhôngChân Như trong bài Bát Nhã Tâm Kinh

01/01/202110:28 SA(Xem: 6836)
14 Tánh Không và Chân Như trong bài Bát Nhã Tâm Kinh
TRÊN ĐƯỜNG VỀ NHÀ
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation
 

14

 TÁNH KHÔNG VÀ CHÂN NHƯ

TRONG BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

TÂM KINH

 

DẪN NHẬP

Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông được nhiều người đọc thuộc, nhưng về ý nghĩa thì cũng có nhiều gút mắc vì kinh được tụng đọc bằng âm Việt nhưng phải hiểu theo nghĩa tiếng Hán. Nhân 3 tháng an cư Kiết Đông 2015, chúng tôi được giảng dạy và ôn tập lại bài kinh này và hôm nay có ý muốn ghi lại chia sẻ cùng các bạn có nhu cầu muốn nghiên cứu tìm hiểu. Đây chỉ là một đóng góp nhỏ nhoi ở một góc cạnh nào đó của bài kinh theo cái nhìn của người học thiền. Nếu có điều gì sơ sót đó là lỗi của người viết, chứ không phải lỗi của người dạy. Rất mong nhận được sự hoan hỷ của bạn đọc.

 

BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH

 Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh,

Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

            "Xá-Lợi-Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.

            Xá-Lợi-Tử!  thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức;  vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý; vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; vô Nhãn giới, nãi chí vô Ý Thức giới, vô Vô Minh diệc, vô Vô Minh tận, nãi chíLão Tử, diệc,Lão Tử Tận;  vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô Trí, diệc vô Đắc.vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đoả y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề.

Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú. Tức thuyết chú viết: " Yết-đế, Yết-đế, Ba-la-yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề Tát-Bà-Ha" (3 lần)

 

 

NGUỒN GỐC

            Vào khoảng thế kỷ thứ 7, ngài Trần-Huyền-Trang là một cao tăng đời nhà Đường, Trung Hoa đã vượt biên giới sang Ấn Độ thỉnh kinh. Khi trở về nước, ngài viết quyển "Đại Đường Tây Vực Ký" ghi lại những chi tiết xảy ra trong suốt thời gian 12 năm chu du khắp Ấn Độ từ Bắc xuống Nam và qua tới Tích Lan. Trong đó, có sự kiện trên đường đi Ngài đã trải qua nhiều gian nan khổ cực, tưởng như đã mất mạng khi bị lạc vào sa mạc bảo cát, may nhờ gặp một người áo trắng dạy bài Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Ấn Độ, Ngài đã tụng đọc và thoát chết. Sau cùng đến được Ấn Độ bình an. Qua sự kiện này, người ta đoán vị áo trắng đó là Đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát.

Bài Bát-Nhã Tâm Kinhbài kinh thuộc hệ Phát Triển, viết bằng tiếng Sanskrit là bài kinh quan trọng chủ yếu nên người ta gọi là trái tim (Tâm Kinh), được dịch sang Hoa văn rồi lan truyền khắp các nước Đông Nam Á, tính đến nay đã trải qua gần 19 thế kỷ.

            Xem lại nguồn gốc lịch sử chúng ta thấy rằng hệ thống kinh Bát-Nhã rất đồ sộ, hơn 600 quyển gồm nhiều bài thi kệ nhưng không đề tên tác giả. Người ta chỉ biết rằng hệ thống kinh Bát-Nhã Ba-La-Mật phát xuất từ miền Nam Ấn trước Công Nguyên.

            Trong lịch sử Phật giáo có một sự kiện có thể cho chúng ta một chút suy đoán về nguồn gốc của hệ Bát Nhã Ba-La-Mật. Khoảng 236 năm, sau khi Đức Phật nhập diệt, nước Ấn Độ dưới sự cai trị của vua A-Dục, là vị vua rất sùng mộ đạo Phật, đã hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển Phật giáo cũng như nhiều tôn giáo khác.

            Vào thời đó có một vị cao tăng là ngài Đại Thiên, trụ trì tại một ngôi chùa lớn ở kinh đô rất giỏi Phật pháp. Một lần trong buổi thuyết pháp có đông đảo người tham dự, ngài Đại Thiên đã tuyên bố: "Những ai thuyết pháp giỏi đúng với chân ý Đức Phật thì người đó có quyền viết kinh!".  Lời công bố này được một số người trẻ tán thành, nhưng cũng có nhiều người phản đối. Rốt cuộc vấn đề này không được giải quyết ổn thoả, ngay cả vua A-Dục và Hoàng hậu, dù hết sức ủng hộ ngài Đại Thiên cũng bó tay, không thể giải quyết được vấn đề trọng đại này. Sau đó, ngài Đại Thiên cùng đệ tử xuống miền Nam Ấn giáo hoáthành lập nên hệ Bát-Nhã. Đó là lý do tại sao hệ thống kinh Bát-Nhã Ba-La-Mật xuất phát từ miền Nam Ấn. Hệ thống kinh này trải qua nhiều thời đại, kéo dài mấy trăm năm, các vị Tổ đã lần lượt sáng tác các bộ kinh được xếp vào hệ thống kinh Bát-Nhã nhưng không có bộ kinh nào đề tên tác giả.

Nhìn chung hệ thống kinh Bát-Nhã đề cao tư tưởng KHÔNG và CHÂN NHƯ. Các vị Tổ lấy Tánh KhôngChân Như làm nền tảng để tu tập, tiến đến thể nhập KHÔNG và thể nhập CHÂN NHƯ. Ngoài ra trong hệ thống kinh Bát-Nhã cũng đề cao một chủ đề nữa là Huyễn. Tựu trung ba chủ đề Chân Như,  Không và Huyễn xem như là 3 gốc độ của Trí Tuệ Bát-Nhã nhìn về hiện tượng thế gian trong đó có con người.

Trong hệ thống kinh Bát-Nhã, tác phẩm cuối cùng được dịch ra là "Bát- Nhã Tâm Kinh" hay là "Bát-Nhã Ba-La-Mật Đa Tâm Kinh". Đó là dịch theo âm Hán Việt. Bài này gồm 262 chữ, là bài kinh ngắn nhất trong hệ thống kinh Bát- Nhã Ba-La-Mật.

NỘI DUNG BÁT-NHÃ TÂM KINH

Bài Bát-Nhã Tâm Kinh được nhiều vị tôn đức dịch ra tiếng Việt. Nhưng bài viết này dựa trên bản Hán Việt ở trên. Trước hết chúng ta tìm hiểu sơ lược về một số từ ngữ hầu giúp chúng ta hiểu ý từng đoạn kinh quan trọng.  

- Maha: Đại, lớn, ý nói đến trí huệ rộng lớn sâu sắc.

            - Bát-Nhã: Tiếng Pàli là Pañña, tiếng Sanskrit là Prajnã, nghĩa là trí huệ đầy đủ.  Người Trung Hoa âm ra là Bát-Nhã, nghĩa là trí huệ sâu sắc hơn trí thông thường. Trí huệ này chỉ có nơi người tu tập kinh nghiệm định sâu, và qua sự kích thích của phản xạ thụ động huệ tự phát, chứ không qua sự học hỏi thế gian cóp nhặt của người khác. Đây là trí huệ tâm linh, trí huệ siêu vượt, là tuệ giác, là Phật tánh hay là tiềm năng giác ngộ có sẵn trong mỗi người chúng ta.

- Ba-La-Mật: Âm từ chữ Paramitã, tức là "qua bờ bên kia". Người Trung Hoa dịch là "đáo bỉ ngạn" nghĩa là "đã tới bờ bên kia". Ba-La-Mật ra ngoài chân lý quy ước, nó thuộc chân lý tối hậu. Chúng ta hiểu một cách tổng quát đó là: Sự kiện toàn của Trí Tuệ, Trí Tuệ hoàn hảo, Trí Tuệ cao nhất... gọi là Bát-Nhã Ba-La-Mật.

            - Kinh: Lời dạy của Đức Phật thường gọi là Kinh. Kinh dạy chúng ta tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát. Lời Tổ chú thích về Kinh thường gọi là Luận. Sau này, các vị Tổ viết ra những bộ Luận vẫn ghi là Kinh. Ví dụ như: Ngài Thần-Hội, đệ tử trẻ nhất của ngài Lục Tổ Huệ-Năng ghi lại những lời dạy của Lục Tổ đề là "Kinh Pháp Bảo Đàn". Cũng như những bộ Kinh của hệ Phát Triển như: Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cang v.v... cũng đề là Kinh, nhưng thực ra chỉ là những bộ Luận thôi!

- Tâm Kinh:  Hiểu theo hữu vi pháp, thì tâm đây là trái tim, trái tim giới hạn sự sống chết của con người, trái tim động là sống, không động là chết. Trái tim trong đạo Phật thường được hiểu qua các từ ngữ như "mạng mạch" là sinh mạng của giáo pháp nhà Phật. Nói về chân đế, Bát-Nhã Tâm Kinh là trái tim sống hoài của đạo Phật, có nghĩa là Trí Tuệ siêu việt. Nói về tục đế, Bát-Nhã Tâm Kinh là trái tim của giáo pháp.

Nghĩa chung, Bát Nhã Ba-La-Mật Đa Tâm Kinh là Kinh quan trọng nói về Trí Tuệ Bát-Nhã.

             "Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách"

            - Quán-Tự-Tại Bồ-Tát: Danh hiệu Đức Quán-Thế-Âm (Avalokitésvara). Bồ-Tát là âm của chữ Bodhisattva, có khi người ta đọc dài hơn là Bồ-đề-tát-đoả. Quán-Thế-Âm theo niềm tin là vị Bồ-Tát đã tu tập Tánh Nghe, Ngài đã nghe tiếng sóng biển tức Hải-Triều-Âm, vào được định và sáng đạo. Đức Quán- Âm sống với hạnh từ bi, nguyện đời đời độ chúng sanh không thành Phật. Đây là nhân vật hư cấu, nghĩa là trong sử liệu, ngài không có thật như Đức Phật Thích Ca và các đệ tử của Đức Phật. Truy nguồn gốc, Ngài là nam thần trong đạo Bà-La-Môn. Khi lan truyền đến Trung Hoa, Việt Nam, Ngài trở thành người nữ, là vị Bồ-Tát có nhiều hoá thân trong niềm tin dân gian thuộc về tín ngưỡng tôn giáo.

Trong Phật học, Bồ-Tát là danh xưng gọi những người tu tậpmục tiêu muốn đạt tới quả vị Phật. Ở trong kinh Đức Phật cũng tự xưng mình là Bồ-Tát trong thời gian Ngài đang tu tập khổ hạnh.

            Về sau, danh xưng Bồ-Tát đòi hỏi 2 giai đoạn: Tự giác-Giác tha,  hay Tự độ - Độ tha, nghĩa là chính mình phải giác ngộ sau đó phát tâm giúp đỡ người khác, cho nên con đường tu tậpgiáo hoá chúng sanh gọi là Bồ-Tát đạo.

            - Hành thâm: Thực hành ở trong định, sâu sắc trong Trí tuệ kiện toàn.        

     - Bát-Nhã Ba-La-Mật:Huệ siêu vượt, nghĩa là Bồ Tát đã đi qua hết chặng đường tu tập, bây giờ đã tới mức cuối cùng, nghĩa là đã qua tới bờ giải thoát, và kết quả là Ngài đạt Trí Tuệ siêu vượt, nhận ra bản thể của Ngũ uẩn là trống không.

- Chiếu kiến: Kiến là thấy. Chiếu kiến là cái thấy soi sáng, thông hiểu vấn đề. Cái thấy này không phải là thấy bằng mắt thường, mà thấy bằng trí huệ tức thấy trong Nhận thức cô đọng, Bồ Tát nhận biết rõ ràng bản thể của ngũ uẩn là trống không.

            - Giai không: Giai là tất cả. Giai không là tất cả đều trống không.

- Độ: Nghĩa là con đò đưa mình qua sông, cứu vớt hay giúp đỡ.

- Nhất thiết: Là tất cả .     

- Ách: Là cái gông buộc ngang đầu con bò, những đau khổ đè nặng lên mình gọi là khổ ách.

            - Ngũ uẩn giai không: Con người hay Ngũ uẩn gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi phân tích con người do Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức kết hợp mà thành. Đức Phật giảng rằng mỗi khối đó không thường hằng, không thực chất cố định nên nó trống không, gọi là Vô Ngã. Trong bài kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật đưa ra ba đặc điểm của con ngườihiện tượng thế gianVô Thường, Khổ, Vô Ngã gọi chung là Tam Pháp Ấn. Về sau các vị Tổ lập thêm Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Không gọi là Tứ Pháp Ấn. "Không" trong Tứ Pháp Ấn dùng để khai triển về cái Ta, đó là: không Ta, không cái của Ta, không tự ngã của Ta. Sau cùng các Ngài rút gọn lại chỉ còn một pháp gọi là Nhất Pháp Ấn là Không. "Không" này bao trùm khắp pháp giới.

TÁNH KHÔNG

Ngũ uẩn không thực chất, không thường hằng cho nên bản thể của nó trống không.  Đó là ý nghĩa của "Ngũ uẩn giai không". Khi kết luận "Ngũ uẩn giai không", không có nghĩa là phủ nhận không có Ngũ uẩn. Cái nhìn vạn vật trống không là cái nhìn của Trung đạo. Trung đạo tức là không rơi vào hai cực đoan: Có và Không.

Nhắc lại ý nghĩa Trung đạo của "Không", chúng ta cần hiểu nó không có nghĩa phủ định. Và chữ "Không" ở chỗ "Ngũ uẩn giai không" là chữ "Không" trong tiếng Hán Việt có nghĩa là "trống không", chứ không phải chữ "Không" trong ý nghĩa tiếng Việt là "không có".

            Trở lại bản thể của con người là “trống không” bởi con người do nhiều duyên, nhiều nhân mà thành. Khi nhân duyên tan rã thì người đó cũng tan rã. Khi gặp duyên khác phù hợp kết lại thanh một hình thể khác. Nhưng tại sao khi nhận ra con người (ngũ uẩn) là trống không, thì không còn đau khổ nữa? Đó là vì chúng ta nghĩ có cái ngã thật nên mới khổ. Còn nếu nhận ra con người thực sự chỉ là năm khối khác biệt hợp lại mà thành, nên con người không phải là ta, tức là vô ngã. Đã là vô ngã thì lấy ai để đau khổ?  

            Ý nghĩa ngắn gọn của câu kinh đầu tiên này là Bồ Tát Quán-Tự-Tại tu tập đã qua tới bờ bên kia (Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa) tức đạt được trí tuệ siêu vượt, nhận ra Tánh Không của vạn vật, trong đó có con người (Ngũ uẩn giai không) nên Ngài vượt qua khỏi mọi khổ ách.  Nói cách khác, bản thể của con người cũng như bản thể của khổ đau đều trống không, Bồ Tát đang an trú trong Niết-bàn thì làm gì có đau khổ?

            - Xá-Lợi-Tử: Âm từ chữ Sārīputta. Sàrì là Xá-Lợi. Putta là Phất, cũng có nghĩa là con, nên chúng ta thấy trong kinh có lúc gọi ngài là Xá-Lợi-Tử, có khi gọi ngài là Xá-Lợi-Phất. Ngài là đệ tử lớn trong số 10 vị đệ tử khác của Đức Phật, được Đức Phật tán thán là đệ nhất trí huệ.

            - Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc: Hiểu theo Khoa học, Sắc là vật chất, chúng ta tưởng là nó cứng cỏi, vững bền, nhưng thực ra nó có là do nhiều nguyên tử kết hợp. Qua kính hiển vi với độ phóng đại 5 ngàn lần nhỏ hơn 1 ly (microns), chúng ta sẽ thấy từng yếu tố cực nhỏ nữa. Những yếu tố đó được các nhà Khoa Học Vật lý gọi là: Protons, Neutrons, Electrons, Mesons, Hadrons và nhỏ nhất là Quarks. Quark chỉ là tên gọi để chỉ đơn vị nhỏ nhất của vật chất, chẳng có một hình dáng hình thể gì cả. Nó chỉ là một sự trống không. Tuy nhiên trong sự trống không của nó có những sức đẩy từ bên trong nó phóng ra. Sức đẩy này làm vận chuyển các hạt hay đơn vị khác như Protons, Neutrons, Electrons, Mesons và Hadrons. (*) Như vậy Sắc không khác gì Không và ngược lại.

            Còn hiểu theo giáo lý nhà Phật "Sắc bất dị không, Không bất dị Sắc" chữ Không của vế đầu là tỉnh từ trống không, trống rỗng (śūnya). Chữ Không của vế thứ nhì là danh từ Sự Trống Không, Sự Trống Rỗng (śūnyatà) có nghĩa là "Vật chất không khác với trống không, Sự trống không cũng không khác với Vật chất",bản thể của vật chất là trống không.

            - Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc: Bằng trí tuệ chúng ta nhìn thấy: "Vật chất, bản thể của nó trống không và sự trống không này chính là vật chất". Từ sự nhìn thấy này chúng ta có thể hiểu: "Thân con người bản thể trống không cho nên con người trống không. Và sự trống không này chính là con người". Để cho rõ nghĩa ở vế thứ hai chúng ta có thể hiểu con người sanh ra do tinh Cha huyết Mẹ kết hợp mà thành. “Tinh Cha, Huyết Mẹ, bản thể trống không, nên sự trống không đích thị là con người.

            Tóm lại, từ thế giới vật chất, chúng ta phải nhận ra bản thể của nó trống không "Sắc tức thị Không", nhưng chính từ trạng thái trống không đó, nó mới kết hợp lại để trở thành thế giới vật chất "Không tức thị Sắc".

            - Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị: Khi nói bản thể của Sắc trống không, thì bản thể của bốn khối: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng trống không. Do đó, kết luận bản thể của Ngũ uẩn tức 5 khối đều trống không. Nhưng không phải Ngũ uẩn hoàn toàn không có, nó có nhưng mà vì nó di động, biến dịch luôn nên gọi là “Huyễn Có”.

              Khi chúng ta nhận ra bản thể trống không của con ngườivũ trụ, chúng ta sẽ không còn dính mắc, không còn nắm chặt quan niệm cũ cho cái thân này mãi mãi trường tồn nữa... thì đó là Trí Tuệ Ba-La-Mật. Trong kinh dùng chữ "chiếu kiến" không có nghĩa là suy gẫm, suy tư hay là quán chiếu, mà là cái thấy rõ ràng sáng tỏ, do Trí Huệ đã nhận ra bằng Nhận Thức Không Lời về cái Tánh Không của con ngườivũ trụ. Ngay đây, Bồ Tát đã thể nhập vào KHÔNG rồi, nên nhận ra Ngũ uẩn là Không thì tất cả những điều đau khổ, những chướng ngại ở trên đời thực ra bản thể của chúng cũng là Không.  

TÁNH NHƯ hay CHÂN NHƯ

 - Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm: Phần ở trên bàn về bản thể, về cái tánh của hiện tượng thế gian. Bây giờ nói đến cái tướng. Tướng là những cái gì biểu lộ ra bên ngoài gọi là tướng. Chữ tướng hiểu theo tục đế là dấu hiệu bề ngoài, giác quan có thể nhận ra

            Câu "thị chư pháp không tướng" này, đã chuyển qua khía cạnh khác của con ngườivũ trụ, đó là nói đến vạn pháp nhìn có tướng mà thực ra không có tướng, thuật ngữ gọi là “thực tướng vô tướng”. Đó là nói đến Tánh Như hay Chân Như của vạn pháp".  Trong trạng thái Chân Như không có cái gì trong đó hết, nó khách quan, không tên tuổi, không dấu vết và nó yên lặng bất động, cho nên nó không có tướng sanh, tướng diệt. Nó cũng không có tướng dơ, tướng sạch. Nó cũng không có tăng lên, cũng không có giảm xuống.

            - Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;... Chúng ta nhìn thấy, biết rằng ở "trong cái chỗ trống không" đó, hay là "trong giữa cái trống không" (không: trống không; trung: ở trong hay ở giữa) tức là trạng thái Chân Như không có chứa đựng cái gì hết. Nó chỉ Như vậy thôi!  Chân Nhưtrạng thái khách quan của hiện tượng thế gian, chứ nó không phải là hiện tượng thế gian, cho nên ở đây mới nói phủ định là không có Sắc, không có Thọ, không có Tưởng, không có Hành, không có Thức, không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức là  6 căn, 6 trần không có trong đó, cho nên không có nhãn giới, không có ý thức giới.

            - Vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chílão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc: Là nói tới 12 nhân duyên. Vô Minh sanh Hành, Hành khởi Thức, Thức khởi Danh Sắc, Danh Sắc khởi Lục Nhập, Lục Nhập khởi Xúc, Xúc sanh Thọ, Thọ sanh Ái, Ái sanh Thủ, Thủ sanh Hữu, Hữu khởi Sanh, Sanh khởi Lão Tử. Vô minhnhân thứ nhất, nhân cuối cùngLão tử. Nhưng đây là một vòng tròn khép kín nên cũng không nói mắc xích nào là đầu, mắc xích nào là cuối. Đó là cái nhìn của con người mới học đạo, thấy tất cả đều thật, là tại vì con ngườicảm thọ qua giác quan nên thấy 12 mắc xích là thật. Đây là chỗ đứng của Tục đế Bát Nhã. Bây giờ qua cái nhìn của Chân đế Bát Nhã, trạng thái Chân Như không có khái niệm gì hết, không chứa gì trong đó hết, nó hoàn toàn bất động cho nên không có 12 nhân duyên trong đó, không có Vô minh, không có không Vô minh, không có già, cũng không có không già, không có chết.... Vì thế 12 nhân duyên cũng là pháp phương tiện, Đức Phật bày ra để dẫn dắt chúng sanh tu, chứ bản thể của mỗi mắc xích liên kết với nhau đều là trống không, đều là Huyễn Có. Và cuối cùng trong Chân Như cũng không có trí, mà cũng không có đắc.

            Bài Bát-Nhã Tâm-Kinh, hoàn toàn nói về Chân đế Bát Nhã, không có nói Tục đế, thì ngay cả Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng không có, bởi vì bản thể của nó trống không. Những nỗi Khổ là do duyên sanh, do quy luật nhân quả, nó có trong cái nhìn Tục đế, nhưng trong cái nhìn giác ngộ thì nó không thật có, mà là Huyễn Có vì nó là trống không. Cho nên cả 4 chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng không thật sự có trong cái nhìn Chân Đế, nó là phương tiện để dắt dẫn con người đi tới thoát khổ thôi! Vì thế ở trong trạng thái Chân Như không có những pháp phương tiện này.

             - Vô trí diệc vô đắc: Không đạt được trí tuệ cũng không chứng đắc cái gì. Nếu nói đạt được cái gì là còn nằm trong Tục đế. Bởi vì khi nói có cái Trí đạt, tức là chưa đạt, là vì còn Ta và đối tượng, còn năng sở, còn cái Ngã, thì làm gì có đạt.

            Trong kinh dùng chữ "bất" và chữ "", nó có nghĩa là phủ định. Tại sao lại phủ định? Nếu không nói thì không ai hiểu, mà hễ dùng lời là quy ước, cho nên phải dùng phủ định để dẫn dắt tới chỗ không có gì trong Chân Như.

            Thí dụ: Tâm Như là chỗ không lời, Atakkàvacara, nhưng nếu không nói ra làm sao người ta biết chỗ này phát huy Trí huệ, thành ra phải nói. Bài kinh này các vị Tổ dùng lời để giảng chỗ không lời. Chỗ nào không có gì hết thì dùng chữ "bất", dùng chữ "vô" nghĩa là phủ định. Như không tăng không giảm, không cấu, không tịnh, không già, không chết v.v... tức là không có gì hết. Đó là phải tạm dùng lời, vì lời cho nên phải phủ định. Loại trừ những phủ định đó ra, thì còn lại cái tinh tuý của nó. Cái tinh tuý này tạm gọi là Chân Như, là nó đó, là Atakkàvacara. Chỉ là phương tiện thôi, cho nên những "lời này" cũng giống như "ngón tay" chỉ "mặt trăng" hay "mặt trời". Phương tiệnlời nói, chữ viết, kinh điển... là quy ước, không phải là "". Nó ở đây là kho báu của mình, là mặt trời trí huệ của mình, là viên ngọc Như Ý trong búi tóc hay trong chéo áo của mình. Nó phát triển tới vô lượng vô biên.

            Nói vô Trí là không có trí tuệ cũng không đúng, mà nói có cũng không đúng. Có trí tuệ thì mới gọi là kho báu, là viên ngọc như ý, tức là lúc đó hoàn toàn an vui không còn khổ nữa và mình có những phương tiện thiện xảo để giúp đời, nhưng mà khi nói có trí tuệ là đã dính mắc, đã rơi vào cái nhìn của thế gian. Mà nói không thì cũng không đúng.

            Kinh nói "vô đắc vô trí" là không có đạt gì. Mà thực sự có đạt gì không? Hễ dùng phương tiện thì nói là có đạt, nhưng khi mình hoàn toàn không khởi niệm gì hết thì mình không vướng vô 2 cực đoan Có và Không, là ở trong Trung đạo.

            - Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đoả y Bát Nhã Ba-La-Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn:  Vì không có chỗ chứng đắc (chứng đắckhông chấp vào quả chứng đắc đó mới thực là chứng đắc) nên Bồ Tát y theo Bát-Nhã Ba La-Mật-Đa, tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn

Tâm bị ngăn ngại là tâm còn ở trong ranh giới của cái Ngã giới hạn, còn sống với Ý thức thì còn phân biệt, còn lăn lộn giữa bao nhiêu cảnh trái ngang, phiền toái của đời thường thì đương nhiên tâm còn ngăn ngại, còn mộng tưởng và còn sợ hãi. Còn “Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa cố” nghĩa là Ngài đang sống trong trí huệ siêu vượt, qua khỏi bờ sanh tử rồi thì có gì ngăn ngại cái tâm quảng đại đó nữa.

            - Cứu cánh: là ở chỗ cuối cùng, hành giả chứng nghiệm được trạng thái tâm vắng lặng, tịch diệt gọi là Niết Bàn, cho nên trạng thái Niết Bàn chính là trạng thái Tâm Như, Như Như bất động. Khi còn sống gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Khi ra đi không còn thân nữa thì gọi là Vô Dư Y Niết Bàn. Như vậy mình hiểu Niết Bàn không phải là nơi chốn nào xa xôi, nó là trạng thái Tâm Như của mình thôi.

            - Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-Đề: A-nậu-đa-la Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề phiên âm từ Anuttara-Sammà-Sambodhi. Có ý nghĩaVô Thượng Chánh Đẳng Giác (sự giác ngộ không ai hơn). Bodhi là Giác ngộ, là Bồ đề, tức là quả vị Phật, mà Đức Phật tự xưng mình là Như Lai (Tathagatà). Do danh xưng Tathagatà, chúng ta biết rằng, muốn đạt được quả vị toàn giác phải đi qua Tâm Như, phải kinh nghiệm Tâm Như. Qua câu này mình biết phần quan trọng của bài kinh là nói đến Chân Như.

            Tam thế chư Phật là Phật đời quá khứ, hiện tạivị lai đều dựa theo Trí tuệ siêu vượt này đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

            - Cố tri Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư: Như vậy phải biết Trí tuệ kiện toàn này giống như linh chú vĩ đại nhất, sáng suốt nhất, cao thượng nhất, không có cái nào cao hơn. Nó trừ tất cả mọi thứ Khổ trong đời, và nó là cái thực tại tối hậu không hư dối.

            Như vậy bài Bát Nhã Tâm Kinh muốn nói đến 2 chủ đề lớn là Không và Chân Như. Chủ đề Không đưa đến thoát khổ. Chủ đề Chân Như đưa tới Trí huệ kiện toàn (Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa). Đó là căn cứ nơi sự kiện lịch sử của Đức Phật Thích Ca. Ngài đã chứng ngộ cái Chân Như. Từ đó Trí huệ phát sinh giải thích tất cả những bí ẩn thầm lặng của con ngườivũ trụ.

            - Yết-đế, Yết-đế, Ba-La yết-đế, Ba-La-Tăng yết-đế, Bồ-Đề Tất-Bà-Ha:

            Còn đoạn cuối cùng với câu thần chú, thật ra cũng không phải là thần chú, đó chỉ là một câu tiếng Phạn bày tỏ niềm vui tán thán của người đã đạt được sự giác ngộ, đã tới được bến bờ bên kia: Yết-đế, Yết-đế, Ba-La yết-đế, Ba-La-Tăng yết-đế, Bồ-Đề Tát-Bà-Ha (Gate Gate paragate parasamgate Bodhi svara) , chỉ vì câu này viết sau mấy chữ thần chú...  nên vô tình người ta tưởng nó huyền bí, chứ nó không có ý nghĩa huyền bí, nó chỉ có nghĩa là: "Đã tới rồi, đã tới rồi, tới bờ bên kia, tới bờ Giác ngộ rồi!"

CỐT LÕI CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH

            Chúng ta đã biết nhân vật Quán-Tự-Tại Bồ-Tát là nhân vật huyền thoại. Bài kinh này sáng tác sau thời Đức Phật. Sau khi nghiên cứu tìm hiểu chi tiết từng chữ, từng câu, từng đoạn của bài kinh, chúng ta nắm được cốt lõi bài kinh mà chư Tổ muốn gửi gắm cho hàng hậu học. Còn cấu trúc của bài kinh, các Tổ thuộc hệ Phát Triển mượn danh xưng ngài Xá-Lợi-Phất để trao truyền. Nếu tính thời gian theo trong Sử ghi lại thì ngài Xá-Lợi-Phất đã viên tịch trước Đức Phật, mà kinh này thì xuất hiện sau thời Đức Phật! Chúng ta chỉ Thầm Nhận Biết tới đây thôi.... Điều quan trọng của chúng ta là rút ra những điểm mấu chốt cần thiết của bài kinh này để học hỏi và tu tập!

            Đọc kinh chúng ta thấy các vị Tổ đã trình bày ngay cái chỗ cuối cùng, ngay nơi đến của người tu tức là trong trạng thái Tâm Không và Tâm Như. Hai trạng thái cùng giống nhau ở chỗ Atakkàvacara, là chỗ không lời.

            Khi trình bày về Tánh Không, chúng ta nhận thấy văn kinh rất là ngắn gọn, hàm xúc, minh bạch, không mơ hồ. Các Tổ đã đứng trong chỗ đứng của Đức Phật để trình bày cái nhìn Phật Giáo, nói về con người, đó là nói bản thể của con người trống không. Và từ cái nhìn này, sẽ có cách đưa con người thoát ra khỏi mọi khổ đau ở trên đời.

            Nội dung bài kinh này chư Tổ nói lên được mục tiêu giảng dạy của Đức Phật khi ngài nói: "Tất cả nước trong đại dương có một vị mặn, đạo của Ta cũng có một vị thôi, đó là vị thoát khổ".  Trong cái nhìn này, Phật giáo không mơ hồ, viễn vông, mà giúp con người ngay khi còn sống chứ không hứa hẹn ở tương lai xa vời. Bài Bát Nhã Tâm Kinh này quả thật xứng đáng để chúng ta học hỏi vì đã nói đúng theo chân ý của Đức Phật là:

            - Đưa con người thoát khỏi khổ đau triền miên, đó là cái nhìn của Tánh Không. Cái nhìn Không là cái nhìn Trung đạo của Phật giáo không rơi vào cực đoan Thường kiếnĐoạn kiến. Con người có thật nhưng bản thể trống không, nghĩa là Vô ngã phá tan xiềng xích của Chấp Ngã.

            - Các vị Tổ khai triển Trí tuệ rốt ráo tới bờ bên kia là khai triển tới Chân Như. Chân Như cũng nằm trong Trung đạo, nó cũng tương tự như Không, như chỗ đứng của Huyễn. Đó là thế chân vạc, thế đứng vững chắc để phát huy Trí huệ kiện toànBát Nhã Ba-La-Mật.

            - Chủ đề Không được trình bày trước với dụng ý đưa kết quả giúp thoát khổ. Sau đó mới trình bày Chân Như. Đây là phương tiện giúp con người phát huy Trí huệ kiện toàn, bằng chứng là Đức Phật đã thành đạo qua Chân Như.

            - Các chư Phật ba đời cũng qua Chân Như mà phát huy Trí huệ siêu vượt.

KẾT LUẬN

            Con đường tâm linhcon đường dài thăm thẳm, trơn trợt nhiều hơn là bằng phẳng.  Nhờ có phước báo lớn lao mới gặp được Minh Sư dẫn dắt, nếu không sẽ lạc vào khu rừng âm u tăm tối, không biết đến đời nào kiếp nào mới thấy được ánh sáng Phật pháp. Bước đầu chúng ta còn ở "bờ bên này". Muốn đến được "bờ bên kia" thật là gian nan vô cùng. Nếu không khó khăn, thì Tổ đã không nói phải mất đến 3 A-Tăng-Kỳ kiếp mới đạt đạo.  Nhưng mà đã quyết chí đi trên con đường tâm linh thì mình phải tuân theo một số điều kiện của bậc Thầy Tổ đưa ra.

            Điều kiện đầu tiên là tỉnh ngộ để hướng cuộc đời đi vào ngã tâm linh. Tỉnh ngộsức mạnh cần thiết để quyết định mục tiêu mình sẽ đến, nhưng phải có quyết tâm tinh tấn để không chùn bước bỏ cuộc trên đường đi. Cả hai điều kiện này cũng chưa đủ, vì ngay như Đức Phậtý chí sắt đátỉnh ngộ, nhưng ngài cũng đã hai lần thất bại trên con đường tầm đạo. Lần thứ nhất từ giả thầy Àlàra Kàlàma, lần thứ hai từ giả thầy Uddaka Ràmaputta, lý do là pháp thiền định của 2 vị thầy này không giúp Ngài đạt được mục tiêu mà Ngài nhắm đến.    

            Theo kinh nghiệm của Đức Phật thì điều kiện thứ ba cần thiết nhất, chính là Pháp tu hay Pháp môn tu. Đã chọn Pháp tu rồi, nó dẫn mình đi đâu thì mình phải biết. Không phải đặt chân lên con đường đã chọn là bảo đảm mình đã đi đúng. Phải lấy bài học của Đức Phật mà rút kinh nghiệm cho bản thân mình, đó là Pháp tu rất là quan trọng. Sau khi Đức Phật thành đạo, ngài nhận ra sự thành đạo của ngài là nhờ Pháp. Pháp đó là Chân Như. Ngài đã đảnh lễ và tôn Pháp là vị thầy của ngài.

            Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật đã dặn dò đệ tử: "Sau khi ta diệt độ, các ông lấy Chánh Pháp làm Thầy". Đức Phật dạy nhiều Pháp lắm, Pháp nào cũng đúng, chúng ta làm sao biết Pháp nào mà chọn? Trong bài kinh này chúng ta thấy các Tổ đã hướng dẫn chúng ta đi thẳng vào Pháp tối caoTánh KhôngChân Như. Khi đã chọn pháp tu và trên đường tu, chúng ta phải vừa học giáo lý vừa thực hành, phải tu Huệ và tu Định. Phải kinh nghiệm cái Biết Không Lời của Tánh Giác để tâm được tĩnh lặng, đồng thời phải thực hành trong 4 oai nghi để đi đến cuối cùngkinh nghiệm Nhận Thức Biết Không Lời tức đạt được trạng thái Tâm Như.

            Để biết mình tu sai hay đúng? Mình hãy tự quan sát kết quả trên Thân, Tâm và Trí Huệ tâm linh của mình. Tu đúng là càng ngày mình càng nhận ra thân thể khoẻ mạnh, đi đứng nhẹ nhàng khoan thai, thần sắc trong sáng... Tâm không còn dính mắc, phiền muộn, mà thanh thản, an vui, bao dung, tha thứ... Về Trí tuệ tâm linh thì nhận ra Tánh Giác kiến giải nhiều điều giúp mình hành xử đúng đắn, thành công, và hài hoà trong cuộc sống hằng ngày. Trí tuệ tâm linh sẽ phát huy từ thấp đến cao tuỳ theo sự dụng công của mình.

            Đó là những tiến trình tu tập đòi hỏi thời gian, hãy khép mình vào kỷ luật, kỷ luật của mình là an trú thường xuyên trong Tánh Giác, lúc nào cũng có cái Biết Không Lời qua nghe, thấy, xúc chạm. Trong kinh gọi là Chánh Niệm. Thực hành miên mật trong 4 oai nghi sẽ đưa đến Chánh Niệm Tỉnh Giác, và khi đó mình sẽ kinh nghiệm trạng thái Tâm Như.

            Có điều quan trọng, chúng ta nhận ra trong bài Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh, các Tổ muốn gởi gắm mục đích tu tập là phải "qua bờ bên kia" tức đạt "Trí tuệ kiện toàn" bằng 2 chủ đề Tánh KhôngChân Như, nhưng không thấy các ngài đưa ra phương pháp thực hành hai chủ đề này để kinh nghiệm được Không ĐịnhChân Như Định, mà các ngài chỉ bày ra kết quả "tới bờ bên kia" tức "Trí Tuệ kiện toàn". Bây giờ chúng ta phải làm sao? Hành thiền để kinh nghiệm Không hay Chân Như đâu thể thực tập theo kinh sách vì kinh sách đâu phải dễ hiểu, dễ ngộ, hay là thực tập theo những bài chỉ dẫn đăng tràn ngập trên internet? Thực tập như thế, khi gặp trở ngại hay trục trặc thì biết hỏi ai để gỡ rối giúp mình? Câu giải đáp chính xácan toànchúng ta phải tìm cầu học đạo với một vị Thầy thực sự có kinh nghiệm, có thực chứng về thiền định, để hướng dẫn chúng ta từng bước từ thấp lên cao, theo đúng lời dạy của Đức Phật. Ngày xưa các Tổ cầu Thầy học đạo không phải dễ. Như Tổ Huệ-Khả đã quỳ ngoài sân giữa trời bảo tuyết, phải chặt một cánh tay để bày tỏ tấm lòng tha thiết cầu đạo mới được Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma nhận làm đệ tử. Ngày nay chúng ta cũng phải học bài học kiên trì tìm kiếm đó, nhưng không phải chặt tay chặt chân như người xưa.

            Tóm lại, khi Trí năng đã tỉnh ngộ đã chọn lối sống theo con đường tâm linh. Sau khi trạch pháp, chọn pháp tu thích hợp với căn cơ của mình, có Thầy bổn sư đỡ đầu, thì phải chuyên cần tinh tấn. Pháp học và Pháp hành cần đi đôi thì mới có thể dần dần đi đến mục tiêu thoát khổ giải thoát giác ngộ. Mình cứ vững tâm tu tập không mong cầu (tham lam), vì nếu đời này tu chưa xong, chưa tới, thì đời sau tiếp tục tu tập nữa. Đức Phật đâu phải chỉ tu có một đời hay một kiếp mà "trọn thành Phật đạo". Cho nên chúng ta chớ nên thấy khó mà thối chí rụt ngòi. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(15/11/2015)

Tài liệu:

* Luận Giảng Vấn Đáp về "Tiến Trình Tu ChứngThành Đạo của Đức Phật" Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn phát hành năm 2014.

* Khoá Tu Học trong 3 tháng An Cư Kiết Đông (2015) tại Tổ Đình Tánh Không, CA, do Hòa Thượng Thích Thông Triệt giảng dạy.




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Thư Ngỏ của Tỳ kheo Thích Giác Tâm Thế danh: Trương Mậu Nam Hiện trụ trì tại: Chùa La, thôn Cẩm Liên, xã Cẩm La, Tx Quảng Yên, T Quảng Ninh, nước Việt Nam Do ảnh hưởng trực tiếp từ bão Yagi quá mạnh đổ bộ trực tiếp vào Quảng Ninh nên chùa con bị thiệt hại nặng nề. Trụ xứ chúng con có 9 chú tiểu là trẻ mồ côi con nhận cưu mang nuôi dưỡng, đang ở mái che tạm.
Đây là lần thứ hai tôi đến Tu Viện Gaden Shartse Thubten Dhargye Ling (còn được gọi là Chùa TDL) tại Thành Phố Long Beach, Miền Nam California, Hoa Kỳ. Lần đầu tôi đến đây cách nay vài năm để làm phóng sự cho pháp sự kiến tạo Mạn Đà La do chư Tăng từ Tu Viện Gaden Shartse Monastery tại Ấn Độ sang thực hiện.
Phái đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ đã đến thăm Orange County và tổ chức buổi cơm chay "Gây Quỹ Xây Dựng Học Viện Phật Giáo Viên Giác tại Đức Quốc" vào thứ bảy ngày 5/10/2024 tại trung tâm Sangha, 7641 Talbert Avenue, thành phố Huntington Beach....Kiều Mỹ Duyên có buổi phỏng vấn Hòa Thượng Thích Như Điển và Hòa Thượng Thích Thông Triết vào thứ hai ngày 7/10/2024 trên đài truyền hình VBS 57.6 cùng cô Thu Anh, chuyên viên địa ốc.