TRONG KINH PHÁP HOA
Thích Nữ Liên Định
Cách đây hơn 2.000 năm, Đức Phật đã thị hiện tại đất nước Ấn Độ. Giáo lý của Phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ với những tệ đoan kỳ thị, phân biệt giai cấp, bất bình đẳng nam nữ. Ngài giảng pháp và nhấn mạnh khả năng giác ngộ, chứng đắc quả vị mà người nữ có thể đạt được. Theo thời gian, vị trí của người nữ được nâng lên hơn nữa bởi tư tưởng của Phật giáo Đại thừa, khi tạo dựng hình ảnh Bồ tát Quán Âm mang thân tướng người nữ, phá vỡ những định kiến bảo thủ của một xã hội trọng nam khinh nữ.
TÔI LÀ SA-MÔN, CON DÒNG HỌ THÍCH
Trong suốt quá trình hoằng pháp, tất cả những gì Đức Phật nói ra đều mang hàm ý giải quyết những vấn đề liên quan đến con người. Ngài là người tiên phong trong lịch sử đi ngược lại truyền thống hà khắc của đất nước Ấn Độ, chống đối những quan điểm cố chấp của Bà-la-môn. Trong kinh Đại Điển Tôn, Đức Phật khẳng định: “Này Bà-tất-tra! Ngươi nên biết hiện nay chúng đệ tử của Ta, dòng dõi không đồng, xuất xứ khác nhau, xuất gia trong giáo pháp Ta. Nếu có gặp ai hỏi: Người thuộc dòng nào? Thì nên trả lời họ: Tôi là Sa-môn, con dòng họ Thích” [1]. Do đó, “Thế Tôn đã áp dụng sự bình đẳng trong Tăng đoàn, những người theo Ngài không phân biệt thuộc giai cấp nào trong xã hội đều được xuất gia, cùng chung sống trong một cộng đồng, cùng lãnh thọ một quy chế, lợi hòa đồng quân” [2]. Điều này đã mang đến những giá trị thiết thực khi họ hướng đến Phật giáo, như những người đi trong đêm tối gặp được ánh sáng.Cũng vậy, chính họ bừng tỉnh bởi chân lý giác ngộ “Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày” [3].
Khi Đức Phật còn tại thế, đời sống sinh hoạt Tăng đoàn khá đơn giản, kinh điển chưa được biên tập, việc tuyên thuyết Phật pháp, giáo hóa quần sanh do Đức Phật đứng đầu đảm nhiệm dưới hình thức khẩu truyền. Lúc bấy giờ, mục đích của Phật giáo chỉ chú trọng đến việc làm thế nào để chỉ ra nguyên nhân của khổ và con đường để chấm dứt khổ, hướng đến giác ngộ, giải thoát là những vấn đề cần thiết nhất để tháo gỡ sợi dây xiềng xích khổ đau cho con người.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các vị Trưởng lão lãnh đạo Tăng đoàn cùng tất cả hàng đệ tử đều luôn đề cao trách nhiệm giữ gìn chánh pháp và phát triển Phật giáo. Vấn đề đặt ra là gìn giữ những gì, giáo hóa những ai, ai là người hoằng pháp trở thành đề tài được mọi người quan tâm. Tuy nhiên, trong bài kinh Ví Dụ Con Rắn, Đức Phật đã từng dạy: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên đất khô, hay nhận chìm xuống nước và đi đến chỗ nào ta muốn. Chư Tỳ kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỳ kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ kheo, các ông cần hiểu ví dụ chiếc bè…. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp” [4]. Dựa vào những quan điểm này, Phật giáo Đại thừa đã triển khai triệt để tinh thần Bồ tát đạo, tạo ra nhiều hình ảnh về Bồ tát với mục đích đẩy mạnh việc đưa Phật giáo vào đời dưới nhiều hình thức, miễn sao có thể đem lại sự giác ngộ, giải thoát cho mình và chúng sanh.
Sự phát triển của Phật giáo Đại thừa bắt nguồn từ nhu cầu phát triển Phật giáo phù hợp với căn tính của từng dân tộc và văn hóa. Mỗi người dựa vào kiến thức của mình, sau khi Phật nhập diệt đứng ở góc độ khác nhau mà truyền tải giáo pháp đến quần chúng, để họ có thể lãnh hội và tự thực hành như lời Đức Phật đã dạy: “Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác” [5] .
VỊ TRÍ CỦA HÌNH ẢNH BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
Phật giáo Đại thừa rất chú trọng đến hình ảnh của Bồ tát. Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu rõ ràng về khái niệm Bồ tát. “Bồ tát là từ viết tắt và dịch âm từ tiếng Phạn là Bodhi Sattva. Bodhi có nghĩa là giác ngộ, sattva nghĩa là hữu tình, chỉ cho những loài chúng sanh có tỉnh thức; hai từ này ghép lại là dịch âm là ‘Bồ đề tát đỏa’, có nghĩa là giác hữu tình, tức là Bồ tát không những tự mình đã giác ngộ mà còn đem những điều giác ngộ đó làm lợi ích cho chúng sanh, như vậy được gọi là Bồ tát” [6]. Đối với Phật giáo Nguyên thủy chỉ có bốn quả vị tu chứng là: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, ngoài ra không có quả vị nào khác. Trong đó, A-la-hán được xem là quả vị cao nhất, không có quả vị nào cao hơn: “Vị lậu tận A-la-hán đã làm xong điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, đã dứt sạch kiết sử của hữu, chánh trí giải thoát, xa lìa chín sự” [7]. Đến kinh điển Đại thừa thì hình thành tư tưởng gọi là Bồ tát đạo, quả vị của Bồ tát này còn cao hơn quả vị A-la-hán của Phật giáo Nguyên thủy, dĩ nhiên không thể cao hơn quả vị Phật. Cho nên, trong kinh điển Đại thừa, vai trò của Bồ tát được xếp vào vị trí rất cao, Bồ tát là những người đã giác ngộ, rồi bắt đầu đem sự giác ngộ đó làm cho người khác giác ngộ.
Tinh thần Bồ tát đạo của Phật giáo Đại thừa được hình thành bắt nguồn từ kinh Bổn Sanh trong Jataka. “Khái niệm Bồ tát trong kinh Bổn sanh rất nhiều và phong phú qua những hình thức đa dạng như: Chư Thiên, ẩn sĩ, Bà-la-môn, vua, Thái tử, triệu phú, chủ đất, thương buôn, nông dân,… hoặc có khi Bồ tát trong hình thức loài súc sanh như: Cá, chim, bò, nai,… Tuy nhiên, bởi vì Bồ tát đóng vai trò là tiền nhân của Đức Phật nên tánh cách của Bồ tát rất đạo đức, tiết hạnh, từ bi, trí tuệ,…” [8].
Điều đáng nói, trong kinh điển Nguyên thủy xuất hiện khá nhiều khái niệm về Bồ tát với hình ảnh mang đến lợi ích tất cả mọi người. Tuy nhiên, vị Bồ tát lúc bấy giờ chỉ là một con người bình thường, không dự vào hàng ngũ xuất gia tu tập hay chứng đắc quả vị Thánh như kinh Bồ đề Vương Tử đã đề cập: “Trước khi giác ngộ, thành bậc Chánh Đẳng Giác, khi còn là vị Bồ tát” [9].
Đặc biệt, những câu chuyện tiền thân trong Tiểu Bộ kinh diễn tả công trạng của Bồ tát như sau: “Bồ tát suy nghĩ: ‘Nếu ta từ bỏ tinh tấn, tất cả sẽ bị nguy hại’. Vào buổi sáng, khi trời đang mát, vị ấy đi qua đi lại, thấy một đám cỏ dabbha, tự nghĩ: ‘Dưới đám cỏ này, chắc thế nào cũng có nước mạch, cỏ mới mọc được’, bèn cho lấy cuốc và đào chỗ ấy. Họ đào đến sáu mươi khuỷu tay; đến đây, cuốc chạm vào hòn đá ở dưới. Khi ấy, tất cả đều thất vọng, không cố gắng nữa. Bồ tát nghĩ rằng thế nào cũng có nước dưới hòn đá. Ngài đi xuống. đứng trên hòn đá. Cúi xuống, Ngài lắng tai nghe. Nghe được tiếng nước chảy dưới hòn đá, Ngài leo lên lại, nói với người Thị giả hầu cận: ‘Này bạn thân, nếu bạn từ bỏ tinh tấn, thì tất cả chúng ta sẽ bị nguy hại. Bạn chớ từ bỏ tinh tấn. Hãy cầm cái búa lớn, đi xuống và đập trên hòn đá ấy!’
Vâng theo lời chủ, trong khi tất cả mọi người đều đứng chán nản, người này không từ bỏ tinh tấn, leo xuống và đập hòn đá. Hòn đá bị vỡ ở giữa, rơi xuống và dòng nước phun đứng lên, cao ngang thân cây thốt nốt. Tất cả mọi người đều uống nước và tắm, rồi chặt phát các bánh xe, trục xe dư thừa, nấu cháo và cơm. Khi ăn xong, họ cho bò ăn. Đến khi trời lặn, họ buộc một cây cờ cắm gần dòng nước, rồi đi đến chỗ đã định. Tại đấy, họ bán hàng hóa lấy được tiền lời gấp hai, gấp bốn lần tiền vốn, rồi trở về nhà. Họ sống hết tuổi thọ và khi mệnh chung đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ tát, trọn đời bố thí và làm các công đức, cũng đi theo nghiệp của mình” [10].
Từ thời nguyên thủy, tinh thần của Bồ tát đem đến lợi ích cho mọi người đã thật sự tồn tại “Tư tưởng Bồ tát là có thật, hạnh nguyện cứu độ chúng sinh, giúp đỡ mọi người của Bồ tát là có thật” [11]. Tuy nhiên, vị Bồ tát Phật giáo Đại thừa và vị Bồ tát trong kinh điển Nguyên thủy có sự khác biệt. Đối với Phật giáo Nguyên thủy, vị Bồ tát đấy chỉ là một tên gọi, Bồ tát là “người chưa chứng quả, còn là vị cư sĩ bình thường” [12]. Như vậy, khái niệm Bồ tát xuất hiện trong thời kỳ đầu là mô tả người có cuộc sống bình thường nhưng hay làm những việc mang đến lợi ích cho tha nhân.
Phần lớn “khái niệm Bồ tát trong Đại thừa đặc biệt chú trọng vai trò của trí tuệ Ba-la-mật” [13]. Phật giáo Đại thừa cho rằng, để hành Bồ tát đạo cần phải thực học tập thuần thục Bát-nhã Ba-la-mật-đa “hết thảy chư Phật trong ba thời, thường hiển hiện Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đạt được đạo quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác… Bát-nhã Ba-la-mật-đa là trí tuệ lớn, là trí tuệ của đại giác, là trí tuệ vô thượng, là trí tuệ vô song, vượt thoát hết thảy mê lầm khổ não, chân thật không hư dối” [14]. Ở đây, Bát-nhã Ba-la-mật tượng trưng cho trí tuệ, người muốn thực thi tinh thần của Bồ tát người ấy phải có đầy đủ trí tuệ, lấy trí tuệ Ba-la-mật làm kim chỉ nam từ đó mới có đủ khả năng phá vỡ tất cả những tư tưởng bảo thủ mang tính chướng ngại cho sự giải thoát. Nhưng đến thời kỳ Phật giáo Đại thừa, vị trí của Bồ tát chỉ đứng sau Phật. Bồ tát là người đã xuất khỏi thế gian, tùy theo hạnh nguyện của mình mà có danh xưng khác nhau như: Dược Vương Bồ tát, Thường Bất Khinh Bồ tát, Địa Tạng Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Bồ tát,…
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TRONG KINH PHÁP HOA
Cũng vậy, Quán Thế Âm Bồ tát trong kinh Pháp Hoa từ lâu đã trở thành một trong những hình ảnh rất quen thuộc với chúng ta. “Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ tát này, một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát” [15]. Trước đó, chúng ta đã đề cập mục đích chính của Đạo Phật là giúp con người thấy rõ khổ và vượt qua khổ. Như vậy, hình ảnh Quán Âm Bồ tát một phần cũng dựa vào tính cốt lõi của Phật giáo. Tuy nhiên, vì thời gian cách khác nhau cho nên hình thức độ sinh cũng phải thay đổi để phù hợp với xã hội. “Bồ tát Quán Âm dưới thân tướng trang nghiêm là người nữ, với lòng đại bi Ngài lại phân thân xuất hiện dưới nhiều thân tướng khác nhau, không chỉ là người xuất gia mà cả hình thức tại gia có thể là nam hay nữ, quan hay dân… và ở bất cứ nơi đâu miễn nơi ấy có chúng sanh đau khổ thì Ngài xuất hiện, giống như người mẹ hiền che chở đàn con thơ” [16]. Điều này giống như Đức Phật nhìn thấy chúng sanh lặn ngụp trong biển khổ, lênh đênh giữa hiểm nguy, nước mắt chúng sanh có thể nhiều như nước đại dương, vì sự khổ đau đấy nên Đức Phật đã tuyên bố: “Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho loài Trời và loài Người” [17].
Do đó, Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa hình ảnh về Quán Âm đã hiện ra nhiều thân tướng để thuyết pháp như: Tiểu vương, phụ nữ, Trưởng giả, Bà-la-môn, cư sĩ,… nhưng mục đích chung để làm việc độ thoát chúng sanh. Ngoài ra, “đặc trưng độ sinh của Quán Âm không phải chỉ ở lĩnh vực thuyết pháp mà còn rất mạnh ở lĩnh vực thực tế nữa. Chẳng hạn như người cầu con được con, cầu của được của, rồi việc cứu hỏa tai, giặc cướp,…” [18]. Hạnh nguyện của Bồ tát Quán Âm đã bẽ gãy mọi rào cản, không cố chấp vào bất cứ hình thức nào, miễn sao có thể giúp cho chúng sanh vượt qua khổ, chạm đến sự giác ngộ và giải thoát. Như kinh Pháp Hoa đã diễn tả:
“Quán Âm sức trí diệu,
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện” [19].
Như chúng ta đã biết, Ấn Độ là một đất nước có truyền thống trọng nam khinh nữ nặng nề. Thế nên, dưới thân tướng là người nữ, hình ảnh Bồ tát Quán Âm đã củng cố thông điệp nam nữ bình đẳng, bình đẳng về vị trí trong xã hội cũng như bình đẳng về quả vị tu chứng như trong một số kinh Đại thừa đã ca ngợi. Trước đó, khi còn tại thế Đức Phật lên án bất bình đẳng nam nữ, trong nhiều bài pháp Ngài nỗ lực giúp người nữ thoát khỏi những định kiến khắt khe của xã hội, nên Ngài giảng giải vấn đề này như sau: “Thưa Nhân chủ, có một số thiếu nữ, so sánh với con trai còn tốt đẹp hơn, có trí tuệ và đức hạnh, được cha mẹ chồng thán phục. Rồi sanh được con trai, là anh hùng của quốc gia” [20]. Như vậy, dù sanh làm thân nam hay thân nữ trí tuệ và đức hạnh phải là thước đo phẩm chất để đánh giá một con người. Hai yếu tố này quyết định sự hình thành giai cấp, địa vị của con người sẽ không phụ thuộc vào giới tính hay chủng tộc.
Khi còn tại thế, giáo pháp của Đức Phật như dòng nước trong rửa sạch mọi ô uế, không phân biệt giai cấp cao thấp, nam nữ, tà kiến, ác nhân,… tất cả đều có khả năng tu tập và giải thoát như nhau. Do đó, việc tạo nên danh xưng Bồ tát Quán Âm trong thân tướng của người nữ ngoài, yếu tố vận hành giáo lý còn là chiếc chìa khóa mở ra lối thoát cho người nữ trong xã hội. Phật giáo Đại thừa đã mô tả nhiều vị Bồ tát với những hình tướng và hạnh nguyện khác nhau nhằm tạo sự hấp dẫn đưa giáo lý tiếp cận, đến gần với con người, giúp họ hiểu và đi sâu vào lời Phật dạy.
Kết luận
Ba thời kỳ Phật giáo từ Nguyên thủy đến Bộ phái, từ Bộ phái đến Đại thừa chính là sự vận hành xuyên suốt của chánh pháp, dù thời gian và không gian có biến đổi nhưng bản chất cốt lõi của Phật giáo vẫn được giữ nguyên, rõ ràng Phật giáo Đại thừa phát triển, đơm hoa kết trái, nhưng cái gốc vẫn bắt đầu từ những điều Phật dạy.
Phật giáo Đại thừa tuy không phải là thời kỳ đầu của Phật giáo, song lại có công lớn trong việc kế thừa và phát triển Phật giáo, tích cực đưa Phật giáo vào trong nhân gian để tiếp cận với quần chúng. Xây dựng thành công hình ảnh Bồ tát Quán Âm như một người mẹ hiền với tình thương vô biên đã mở rộng vòng tay ôm lấy những đứa con đã lầm đường lạc lối quay đầu về chánh pháp.
SC. Thích Nữ Liên Định
(Trích từ: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo Số 391)
Chú thích:
[1] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trường A-hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr.113.
[2] Thích Hạnh Bình, Đức Phật và những vấn đề thời đại, Nxb. Phương Đông, 2014, tr.14.
[3] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Trường Bộ, kinh Lohicca, Nxb. Tôn giáo, 2018, tr.208.
[4] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Trung Bộ tập 1, kinh Ví Dụ Con Rắn, Nxb. Tôn giáo, 2012, tr.173.
[5] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Trường Bộ, tập 1, kinh Đại Bát Niết bàn, Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1991, tr.584.
[6] Thích Hạnh Bình, Phật giáo Việt Nam – suy tư và nhận định, Nxb. Phương Đông, 2013, tr.61.
[7] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trường A-hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr.215.
[8] Thích Nữ Giới Hương, Bồ tát và tánh không trong kinh tạng Pali và Đại thừa, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2007, tr.84.
[9] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Trung Bộ, tập 2, kinh Bồ-đề Vương Tử, Nxb. Tôn giáo, 2012, tr.121.
[10] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Tiểu Bộ, tập III, Chuyện Tiền Thân – Chương Một, Phẩm Apaṇṇaka, Nxb. Tôn giáo, 2015, tr.34.
[11] Thích Hạnh Bình, Đức Phật và những vấn đề thời đại, Nxb. Phương Đông, 2014, tr.156.
[12] Thích Hạnh Bình, Triết học có và không của Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông, 2008, tr.149.
[13] Thích Hạnh Bình, Khái niệm A La Hán trong kinh điển Đại thừa, Nxb. Hồng Đức, 2019, tr.595.
[14] Tỳ kheo Thích Tuệ Hải, Lược giảng tinh túy Bát Nhã Ba La Mật Đa, Nxb. Tôn giáo, 2019, tr.15.
[15] HT. Thích Trí Tịnh (dịch), kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr.536.
[16] Thích Hạnh Bình, Đức Phật và những vấn đề thời đại, Nxb. Phương Đông, 2014, tr.156.
[17] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Trường Bộ, kinh Đại Điển Tôn, Nxb. Tôn giáo, 2013, tr.83
[18] Kimuri Taiken, HT. Thích Quảng Độ (dịch), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Nxb. Tôn giáo, 2012, tr.365.
[19] HT. Thích Trí Tịnh (dịch), kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr.548.
[20] HT. Thích Minh Châu (dịch), kinh Tương Ưng Bộ, tập I, phẩm thứ hai, phần Người con gái, tr.154.