Pháp Của Vua Asoka

18/04/201112:00 SA(Xem: 41257)
Pháp Của Vua Asoka

PHÁP CỦA VUA ASOKA
Thích Nguyên Hiệp

emperor_ashoka1

Aśoka được xem là vị hoàng đế vĩ đại nhất của Ấn Độ, người đầu tiên đã chinh phụcthống trị toàn cõi Tiểu lục địa Ấn. Đối với Phật giáo, Aśoka là người Phật tử có công lớn trong việc xiển dương Phật giáo, qua sự nhiệt tâm ủng hộ Tăng đoàn và gửi các phái đoàn đi truyện đạo khắp nơi. Chính nhờ vào những nỗ lực của ông, Phật giáo đã trở thành một tôn giáo thế giới từ thế kỷ thứ III (tr. TL); và cũng chính dưới triều đại của ông, Phật giáo đã đạt đến điểm xán lạn nhất của nó trong dòng lịch sử phát triển tại Ấn, không chỉ vì nó trở thành một tôn giáoưu thế ở Ấn mà còn bởi những nguyên tắc đạo đức Phật giáo đã được ứng dụng vào trong đời sống xã hội một cách thiết thực.

Thân thế và sự nghiệp của Aśoka có thể tìm thấy nơi hai nguồn tài liệu: những sắc lệnh của ông được ghi trên các bia ký và trụ đá, và những phác vẻ về ông ở trong nhiều nguồn tài liệu Phật giáo như Divyāvadāna, Aśokāvadāna và đặc biệt là Mahāvaṃsa của Srilanka. Aśoka trong các nguồn tài liệu Phật giáo chính yếu được đề cập như là một vị vua Phật tử thuần thành, người có công lớn trong việc hộ pháptruyền bá Phật giáo đến những xứ sở khác nhau bên trong và bên ngoài Ấn Độ. Aśoka qua những sắc lệnh được ghi chép trên các bia ký và trụ đá, vừa cho biết ông là vị vua Phật tử nhiệt tâm với Phật giáo, đồng thời cũng cho biết những chính sách của ông đối với vấn đề lãnh đạo đất nước. Những chính sách cai trị này của Aśoka được gọi là Pháp của Aśoka (Aśoka Dhamma). Ở bài viết này, tôi không đi sâu vào tìm hiểu về tiểu sửsự nghiệp của Aśoka, mà chỉ tìm hiểu một vài khía cạnh về Pháp của ông.

Pháp của Aśoka là một nỗ lực trong việc giải quyết những vấn đềxã hội thời ông đang đối mặt. Xã hội thời Aśoka thường được nhắc đến như một xã hội thịnh trị. Tuy nhiên, khi Aśoka thừa kế ngai vàng, xã hội Ấn vẫn là một xã hội phức tạp và đa dạng với những đối kháng chính trị, tôn giáo, chủng tộc và văn hoá. Sự tồn tại song song của tôn giáo chính thống Bà-la-môn cùng với các tôn giáo không chính thống như Kỳ-na, Phật giáo, Ajivika... không phải đều luôn êm thấm. Phật giáo và Kỳ-na vào thời này vẫn bị xem là không chính thống đối với Bà-la-môn giáo; và có một sự phân chia rạch ròi giữa các Bà-la-môn và Sa-môn, một sự phân chia giữa những gì gọi là chính thống và những gì không thuộc vào dòng chính đó.

Đời sống văn hoá xã hội Ấn bấy giờ được đặt cơ sở trên hai hệ thống chính: Bà-la-môn và Sa-môn. Dân chúng nói chung thuộc về một trong hai nền tảng văn hoá này. Tuy nhiên, cũng có những vùng đất không thuộc văn hoá của một truyền thống tôn giáo nào, đặc biệt là những xứ sở biên địa. Sự đa dạng của xã hội Maurya thể hiện ở nơi những gì khảo cổ được và cả ở nơi những nguồn văn học. Cai trị một xã hội phức tạp như vậy không chỉ dựa vào bộ máy chính trị với sự hỗ trợ của tài chính và vũ lực, mà còn cần đến một sự sáp hợp bằng thuyết phục. Sáp hợp bằng thuyết phục phải cần đến một hệ tư tưởng mà nó dung hoá được sự đa dạng của xã hội ở tất cả mọi cấp độ.[1]

Chính sách Pháp của Aśoka, do vậy, nhằm đến việc duy trì vương quốc và cố kết thần dân trong một xã hội có nhiều khác biệt về văn hoá. Pháp ấy là những nguyên tắc hành xử xã hội mang tính phổ quát mà mọi người trong xã hội với những nền tảng văn hoá khác nhau có thể đón nhận. Mặc dù mang khuynh hướng duy linh, Pháp của Aśoka không phải là một niềm tin tôn giáo, không phải là những giáo huấn rút ra từ một tôn giáo cụ thể. Aśoka sử dụng khái niệm pháp khác với cả Bà-la-môn và Phật giáo. Pháp (dharma) của Bà-la-môn là những luật tắc và bổn phận mà người ta cần tuân theo; và các luật tắc và bổn phận đó gắn liền với sự phân chia đẳng cấp và có sự nối kết với thần linh. Pháp (dhamma) của Phật giáo, vào thời Aśoka, chính yếu vẫn được hiểu là giáo pháp của đức Phật.

Pháp của Aśoka tập trung vào hai vấn đề cơ bản đó là đạo đức nhà nước và đạo đức con người. Đạo đức nhà nước là những nguyên tắc mà trên đó Aśoka thực hiện đường lối cai trị của mình với mong muốn tạo nên một xã hội công bằng, hoà hợp, và theo khuynh hướng duy linh. Đạo đức con người là những điều ông khuyên dân chúng nên tự nguyện thực hành theo để có được một đời sống tốt và an lạc. Bản khắc chữ trên trụ đá II định nghĩa Pháp là: ít điều xấu, nhiều điều tốt, nhân từ, khoan dung, chân thậttrong sạch. Giáo sư Robert Thurman đã phân những sắc lệnh của Aśoka, hay nói cách khác là Pháp của Aśoka, thành 5 điểm chính: 1. vượt qua cá nhân; 2. phi bạo lực (ahimsa); 3. nhấn mạnh vào giáo dụcđa nguyên tôn giáo; 4. những chính sách công ích xã hội; và 5. phân quyền chính trị.[2]

Tuy nhiên, dù không phải là những luật tắc được rút ra từ kinh sách tôn giáo, Pháp của Aśoka được cho là có những liên hệ đến nhưng nguyên tắc đạo đức căn bản của Phật giáo như lòng từ bi, sự tiết độ, lòng khoan dungtôn trọng sự sống.[3]

Khoan dung là một trong những điểm quan trọng của pháp Aśoka. Khoan dung ở đây bao gồm khoan dung đối với con người và với những niềm tin cũng như quan điểm mà những người đó đang theo đuổi. Về con người, Aśoka đưa ra cách hành xử xã hội giữa người với người mà nó được xây xựng trên sự thông hiểutình thương, những điều được đề cập nhiều trong các kinh sách Phật giáo, đặc biệt trong kinh Sigala: con cái nên hiếu kính với cha mẹ, học trò phải kính trọng thầy giáo, người chủ phải đối xử đúng đắn với thuộc cấp và những người làm công, rộng lượng với bạn bè, thương yêu và giúp đỡ người nghèo…[4] Khoan dung cũng là tha thứ những lỗi lầm của người khác, xem xét lại những hàm oan, thể hiện bi mẫn đối với những phạm nhân…

Thứ đến là khoan dung tôn giáotư tưởng. Dưới triều đại Aśoka, như đã nói, có nhiều tôn giáo cùng hành hoạt; và sự xung khắc giữa các tôn giáo cũng đã xảy ra. Mặc dù tuyên bố mình là một Phật tử, nhiệt tâm ủng hộ Tăng đoàn và hỗ trợ phát triển Phật giáo, Aśoka kêu gọi dân chúng nên kính trọng tôn giáo của nhau. Những sắc lệnh trên các các bia ký III, IV khuyên dân chúng nên kính trọngrộng lượng đối với các Sa-môn và Bà-la-môn. Riêng bản thân mình, dù đã là một tín đồ Phật giáo, Aśoka vẫn cúng dường cho những giáo phái khác, chẳng hạn như Ajivika, một giáo phái thường có những xung khắc với Phật giáo.

Sắc lệnh trên các bia ký VII, XII cũng đưa ra nhưng lời lẽ tương tự, kêu gọi các tôn giáo hãy nên khoan dung nhau. Không chỉ những người khác tôn giáo, những người chung tôn giáo nhưng khác bộ phái cũng cần nên như vậy. Sắc lệnh ở trụ đá XII ghi rằng, người dân không nên chỉ trích và chê bai tôn giáo của nhau. Những ai chỉ biết có tôn giáo mình, chỉ trích tôn giáo của người khác, thì chính người ấy đang làm hại tôn giáo của họ. Và vì vậy, người ta nên lắng nghe và kính trọng những giáo thuyết mà người khác tôn giáo tin, thậm chí nên học những giáo lý hay của tôn giáo người khác.[5] Ở trong một xã hội có nhiều tôn giáo hành hoạt, có cạnh tranhxung đột, khoan dung tôn giáocần thiết để giữ cố kết xã hội. Aśoka nói rằng quan tâm của ông về vấn đề khoan dungvì lợi ích của toàn thể cõi đời, giúp ông trả món nợ đối với dân chúng. Xã hội Ấn Độ cổ đại, trước khi người Hồi giáo đến, ít thấy nhắc đến sự xung đột tôn giáo bằng bạo lực, nhưng sự xung đột bằng ngôn ngữthường xuyên xảy ra. Vì vậy ở sắc lệnh này Aśoka nói rằng sự khoan dung tôn giáo là bằng nhiều cách, nhưng trước hết phải ở nơi ngôn ngữ.

Điểm quan trọng thứ hai nơi Pháp của Aśoka là tinh thần bất bạo động. Trước khi quy y Phật giáo, Aśoka được biết đến như là một vị vua hiếu chiến. Nhưng sau chiến trận Kalinga, hối hận vì đã khiến cho nhiều người phải thiệt mạng, ông đã sám hồi bằng việc quy y Phật giáo, thực hiện đường lối cai trị theo con đường hoà bình, từ bỏ chiến tranh và xâm lược. Ở bia ký XIII, Aśoka nói về việc ông đánh chiếm xứ Kalinga cùng những thảm hoạ mà ông đã gây ra tại cuộc chiến đó; và việc từ bỏ chiến tranh để thực hiện một đường lối cai trị mới, không gây chiến và không đánh chiếm, thay tiếng trống trận bằng tiếng trống Pháp.

Nhưng phi bạo lực không chỉ dừng lại ở việc không gây chiến và không xâm chiến, mà còn bao gồm việc từ bỏ sát sanh và tế lễ. Lập đi lập lại ở các sắc lệnh là những lời khuyên nên tránh thực hành các tế lễ, nên dừng lại việc sát hại muông thú. Và Aśoka đã áp dụng điều này trước hết cho chính bản thân mình, bằng việc tiết giảm giết hại muông thú nơi nhà bếp của hoàng gia. Chính ông về sau được nói đã trở thành một người ăn chay. Tinh thần bất bạo động và không gây hại được đề cao trong Phật giáo. Và bởi vì Aśoka là một Phật tử, người ta có thể nói rằng ông đã rút nguyên tắc này ra từ giáo lý đạo Phật.


Một khía cạnh khác của Pháp Aśoka là đề cao vấn đề công ích xã hội. Những hoạt động công ích mà Aśoka chủ trương bao gồm: mở bệnh viện chăm sóc miễn phí, khuyến khích trồng thảo dược, giúp đỡ người nghèo, xây dựng đường sá, trồng cây, lập nhà dưỡng lão, cấp vốn cải tiến nông nghiệp, và bổ nhiệm những viên chức lo công việc phúc lợi xã hội… Nhà xã hội học người Đức Max Weber, khi tìm hiểu về Pháp của Aśoka đã cho rằng, lần đầu tiên trong xã hội Hindu xuất hiện khái niệm “hệ thống phúc lợi xã hội” và “lợi ích cộng đồng.”[6] Thực ra, những chính sách phúc lợi này đã được đề cập trong các kinh Pali. Nhưng chính Aśoka đã biến những lời dạy trong kinh sách thành những chuẩn tắc chung cho xã hội của ông.

Một khía cạnh nữa nơi Pháp của Aśoka là sự nối kết chính trị với tôn giáo. Aśoka nói rằng ông là “Người con yêu quý của các thần linh” (Priyadarśī). Ở một gốc độ, quan điểm này giống với quan niệm về vương quyền của Bà-la-môn giáo: Một vị vua trị vì hợp pháp phải có “phả hệ” từ thần linh, với huyết thống truyền thừa mang tính đẳng cấp, có sự chứng nhận và ban phép của tu sĩ Bà-la-môn. Có thể Aśoka không ảnh hưởng quan niệm này của Bà-la-giáo, nhưng khi ở một vương quốc mà niềm tin vào thần linh và sự nối kết giữa thần linhcon người vẫn còn phố biến, thì việc thông báo đến với mọi người rằng mình là “Người con yêu quý của các thần linh” là cần thiết để duy trì sự hợp pháp của một vị đế vương.

Tuy nhiên, là một Phật tửủng hộ Phật giáo hết mình, trong đời sống thực tế, Aśoka đã tạo nên một mối liên hệ thay thế mối liên hệ giữa người trị vì và người đại diện cho thần linh là các Bà-la-môn, đó là mối liên hệ giữa hoàng giaTăng đoàn. Nhà vua tìm lấy sự ủng hộ từ Tăng đoàn Phật giáo để duy trì sự trị vì đất nước của mình. Hoàng giaTăng đoàn, cùng nương tựa vào nhau để tồn tại.

Các tăng sĩ không tham gia vào đời sống chính trị; nhiệm vụ của họ là thiết lập một xã hộiđạo đức bằng việc truyền bá những giá trị đạo đức Phật giáo. Và nhà vua sẽ hỗ trợ Tăng đoàn bằng việc cúng dường các nhu yếu phẩm, xây dựng chùa tháp và gửi đi các phái đoàn truyền giáo. Aśoka từng nói ông là một thành viên của Tăng đoàn, mặc dù ông không phải là một người xuất gia. Và tuy không phải là người lãnh đạo Tăng đoàn, nhưng trong một số trường hợp ông vẫn có thể can thiệp vào một số việc của Tăng đoàn. Các nguồn tài liệu Phật giáo có nhắc đến những nỗ lực “thanh lọc Tăng đoàn” của nhà vua. Tuy nhiên không phải do các tăng sĩ xen vào việc triều chính, mà chỉ vì họ vi phạm giới luật của Phật giáo, và xuất gia không phải để tu tập mà nhằm nhận lấy sự cúng dường của nhà vua và dân chúng.

Khái niệm Chuyển luân thánh vương (Cakkavatti) xuất hiện trong Phật giáo cũng được cho là bắt đầu từ sau thời vua Aśoka. Quan điểm một đất nước rộng lớn đứng đầu với một vị Chuyển luân thánh vương cùng tồn tại bên cạnh một Tăng đoàn Phật giáo với đức Phật đại diện - một đại diện cho đời sống thế tục và một đại diện cho đời sống tâm linh - được cho là xây dựng từ hình ảnh vua Aśoka và chính sách cai trị của ông.[7] Pháp mà một vị Chuyển luân thánh vương dùng để cai trị đất nước cũng giống như Pháp của vua Aśoka. Và Chuyển luân thánh vương không chỉ có quyền lực ở lĩnh vực thế tục, mà cũng còn được thánh hoá và vị trí được nâng ngang tầm với một vị giáo chủ tôn giáo.

Bố thí là một trong những chính sách được Aśoka rất chú trọng, không chỉ bố thí cho người nghèo, mà còn “bố thí” cho các tôn giáo, đặc biệtPhật giáo. Việc xây dựng chùa tháp, cúng dường cho Tăng đoàn, một mặt thể hiện tín tâm của một người Phật tử, nhưng mặt khác nhằm tạo nên sự phụ thuộc và khiến cho người nhận phải trung thành với người ban.[8] (Các vị vua hay những người lãnh đạo tại các nước theo Phật giáo Theravada, mỗi khi lên ngôi hay nhậm chức, cũng thường có những việc làm tương tự).

Không chỉ dừng lại ở chỗ quy y và hỗ trợ Tăng đoàn, Aśoka còn cho phép con trai và con gái của mình xuất gia. Như vậy ngay trong hoàng gia, Aśoka cũng đã tạo nên mối quan hệ song song này. Và Tăng đoàn, thông qua việc truyền giáo, cũng đã giúp hoàng gia thiết lập mối quan hệ hoà hảo với các lân bang. Việc truyền bá Phật giáo đến Srilanka là một trường hợp.

Mô hình nương tựa lẫn nhau giữa nhà vua và Tăng đoàn này được các nước Phật giáo Theraveda về sau sử dụng. Những vị vua Thái Lan trong quá khứ, và thậm chí ngày nay, cũng tạo nên một mối quan hệ tương tư như vậy. Nhà vua không chỉ đóng vai trò thế tục, mà cũng thể hiện vai trò của mình trong Tăng đoàn. Việc hỗ trợ thiết lập cơ sở Phật giáo, kiết tập kinh sách, truyền bá Phật giáo và cả việc làm trong sạch Tăng đoàn, đều nhờ vào sự hỗ trợ của nhà vua. Các vị vua của Srilanka trong quá khứ cũng tạo nên một mối quan hệ tương tự như vậy. Và một vài chính sách Pháp của vua Aśoka, như ngăn cấm sát sanh, phát triển chùa viện thành nhưng cơ sở giáo dục phổ cập… cũng được những vị vua ở các nước như Miến Điện, Thái Lan và Srilanka áp dụng.

Chính sách hoà bình và bất bạo động của của Aśoka đã bị một số sử gia Ấn quy kết là đưa đến sự suy tàn nhanh chống triều đại Maurya sau khi ông qua đời. Bên cạnh, một vài câu chữ ở nơi các sắc lệnh cũng bị quy kết là ông đã chống lại Bà-la-môn giáo, tạo nên sự xung đột tôn giáo. Tuy nhiên, ý kiến này gần đây bị bác bỏ bởi vì không có chứng cớ rằng việc theo đuổi chính sách hoà bình đã khiến Aśoka làm yếu đi khả năng quân sự và sự phòng thủ vương quốc. Và những sắc lệnh của ông trên các bia ký và trụ đá đã thể hiện sự kính trọng đối với mọi tôn giáo, như là một phần chính yếu của Pháp, mà không hề có sự bài xích Bà-la-môn giáo như đã bị quy kết. Những phê phán về Pháp của Aśoka phần lớn thuộc về các sử gia Ấn giáo. Điều đó cũng dễ hiểu khi những sắc lệnh của Aśoka đã liên hệ quá nhiều đến Phật giáo, cũng như hình ảnh một Aśoka vô cùng nhiệt tâm trong việc phát triển và truyền bá Phật giáo được thể hiện nơi các nguồn sách sử Phật giáo. Và dù không dẫn ra những câu kinh hay thuật ngữ Phật giáo cụ thể, thì Pháp của Aśoka rõ ràng đã “vay mượn” những hàm ý từ giáo pháp đức Phật. Và dù không hề phê phán Bà-la-môn, thì những chính sách như bãi bỏ tế lễ và sát hại muông thú, hẳn không đem lại sự hài lòng cho các nhóm Bà-la-môn, khi mà những việc như tế lễ thường gắn liền với lợi ích kinh tế và quyền lực tôn giáo.

Tuy nhiên, khuynh hướng chung vẫn xem vua Aśoka là “vĩ đại trong mọi mặt; ông không chỉ là người vĩ đại nhất trong số những người Maurya, mà cũng là một trong số ít những người trị vì vĩ đại nhất thế giới.”[9] Và “Người trị vì phi thường này, vẫn được yêu quý ở Ấn Độ và ở nhiều khu vực khác ở châu Á, đã hiến dâng đời mình cho việc truyền bá giáo pháp của đức Phật, cho sự công bằngthiện chí, và cho những công việc chung vì lợi ích của con người. Ông không phải là một khán giả thụ động của các sự kiện, mê man trong trầm tư và phát triển riêng tư. Ông đã lao động tích cực vì công việc cộng đồngtuyên bố sẵn lòng cho điều đó.”[10]

Thích Nguyên Hiệp

Chú thích:

[1] Romila Thapar, “Asoka and Buddhism as Reflected in The Asoka’s Edicts”, trong King Asoka and Buddhism, Kandy: Buddhist Publication Society, 1994, tr. 28.
[2] Dẫn lại từ Ken Jones, The Social Face of Buddhism: An Approach to Political and Social Activism, London: Wisdom Publications, 1989, tr. 128.
[3] Xem, S. Dhammika, The Edicts of King Asoka, Kandy: Buddhist Publications Society, 1994, tr. x.
[4] Xem Trường Bộ kinh III, bài kinh 31.
[5] Xem thêm sắc lệnh XII, S. Dhammika, The Edicts of King Asoka, tr. 8.
[6] Max Weber, The Religion of India: The Sociology of Hinduism and Buddhism, Delhi: Munshiram Manoharlal, 2007, tr. 242.
[7] Khái niệm Chuyển luân thánh vương (Cakkavatti) đã xuất hiện ở nơi các kinh Pali, như kinh Mahāsudassana, Mahāpadāna, Cakkavattisīhanāda, Bālapandita và Ambattha, tuy nhiên điều này được cho là bổ sung về sau, bởi trước thời Asoka, Ấn Độ là một sự tập hợp các tiểu vương quốc, không hề có một Tiểu lục địa rộng lớn với biên giới địa lý nối từ bờ biển này đến bờ biển khác, mà nó làm cơ sở cho khái niệm Chuyển luân thánh vương cai trị một cõi Diêm phù đề rộng lớn xuất hiện. Tuy nhiên cũng có quan điểm rằng khái niệm Cakkavatti có nguồn gốc từ Bà-la-môn giáo.
[8] Xem, Romila Thapar, “Asoka and Buddhism as Reflected in The Asoka’s Edicts”, trong King Asoka and Buddhism, tr. 35.
[9] K.A. Nilakanta Sastri, Age of the Nandas and Mauryas, New Delhi: Motilal Banarsidass, 1988, tr. 247.
[10] Jawaharlal Neruh, The Discovery of India, New Delhi: Penguin Books, 2004, tr. 136.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
23/02/2023(Xem: 4003)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.