Thư Viện Hoa Sen

Sơ Lược Về Lăng Già Lục Sư & Những Dòng Thiền Hậu Duệ | Thiện Phúc (Song ngữ Vietnamese-English)

14/06/20254:30 SA(Xem: 2371)
Sơ Lược Về Lăng Già Lục Sư & Những Dòng Thiền Hậu Duệ | Thiện Phúc (Song ngữ Vietnamese-English)

THIỆN PHÚC

SƠ LƯỢC VỀ
LĂNG GIÀ LỤC SƯ &
NHỮNG DÒNG THIỀN HẬU DUỆ

(SUMMARIES OF SIX LANKAVATARA MASTERS & THEIR INHERITED ZEN LINES)

LANG GIA LUC SU
Copyright © 2025 by Ngoc Tran. All rights reserved.

No part of this work may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying and recording, or by any information storage or retrieval system without the prior written permission of the author, except for the inclusion of brief quotations. However, staff members of Vietnamese temples who want to reprint this work for the benefit of teaching of the Buddhadharma, please contact Ngoc Tran at (714) 778-2832.

PDF icon (4)SƠ LƯỢC VỀ LĂNG GIÀ LỤC SƯ & NHỮNG DÒNG THIỀN HẬU DUỆ-VIỆT
SƠ LƯỢC VỀ LĂNG GIÀ LỤC SƯ & NHỮNG DÒNG THIỀN HẬU DUỆ-ANH



Mục Lục

 

Mục Lục  

Lời Đầu Sách   
Phần Một: Tóm Tắt Về Thiền Tông Phật Giáo 
Chương Một: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni & Sự Khai Sanh Của Thiền Định
Chương Hai: Hình Ảnh Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Theo Quan Điểm Thiền Tông   
Chương Ba: Bức Thông Điệp Vô Giá Của Đức Phật Về Tu Tập Thiền  
Chương Bốn: Sơ Lược Về Thiền Tông Phật Giáo 
Chương Năm: Tóm Lược Về Cốt Lõi Giáo Thuyết Thiền Tông Phật Giáo 
Chương Sáu: Tổng Quan Về Dòng Truyền Thừa Trong Thiền Tông Ấn Độ  
Chương Bảy: Ma Ha Ca Diếp: Sơ Tổ Thiền Tông Ấn Độ
Chương Tám: Hai Mươi Tám Tổ Ấn Độ  
Phần Hai: Tổng Quan Về Kinh Lăng Già & Những Giáo Pháp Quan Trọng Trong Bộ Kinh Nầy   
Chương Chín: Kinh Lăng Già: Một Trong Những Triết Lý Cao Tuyệt Trong Đạo Phật   
Chương Mười: Duy Tâm Duy Thức Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Một: Bốn Nguyên Nhân Khơi Dậy Nhãn Căn Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già   
Chương Mười Hai: Sáu Luận Chứng Về Duy Thức Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Ba: Tam Tự Tính Tướng Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Bốn:Tám Nghĩa Của Duy Tâm Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già
Chương Mười Lăm: Tám Tánh Của Pháp Thân Như Lai Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Sáu: Năm Loại Duy Thức Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Bảy: Tám Thức Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Tám: Tam Chủng Thức Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Mười Chín: Hai Loại Vận Hành Của Tâm 
Chương Hai Mươi: Nhị Trí Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Mốt: Nhị Vô Ngã Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Hai: Cảnh Giới Như Lai Thánh Trí Tự Giác Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Ba: Ngũ Uẩn Không Có Tự Ngã Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Bốn: Tâm Cảnh Như Nhất & Bất Khả Phân Ly Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Lăm: Như Lai Tứ Bình Đẳng Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già
Chương Hai Mươi Sáu: Năm Đẳng Cấp Chúng Sanh Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Bảy: Tam Chủng Ba La Mật Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Hai Mươi Tám: Lục Căn Nhân & Tứ Trợ Duyên Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già   
Chương Hai Mươi Chín: Tướng Danh Ngũ Pháp Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già
Chương Ba Mươi: Vọng Tưởng Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Ba Mươi Mốt—Chapter Thirty-One: Tam Chủng Hiện Hữu Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già  
Chương Ba Mươi Hai: Tám Lý Do Không Nên Ăn Thịt Súc Vật Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Ba Mươi Ba: Tam Giới Duy Nhất Tâm Hay Tâm Ngoại Vô Pháp 
Chương Ba Mươi Bốn: Pháp Giới Duy Tâm Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Ba Mươi Lăm: Thất Chủng Không Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Ba Mươi Sáu: Tự Tánh Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già  
Chương Ba Mươi Bảy: Chánh Pháp Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Ba Mươi Tám—Chapter Thirty-Eight: Tạng Nghiệp Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già   
Chương Ba Mươi Chín: Tu Tập Tâm Ý Thanh Tịnh Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Bốn Mươi: Quán Tưởng Ba Đối Tượng Về Trí Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Bốn Mươi Mốt: Bốn Loại Thiền Định Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Bốn Mươi Hai: Niết Bàn Chính Là Tách Xa Cái Mạt Na Thức Phân Biệt Sai Lầm   
Chương Bốn Mươi Ba: Một Khi Đã Xả Bỏ Tàng Thức, Mạt Na Thức Không Còn Chấp Ngã, Sáu Thức Trước Sẽ Tự Nhiên Chết   
Chương Bốn Mươi Bốn:  Tu Tập Đắc Hậu Đắc Vô Lậu Trí Đồng Nghĩa Với Không Còn Mạt Na Thức 
Chương Bốn Mươi Lăm: Tu Tập Với Tâm Vô Phân Biệt Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Bốn Mươi Sáu: Bồ Tát Nguyện Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già 
Chương Bốn Mươi Bảy: Bồ Tát ThừaNhị Thừa Theo Quan Điểm Kinh Lăng Già  
Chương Bốn Mươi Tám: Hương Thiền Trong Kinh Lăng Già  
Phần Ba: Sơ Lược Về Lăng Già Lục Sư  
Chương Bốn Mươi Chín: Sơ Lược Về Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma  
Chương Năm Mươi: Sơ Lược Về Thiền Pháp Của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma  
Chương Năm Mươi Mốt: Sơ Lược Về Lăng Già Lục Sư 
Phần Bốn: Sơ Lược Về Những Dòng Thiền Hậu Duệ Khởi Nguồn Từ Lăng Già Lục Sư   
Chương Năm Mươi Hai:  Chư Thiền Đức Cùng Thời Với Nhị Tổ Huệ Khả  
Chương Năm Mươi Ba: Dòng Thiền Khởi Nguồn Từ Thiền Sư Đạo Tín  
Chương Năm Mươi Bốn:Dòng Thiền Khởi Nguồn Từ Thiền Sư Hoằng Nhẫ
 Tài Liệu Tham Khảo     

 

Lời Đầu Sách

 

Người ta nói kinh Lăng Già được đức Phật thuyết giảng trên đảo Lăng Già, bây giờ là Tích Lan. Kinh Lăng Già là giáo thuyết triết học được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trên núi Lăng GiàTích Lan. Có lẽ kinh nầy được soạn lại vào thế kỷ thứ tư hay thứ năm sau Tây Lịch. Kinh nhấn mạnh về tám thức, Như Lai Tạng và “tiệm ngộ,” qua những tiến bộ từ từ trong thiền định; điểm chính trong kinh nầy coi kinh điển là sự chỉ bày như tay chỉ; tuy nhiên đối tượng thật chỉ đạt được qua thiền định mà thôi.  Kinh có bốn bản dịch ra Hán tự, nay còn lưu lại ba bản. Bản dịch đầu tiên do Ngài Pháp Hộ Đàm Ma La sát dịch giữa những năm 412 và 433, nay đã thất truyền; bản thứ nhì do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch vào năm 443, gọi là Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh, gồm 4 quyển,  còn gọi là Tứ Quyển Lăng Già; bản thứ ba do Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch sang Hán tự vào năm 513, gồm 10 quyển, gọi là Nhập Lăng Già Kinh; bản thứ tư do Ngài Thực Xoa Nan Đà  dịch vào những năm 700 đến 704 đời Đường, gọi là Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, gồm 7 quyển, nên còn gọi là Thất Quyển Lăng Già. Đây là một trong những bộ kinh mà hai trường phái Du GiàThiền tông lấy làm giáo thuyết căn bản. Kỳ thật bộ kinh nầy được Tổ Bồ Đề Đạt Ma chấp thuận như là bộ giáo điển được nhà Thiền thừa nhận. Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng, “về sau nầy tại miền nam Ấn Độ sẽ xuất hiện một vị đại sư đạo cao đức trọng tên là Long Thọ. Vị nầy sẽ đạt đến sơ địa Bồ Tátvãng sanh Cực Lạc.” Đây là một trong những bản kinh quan trọng trong trường phái Thiền Đại thừa. Người ta cho rằng đây là kinh văn trả lời cho những câu hỏi của Bồ Tát Mahamati. Kinh còn thảo luận rộng rãi về học thuyết, bao gồm một số giáo thuyết liên hệ tới trường phái Du Già. Trong số đó giáo thuyết về “Bát Thức,” mà căn bản nhất là “Tàng Thức,” gồm những chủng tử của hành động. Kinh văn nhấn mạnh về tư tưởng “Thai Tạng” vì sự xác nhận rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, và Phật tánh ấy chỉ hiển lộ qua thiền tập. Kinh Lăng Giàảnh hưởng rất lớn tại các xứ Đông Á, đặc biệt là trong các trường phái về Thiền.

Nói về tâm, trong Kinh Lăng Già, Đức Phật đã nhắc nhở Ngài Mahamati: “Này Mahamati, huyễn ảo không tạo ra các sai lầm, vì các sai lầm phát xuất từ sự phân biệt hư vọng. Sự vô minh đã câu thúc phàm phu tạo ra sự phân biệt sai lầm về tự tính. Tức là, vì quá mê đắm vào các phạm trù hữu và phi hữu, sinh và diệt, sự tạo lập và sự hủy hoại, vân vân, vốn là những sản phẩm của phân biệt, nên chúng ta không thể nhìn suốt vào chân lýthực tính của các sự vật, chúng ta phải thoát ra khỏi sự câu thúc của cái gọi là sự cần thiết thuộc luận lý về những đối lập và quay trở về với kinh nghiệm cơ bản nếu như chúng ta có được mà nhìn thấy và diễn dịch các sự vật bằng cái trí huệ được hiển lộ ở trong kinh nghiệm cơ bản nầy, vốn không thuộc luận lý mà phát sinh do tu tập, mà ta thủ đắc được sự hiện hữu trong ý nghĩa chân thật của nó, tất cả mọi giàn giá và kiến trúc của tri thức do đó mà bị phá vỡ, và điều được gọi là cái trí vô phân biệt sẽ tỏa sáng, và kết quả là chúng ta thấy rằng tất cả các sự vật là không sinh ra, không được tạo lập và không bao giờ tiêu diệt; và thấy rằng mọi tướng trạng đều giống như những hình tượng được tạo ra bằng ảo thuật, hay giống như một giấc mộng, những cái bóng được phản chiếu trên mặt tấm màn của sự tịch tĩnh miên trường. Điều nầy cũng chưa phải là sự thủ đắc toàn hảo. Muốn được toàn hảo thì ngay cả tấm màn thường hằng cũng phải bị loại bỏ, và chỉ có như thế thì vô minh mới bị xua tan vĩnh viễn để cho chúng ta hoàn toàn tự tại, không còn bị trở ngại trong cái thấy và hành động của chúng ta.” Cũng theo kinh Lăng Già, có ba loại trạng thái tâm. Thứ nhất là Chân TâmCòn gọi là Như Lai tạng, tự tính thanh tịnh không uế nhiễm, hay thức A Lại Da, hay thức thứ tám. Thứ nhì là Hiện Tâm: Còn gọi là Tạng Thức hay chân tâm cùng với vô minh hòa hợp mà sinh ra pháp nhiễm, tịnh, xấu tốt. Thứ ba là Phân Biệt Sự Tâm: Còn gọi là Chuyển Thức, do thức với cảnh tướng bên ngoài làm duyên hiện lên mà phát sinh từ ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân). Trong Nghiên Cứu Kinh Lăng Già, Thiền Sư D.T. Suzuki đã phân biệt hai loại vận hành của tâmThứ nhất là Vận Hành Tùy Thuộc vào Tâm Phân BiệtCòn gọi là sự phân biệt trí, được hàng nhị thừa nhận biết. Nó được gọi là Ứng Thân hay cái thân đáp ứng. Vì họ không biết rằng đây là do cái tâm sinh khởi hay chuyển thức phóng chiếu ra, nên họ tưởng nó là cái gì ở bên ngoài họ, và khiến cho nó mang một hình tướngthân thể mà không thể có một cái biết thông suốt về bản chất của nó. Thứ nhì là Vận Hành Tùy Thuộc Vào Nghiệp ThứcĐây là loại vận hành xuất hiện với tâm Bồ Tát nào đã nhập vào con đường Bồ Tát tính cũng như đối với tâm của những vị đã đạt đến địa cao nhất. Loại nầy được gọi là Báo Thân. Cái thân có thể nhìn thấy được trong vô số hình tướng, mỗi hình tướngvô số nét, và mỗi nét cao vời với vô số cách, và cái thế giới trong đó thân trú ngụ cũng được trang nghiêm theo vô số thể cách. Vì thân thể hiện khắp mọi nơi nên nó không có giới hạn nào cả, nó có thể không bao giờ suy diệt, nó vượt khỏi mọi hoàn cảnh. Tùy theo yêu cầu của chúng sanh tín thủ. Nó không bị đoạn diệt cũng không biến mất. Những đặc điểm ấy của thân là những kết quả huân tập của những hành động thuần khiết như các đức hạnh toàn hảo hay Ba La Mật, và cũng là sự huân tập vi diệu vốn sẵn có trong Như Lai Tạng. Vì có được các tính chất vô lượng an lạc như thế nên nó được gọi là Báo ThânThứ ba là Tâm Luôn Vận Hành Không Ngăn Ngại: Khi nói đến tâm, người ta nghĩ đến những hiện tượng tâm lý như cảm giác, tư tưởngnhận thức, cũng như khi nói đến vật, chúng ta nghĩ ngay đến những hiện tượng vật lý như núi, sông, cây, cỏ, động vật. Như vậy là khi chúng ta nói đến tâm hay vật, chúng ta chỉ nghĩ đến hiện tượng (tâm tượng và cảnh tượng), chứ không nói đến tâm thể và vật thể. Chúng ta thấy rằng cả hai loại hiện tượng (tâm tượng và cảnh tượng) đều nương nhau mà thành, và thể tính của chúng là sự tương duyên, vậy sao chúng ta không thấy được rằng cả hai loại hiện tượng đều cùng một thể tính? Thể tính ấy có người thích gọi là “tâm”, có người thích gọi là “vật,” có người thích gọi là “chân như.” Dầu gọi là cái gì đi nữa, chúng ta không thể dùng khái niệm để đo lường thể tánh này được. Vì thể tánh ấy không bị ngăn ngại hoặc giới hạn. Từ quan điểm hợp nhất, người ta gọi nó là “Pháp thân.” Từ quan điểm nhị nguyên, người ta gọi nó là “Tâm không ngăn ngại” đối mặt với “thế giới vô ngại.” Kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Tâm vô ngại và cảnh vô ngại. Cả hai dung hợp nhau một cách viên mãn nên gọi là “tâm cảnh viên dung.”

Cũng theo kinh Lăng Già, hệ thống năm căn thức phân biệt cái gì thiện với cái gì không thiện. Mạt Na Thức phối hợp với năm căn thức thủ chấp các hình sắc và tướng trạng trong khía cạnh đa phức của chúng; và không có lúc nào ngưng hoạt động cả. Điều nầy ta gọi là đặc tính sát na chuyển (tạm bợ của các thức). Toàn bộ hệ thống các thức nầy bị quấy động không ngừng và vào mọi lúc giống như sóng của biển lớn. Nói về mạt na thức, trong Kinh Lăng Già, Đức Phật bảo: “Niết Bàn của Phật giáo chính là sự tách xa cái mạt na thức phân biệt sai lầm. Vì mạt na thức làm nguyên nhânsở duyên thì sự phát sinh bảy thức còn lại xảy ra. Lại nữa, khi mạt na thức phân biệtchấp thủ vào thế giới của các đặc thù ở bên ngoài thì tất cả các loại tập khí (vasana) được sinh ra theo, và A Lại da được chúng nuôi dưỡng cùng với cái ý tưởng về “tôi và của tôi,” mạt na nắm giữ nó, bám vào nó, suy nghĩ về nó mà thành hình và phát triển. Tuy nhiên, trong bản chất, mạt namạt na thức không khác gì nhau, chúng nhờ A Lại Da làm nguyên nhânsở duyên. Và khi một thế giới bên ngoài thực vốn chỉ là sự biểu hiện của chính cái tâm mình bị chấp chặt mà cho là thực, thì cái hệ thống tâm thức (tâm tụ-citta-kalapa) liên hệ hỗ tương được sinh ra trong tổng thể của nó. Giống như nhưng con sóng biển, được vận hành bởi cơn gió của một thế giới bên ngoài là thế giới do chính cái tâm người ta biểu hiện ra, sinh khởi và biến diệt. Do đó bảy thức kia diệt theo với sự diệt của mạt na thức.” Nói về tạng thức, trong Kinh Lăng Già, Đức Phật nói: “Nầy Mahamati! Như Lai Tạng chứa trong nó những nguyên nhân cả tốt lẫn xấu, và từ những nguyên nhân nầy mà tất cả lục đạo (sáu đường hiện hữu) được tạo thành. Nó cũng giống như những diễn viên đóng các vai khác nhau mà không nuôi dưỡng ý nghĩ nào về ‘tôi và của tôi.’” Nói về Niết Bàn, theo Kinh Lăng Già, Đức Phật bảo Mahamati: “Nầy Mahamati, Niết Bàn nghĩa là thấy suốt vào trú xứ của thực tính trong ý nghĩa chân thật của nó. Trú xứ của thực tính là nơi mà một sự vật tự nó trú. Trú trong chính cái chỗ của mình nghĩa là không xao động, tức là mãi mãi tĩnh lặng. Nhìn thấy suốt vào trú xứ của thực tính đúng như nó nghĩa là thông hiểu rằng chỉ có cái được nhìn từ chính tâm mình, chứ không có thể giới nào bên ngoài như thế cả.” Trong Kinh Lăng Già, Đức Phật bảo: “Niết Bàn của Phật giáo chính là sự tách xa cái mạt na thức phân biệt sai lầm. Vì mạt na thức làm nguyên nhânsở duyên thì sự phát sinh bảy thức còn lại xảy ra. Lại nữa, khi mạt na thức phân biệtchấp thủ vào thế giới của các đặc thù ở bên ngoài thì tất cả các loại tập khí (vasana) được sinh ra theo, và A Lại da được chúng nuôi dưỡng cùng với cái ý tưởng phân biệt sai lầm.”

Nói về các dòng Thiền tại Trung Hoa, theo Thiền sử, đến khoảng hậu bán thế kỷ thứ V, Thiền tông được Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Tổ thứ 28 ở Ấn Độ, mang vào Trung Quốc. Thiền được coi như là một trường phái quan trọng của Phật giáo tại Trung Hoa. Đây là sự tái tạo độc đáo những tư tưởng trong kinh Phật trong lần kết tập kinh điển lần thứ tư. Ba lần kết tập trước đã sản sinh ra bộ luận A Tỳ Đạt Ma, giáo lý Đại Thừa, và giáo điển Mật tông. Thiền tông gần như đồng thời với giáo lý Mật tông, và cả hai có nhiều điểm rất tương đồng. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa vào khoảng năm 470 và trở thành người sáng lập ra phái Mật TôngThiền Tông ở đây. Người ta nói ngài đã hành thiền trước một bức tường của Thiếu Lâm tự trong chín năm. Những đệ tử của Bồ Đề Đạt Ma hoạt động mạnh mẽ ở mọi nơi và đã hoàn toàn chiến thắng các tôn giáo bản địa để rồi cuối cùng Thiền tông được đánh giá rất cao ở Trung Quốc. Sau Tổ Bồ Đề Đạt Ma, trước khi thiền Trung Hoa được chia thành 4 phái thiền: Phái Thiền Hành Tư, Phái Thiền Hoài Nhượng, Phái Thiền Huệ Trung, và Phái Thiền Thần Hội, đã từng hiện hữu những dòng thiền bắt nguồn từ sáu vị sư chịu ảnh hưởng của giaùo thuyết kinh Lăng Già như các dòng thiền Ngưu Đầu của Thiền Sư Ngưu Đầu Pháp Dung (594-657), một đệ tử nối Pháp Thiền Sư Đạo Tín; dòng Thiền Tứ Xuyên từ các đệ tử nối Pháp khác của Thiền Sư Hoằng Nhẫn; dòng Thiền Bắc Tông của Thiền Sư Thần Tú, một trong những đại đệ tử của Thiền Sư Hoằng Nhẫn.

Quyển sách nhỏ có tựa đề “Sơ Lược Về Lăng Già Lục Sư & Những Dòng Thiền Hậu Duệ” này không phải là một nghiên cứu thâm sâu về giáo lý thiền trong kinh Lăng Già, mà nó chỉ đơn thuần vạch ra những giáo pháp cốt lõi về con đường tu tập giác ngộgiải thoát của những dòng Thiền chịu ảnh hưởng giáo thuyết kinh Lăng Già cho hàng Phật tử chúng ta noi theo. Phật tử thuần thành nên luôn nhớ rằng mục đích của người tu Phậttự giác, nghĩa là tự giác hay tự quán sát bằng cái trí của chính mình chứ không dựa vào kẻ khác; giác tha (sau khi tự mình đã giác ngộ lại thuyết pháp để giác ngộ cho người khác, khiến họ được khai ngộ và giúp họ rời bỏ mọi mê lầmkhổ não trong vòng luân hồi) rồi cuối cùng mới đi đến giác hạnh viên mãn, thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, đó chính là Niết Bàn đạt được ngay trong kiếp này. Cuộc hành trình từ người lên Phật còn đòi hỏi nhiều cố gắnghiểu biết liên tục. Chính vì thế mà mặc dù hiện tại đã có quá nhiều sách viết về Phật giáo, tôi cũng mạo muội biên soạn tập sách “Sơ Lược Về Lăng Già Lục Sư & Những Dòng Thiền Hậu Duệ” song ngữ Việt Anh nhằm phổ biến giáo lý nhà Phật cho Phật tử ở mọi trình độ, đặc biệt là những người sơ cơ. Những mong sự đóng góp nhoi nầy sẽ mang lại lợi lạc cho những ai mong cầu có được cuộc sống an bình, tỉnh thứchạnh phúc.

 

Thiện Phúc

Tạo bài viết
03/06/2022(Xem: 17426)
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.