Đức Phật Bà Truyện Nam Hải Quan Âm Phật Sự Tích Ca

23/01/20152:57 CH(Xem: 17613)
Đức Phật Bà Truyện Nam Hải Quan Âm Phật Sự Tích Ca

ĐỨC PHẬT BÀ TRUYỆN

NAM HẢI QUÁN ÂM PHẬT SỰ TÍCH CA

德 佛 婆 傳

南 海 觀 音 佛 事 蹟 歌

QUAN ÂM CHÂN KINH DIỄN NGHĨA

觀音真經演

Quảng Minh biên dịch

blank
Tôn tượng Quan Âm chùa Linh Ứng Đà Nẵng


ĐỨC PHẬT BÀ TRUYỆN

NAM HẢI QUAN ÂM PHẬT SỰ TÍCH CA

1. Chân như đạo Phật rất mầu  

Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân,

Hiếu là độ được song thân

Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài.  

5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,

Này trong bể nước Nam ta

Phổ mônđức PhậtQuan Âm.  

Niệm ngài thường niệm tại tâm

10. Dẫn xem sự tích ca ngâm cho tường:

 

ĐOẠN 1: TRANG VƯƠNG CẦU TỰ

 

Đời xưa vua Diệu Trang Vương

Hưng Lâm nước ấy bốn phương một nhà,  

Chính phi Bảo Đức Bá Nha

Sáu cung đủ cả ngọc ngà thiếu chi.

15. Chỉ lo dưới gối còn trì[1]

Mai sau được kẻ nối vì Đế Vương,  

Mới cùng Hoàng hậu lo lường

Rằng: “Sao tử tức[2] muộn màng bấy ru.

Hay vì giặc giã đâu đâu

20. Mà ta giết nó bấy lâu đã nhiều.  

Phép binh như lửa cháy đều

Há không oan uổng luống tiêu mệnh người.”

Chính cung tâu lại mấy lời:

“Trong cơ báo ứng đạo trời chi không  

25. Có đền Tây Nhạc đế cung

Khấn sao được nấy như lòng thế gian,

Dám xin vua lập một đàn

Cầu thai ta lại giải oan cho người.”

Đức vua nghe nói mừng cười

30. Sai người Triệu Chấn vâng lời truyền mau

Sắm sinh hương quả, đèn dầu

Bao nhiêu lễ khấn, lễ cầu đủ no.  

Lại sai Đát-nam, Chi-đô

Lễ nghi đem đến đền chùa đế cung.

35. Truyền cho Sư cả Chí Không

Rằng vâng lệnh Ngự một lòng kính thay.  

Đàn chay làm bảy đêm ngày

Việc ngài cầu tự, việc thầy tụng kinh.

Chí Không vâng lệnh rành rành

40. Năm mươi thầy tớ tập tành trống chuông.  

Bàn trong án ngoại tròn vuông[3]

Mưa bay nước phép, hương tuôn khói đàn

Ngày ấy vua ngự xe loan

Hành hương tiến lễ trông đàn dâng lên  

45. Lên đàn Sư giữa, Vua trên

Một bên Hoàng hậu, một bên Cung tần

Đức vua quỳ xuống khấn rằng:

“Tôi từ trị nước nuôi chưng dân trời  

Cũng may dân được yên vui

50. Mà sao Hoàng tử nối đời chưa sinh.

Hay là trong lúc dụng binh

Nhiều khi sát phạt oan tình chúng chăng?  

Lòng thành lễ bạc kính dâng

Rầy tôi tạ quá[4] xin thần chứng minh.

55. Xin đem sớ tấu Thiên đình

Cho Hoàng tử được giáng sinh tôi nhờ.”

Chúc xong Vua phán bấy giờ

“Các Sư thành kính phụng thờ cho ta

May mà sinh Hoàng tử ra

60. Thời Trẫm ắt thưởng cho mà hậu thay.”

Phán rồi xa giá về ngay

Gió đưa nghi ngút hương bay trong đền.

 

ĐOẠN 2: TIỀN THÂN BỒ TÁT

 

Miếu thần thấy sớ đốt lên

Bàn cùng bộ hạ sự duyên gót đầu,

65. Vua Trang thành kính kêu cầu

Lập đàn trai tiếu[5] mong hầu có thai.

Hóa sinh cho đáng kiếp người

Thử coi thượng giới có ai chăng là,

Mắt thần thiên lý trông ra

70. Rằng bên Thứu Lĩnh[6] có nhà họ Thi.

Ba đời phúc đức đã dày

Đến ông Trưởng giả càng ngày càng nhân,

Chẳng tham phú quý phù vân

Một niềm hiếu thiện xa gần đều khen.

75. Sinh được ba con đều hiền

Thi Văn, Thi Phổ là tên đó mà

Rất hiền là con thứ ba[7]

Nhân đức hiền hòa nhất cả hai anh.

Ở hiền sao chẳng gặp lành

80. Nhân vì một sự cháy thành vạ lây

Vì người Vương Cật bên kia

Nó ở nơi khác, nó thì đứa gian.

Nó thường quấy chốn Hà San[8]

Binh trời đánh nó tồi tàn chẳng dung,

85. Cùng đường vào lạy Thi ông.

Ông thấy đói khát chạnh lòng cho ăn

Ba con đã can ông rằng:

“Nó là trộm cướp cho gần chẳng nên

Binh trời đã dẹp nó yên.

90. Mà ta dung lấy, nữa phiền lụy chăng?”

Vương Cật lúc ấy hung hăng

Bỏ ra ngoài rừng, vào phá Nho gia

Giết người, lấy của, đốt nhà

Trăm thây tử khí hơi đà xung thiên.

95. Ngọc Hoàng phán hỏi sự duyên

Trách họ Thi ở nhân hiền để đâu,

Gần nhau mà chẳng cứu nhau

Để cho trăm mệnh âu sầu vì ai.

Truyền bắt Thi thị ba trai

100. Chuyển vào trong động, bỏ dài chẳng tha.

Ấy sự con ông Thi gia

Xin thần xét lại tấu qua Thiên đình

Cho ba người ấy giáng sinh,

Thì Trang Vương cũng được đành đội ân.

105. Khi ấy đức Tây Nhạc thần

Mới lên tâu ở trước sân Ngọc Hoàng,

Tâu rằng: “Hạ giới Trang Vương

Thành tâm sớ điệp[9] lập đàn cầu thai

Nhà Thi thị có ba trai

110. Vốn dòng tích phúc xưa nay đã nhiều.

Vì chẳng biết được cứu nhau

Tai bay vạ buộc tình đầu nên thương,

Dám xin xét lại tỏ tường

Rộng tha lỗi ấy, mở đường đầu thai.

115. Trước cho Trang Vương dài đời

Sau cho cứu độ những loài chúng sinh.”

Ngọc Hoàng mới phán phân minh,

Truyền thần vào động lệnh hành tha ra,

Chuyển trai làm gái cả ba

120. Tam hồn cửu phách đợi mà thác sinh.

 

ĐOẠN 3: BỒ TÁT GIÁNG SINH

 

Trang Vương vốn ở chẳng lành

Nhưng có lòng thành ước cũng được nên

Cơ mầu chuyển động tự nhiên

Chính cung Hoàng hậu mới liền thụ thai.

125. Lòng vua mừng rỡ hôm mai

Ơn thần cảm ứng chẳng sai đâu là,

No ngày[10] kết tử khai hoa

Đựợc một công chúa tên là Diệu Thanh.

Lòng Vua dường có bất bình

130. Rằng: “Sinh con gái thời sinh làm gì.”

Năm sau thai dựng[11] đến kỳ

Nghĩ được Hoàng tử ắt thì vui thay

Chẳng ngở mãn tháng no ngày

Lại sinh gái nữa toan rầy giết đi.

135. Triều thần can gián một khi

Xá cho mới đặt tên là Diệu Âm.

Mưa qua gió lại âm thầm

Chính cung mừng lại tin nhằm có thai.

Trong cung nức những hương trời

140. Hào quang sáng khắp mọi nơi bảo đài.

Lòng Vua bao xiết vui vầy

Kỳ này hẳn khác hai kỳ năm xưa,

Hẳn sinh Hoàng tử chẳng ngờ

Không sao điềm tốt bây giờ thấy ra.

145. Thoi đưa tháng lại ngày qua

Lại sinh công chúa mặt hoa đầy đầy,

Đào trên mây, hạnh trên trời

Cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa.

Vẻ thanh trong ngọc trắng ngà

150. Trăng tròn nét mặt, núi xa dạng mày,

Ngắm xem cốt cách thanh kỳ

Bụi trần chẳng có mảy may chút nào.

Sắc tuy rằng sóng sánh đào

Nhưng mà đoan chính, trông vào nghiêm trang.

155. Trẻ thơ mà đã khác thường

Ai ai cũng kính tiên nương dưới trần.

Lòng vua sao một tần ngần

Nghe sinh công chúa mười phần chẳng tươi,

Phán rằng: “Tuổi ngoại năm mươi

160. Chẳng được Hoàng tử lấy ai nối vì.

Sinh ba con gái làm chi

Sự bất đắc dĩ rồi thì làm sao?”

Triệu Chấn đặt gối tâu vào

“Bởi trời định thế, lòng nào có hay.

165. Những xem trong sách xưa nay

Vua Nghiêu nhường vị, Thuấn thay lấy quyền[12],

Thuấn trao cho Vũ người hiền[13]

Ấy trong truyện sách có truyền phải không?

Dám xin Thánh đế yên lòng

170. Nuôi ba công chúa để mong trưởng thành,

Kén tài phò mã anh hùng

Thay quyền Thái tử nối dòng tổ tiên.”

Nghe thôi vua giải lòng phiền

Ban cho thị nữ giữ gìn Chúa Ba.

 

ĐOẠN 4: CÔNG CHÚA MỘ PHẬT

 

175. Cõi trần mà có Thường Nga[14]

Khỏi vòng trứng nước thoắt đà cả khôn

Êm đềm trong chốn khuê môn

Lạ thay tình tính dung ngôn khác người.

Không trang điểm, chẳng chơi bời

180. Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi,

Một mình nào có ai hay

Thân này trần thế, lòng này Phật, Tiên.

Có hôm ra chốn Xuân Viên

Theo cùng hai chị vui miền thưởng hoa.

185. Diệu Thanh công chúa nói ra

“Chúng ta đội đức mẹ cha dường này.

Thanh nhàn vô sự vui thay

Kẻ thường ví được thế này cho chăng.”

Diệu Âm công chúa nói rằng

190. “Một mai khôn lớn định chưng vợ chồng.

Bấy giờ cách trở Tây Đông

Dễ ta hầu được ở cùng nhau chăng?”

Chúa Ba chẳng nói chẳng rằng

Trông hoa rồi lại tần ngần với hoa.

195. Thấy em chẳng nói chẳng hề

Hai chị mới hỏi tỷ tê sự lòng.

Thưa rằng: “Sắc vẫn như Không

 Thử suy giấc mộng ngắm trong người đời,

Đua danh, đua lợi tơi bời

200. Như đem trò rối làm chơi là thường.

Dù ba mươi sáu tàn[15] vàng

Tuổi ngoài ba vạn sáu ngàn ngày thôi,

Huống chi kẻ tục trần ai

Lại có luân hồi mấy kiếp mà thương.

205. Phu thê là đạo cương thường

Trăm năm chung được chén vàng mãi ru,

Nghĩ ra nên cũng buồn dù

Sao bằng mượn cảnh mà tu lấy mình.

May ra siêu thoát tử sinh

210. Yên thân nước Phật, vui hình cõi Tiên,

Trên thời báo đức sinh thành

Mai sau người ở tòa sen đời đời.

Giữa thì tế độ cho người

Dưới những quỷ loài cứu lấy nơi nơi.”

 

ĐOẠN 5: HAI CÔNG CHÚA GẢ CHỒNG,

HAI PHÒ MÃ KHÔNG HIỀN

 

215. Nói chăng chưa kịp hết lời

Đức Vua có lệnh truyền đòi ba con.

Rằng: “Rày công chúa cả khôn

Toan bề gia thất lại còn đợi chi.”

Bấy giờ hai chị tâu qùy

220. “Vua cha định liệu vậy thì con vâng.”

Thấy con tâu vậy vua mừng

Định hai phò mã kén chưng triều thần,

Trạng nguyên họ Triệu quan văn

Gả bà Chúa Nhất dành phần truyền gia.

225. Lại có quan vũ họ Hà

Hay nghề cung kiếm gả bà Chúa Hai.

Hai chàng tin dụng hôm mai

Kẻ cung Đông, kẻ cung Đoài ở riêng.

Ra vào chầu chực mấy niên

230. Đức Trang Vương đã tuổi liền sáu mươi,

Mặt rồng khi ấy tốt tươi

Làm yến Hạ thọ[16] cho vời trăm quan.

Vua tôi họp mặt đoàn loan

Phò mã công chúa tả ban chầu gần.

235. Chén mừng chén chúc mấy tuần

Đức vua vui uống có phần quá say

Ngự vào nằm nghỉ bấy chầy

Trăm quan bái tạ chia tay lui về.

Giấc rồng tỉnh lại ban khuya

240. Hỏi hai phò mã nay thì chầu đâu.

Ai ngờ về phủ đã lâu

Giọt đồng hồ điểm ban đầu trống ba.

Lôi đình vua mới mắng ra

Rằng: “Cho quyền bính để mà cậy trông,

245. Hôm mai chầu chực điện rồng

Bên tả, bên hữu đề phòng chẳng ly.

Có đâu đêm hãy còn khuya

Tao say chưa tỉnh bỏ về chẳng coi.

Giang sơn này phó có người

250. Thứ ba phò mã được tài trẫm trao.”

Tức thì mời Hoàng hậu vào

Sự con, sự rể tiêu hao giãi bày.

Hoàng hậu nghe phán mới hay

Tâu: “Chúa Ba rầy tuổi cũng đã nên,

255. Kén dùng may được rể hiền

Để sau xem sóc cho yên nghiệp nhà.”

 

ĐOẠN 6:  TRANG VƯƠNG MUỐN GẢ,

CÔNG CHÚA CỐ TỪ

 

Đức Trang truyền chỉ phán ra

Dạy đòi công chúa thứ ba vào chầu.

Chúa Ba vâng lệnh lên hầu

260. Đức vua mới phán trước sau sự tình:

“Ba con tuổi đã trưởng thành

Hai chị con đã yên lành thất gia,

Hiềm vị sự yến hôm qua

Việc nước, việc nhà đành để con xem.

265. Trong triều văn vũ hai bên

Mặc lòng đẹp ý đâu nên cha dùng,

Quyền cao chức trọng cha phong

Cũng như hoàng tử để phòng mai sau.”

Chúa Ba đứng lặng từ lâu

270. Từ nghe cha dạy lòng sầu xót xa,

Cúi đầu lạy trước thềm hoa

Tâu rằng: “Con đội đức cha sinh thành.

Nói sao nghe vậy mới đành

Lẽ đâu con dám trái tình mẹ cha,

275. Nhưng sao con khác người ta

Bẩm sinh từ thuở sinh ra đến rầy.

Chỉ tin đạo Phật đêm ngày

Thấy đường gia thất lòng rầy dửng dưng.”

Vua nghe cả tiếng mắng rằng:

280. “Con đâu quái đản nói năng lạ lùng.

Ta làm vua chúa điện rồng

Đất tôn nghiêm cấm là trong lâu đài,

Con đâu mà để ra ngoài

Đi theo sãi vãi dông dài xấu xa.”

285. Chúa Ba lạy lại tâu qua:

“Lầu loan gác phượng ai là chẳng yêu,

Trân châu ai cũng muốn nhiều

Phu thê ai cũng dập dìu đoàn viên.

Song lòng con vốn tự nhiên

290. Xuất gia chỉ dốc một niềm mà thôi.

Cũng vì tư bẩm tính trời

Xin đừng ép uổng lòng tôi làm gì.”

Đức Trang thêm giận một khi

Như sấm như sét ai thì chẳng kinh,

295. Chúa Ba lại lạy, lại trình

“Xin xét tấm tình kẻo mệt Thánh cung.

Cha thương dù cố ép lòng,

Thời con xin lấy kẻ giòng lương y.”

Vua rằng: “Văn vũ thiếu gì

300. Mình châu vóc ngọc sánh chi kẻ thường.”

Tâu rằng: “Kẻ ấy tuy thường,

Có bề cứu thế, có đường độ dân.”

Vua nghe nổi giận trăm phần

Bắt đem đày đoạ ra chưng sau vườn.

 

 ĐOẠN 7: TRANG VƯƠNG PHÓNG XUẤT HẬU VIÊN,

CÔNG CHÚA NHẤT TÂM MỘ PHẬT

 

305. Chúa Ba từ ấy cảm thương

Nghĩ đem điều hiếu suy lường mà coi,

Thuận cha được một bề thôi

Trăm năm đến lúc sau rồi nào hay.

Tưởng cha xét phạt đã đầy

310. Mai sau về kiếp luân hồi ai lo?

Mắt trần nào đã thấy cho,

Lòng trần báng bổ nói dầu có tin.

Thôi thôi dốc một lòng nguyền

Đành thân chịu khó giữ bên triền già[17].

315. Thân này thành Phật may ra

Hộ nước, hộ nhà thì mới có phương.

Giữ chi hiếu nhỏ tầm thường

Giữ đường hiếu lớn mới đường báo ân.

Càng xem nghiệp chướng cõi trần

320. Càng say đạo Phật muôn phần chẳng khuây.

Sau vườn ở đó đêm ngày

Trông sao, trông tuyết, trông mây một mình.

Một mình niệm Phật, niệm kinh

Gió thanh là quạt, trăng thanh là đèn.

325. Cũng mừng khỏi chốn trần duyên

Ở đây càng được tinh chuyên kẻo còn.

Đêm khuya Hoàng hậu bồn chồn

Nhớ con vắng vẻ, thương con âm thầm.

Truyền hai thị nữ ra thăm

330. Nơi ăn, nơi ở, nơi nằm làm sao?

Hai người đến đó bước vào

Khuyên dỗ đức Chúa thấp cao sự lòng:

“Phủ son, gác tía, lầu hồng

Nhân sao chẳng nhớ, bạn cùng cỏ hoa?”

335. Chúa Ba tình thực nói ra:

“Tao ở thanh mát, chẳng ưa lâu đài.

Càng nhiều chầu chực gái trai,

Càng nhiều phiền não, luân hồi khổ thân.

Chữ rằng nhất nhật tu nhân[18]

340. Mấy kiếp phong trần giữ sạch như không.

Tao từ khỏi chốn bụi hồng

Như khỏi địa ngục, lên vòng thiên cung,

Bạn cùng gió mát trăng trong

Tự tại mặc lòng kẻo lụy trần ai.”

345. Nói thôi ngửa mặt lên trời

“Chứng minh xin chớ để sai lòng này.”

Thoát thôi thị nữ lui về

Tâu bà Hoàng hậu vân vi[19] rạch ròi:

“Hai tôi dỗ đã hết lời

350. Khăng khăng Chúa quyết say nơi đạo Thiền.

Thưa đi thưa lại cần quyền[20]

Chúa chỉ một niềm kinh giáo say mê.”

 

ĐOẠN 8:  TRANG VƯƠNG KHUYÊN TRỞ VỀ GẢ CHỒNG,

CÔNG CHÚA NGUYỆN LƯU LẠI TU HÀNH

 

Hoàng hậu nét mặt ủ ê

Thương con mà luống nằn nì cho con,

355. Hẹp gì gác tía lầu son

Liễu đào thơ yếu, nước non dãi dầu.

Vừa than vừa thở từ lâu

Xảy nghe ngự giá lui chầu vào cung,

Lên triều tâu trước ngai rồng

360. Rằng: “Nay Cửu trùng sao sắc kém tươi.

Việc gì phán bảo chúng tôi,

Vâng biết mọi lời kẻo để lo âu.”

Rằng: “Đày công chúa đã lâu

Nhớ con Trẫm những âu sầu chẳng yên.”

365. Hoàng hậu quỳ xuống tâu liền:

“Con thơ dại dột dám xin thứ tình.”

Bấy giờ xa giá phát hành

Cùng bà Hoàng hậu dạo quanh sau vườn.

Chúa Ba đón rước xe loan

370. Tâu rằng: “Con tội muôn vàn đã cam.”

Đức Vua phán rằng: “Tha giam,

Cho về cung cấm chớ đam tu hành.”

Chúa Ba từ tạ đinh ninh:

“Con xin tu hành ở chốn hậu viên.”

375. Hoàng hậu lăn khóc một bên

“Thế thì lòng mẹ chẳng yên được nào!”

Chúa quỳ ren rén thưa vào:

“Lòng con chỉ một ước ao triền già.

Nguyên vì cõi Phật lâu xa,

380. Trần gian sống mấy mươi mà chẳng tu.

tham danh lợi tranh đua

Sau đến Minh đồ[21] biết thuở nào lên.”

Đức Vua nhịn giận mà khuyên:

“Rằng con sao nỡ để phiền cho cha.

385. Công trình khó nhọc sinh ra,

Nuôi con mong để tuổi già cậy trông.

Bây giờ bỏ chốn lầu hồng

Cha khuyên mẹ dỗ quyết lòng đi tu.

Hay gì sãi vãi ở chùa

390. Rau dưa khổ hạnh, bo bo tháng ngày,

Như con còn có thiếu gì

Mà con lại bỏ làm điều ấy ru.”

Thoắt thôi hai kiệu về lầu

Lại thấy hai chị đến sau dỗ dành:

395. “Tự em đày đọa một mình

Hai chị thảm thiết tâm tình lắm thay.

Em về chớ có ở đây,

Kẻo Vua cha giết mất rày mà thương.”

Chúa rằng: “Sinh tử là thường,

400. Dẫu có nghìn vàng dễ đổi được vay.

Em xin tu ở chốn này

Hai chị về rày chầu chực trong cung.”

Thấy em nói chẳng chuyển lòng,

Nặng lời thét mắng đùng đùng một khi.

405. Chúa thấy hai chị chẳng vì

Thưa rằng: “Bớt giận, làm chi nhọc lòng,

Thân đồng nhưng bụng chẳng đồng

Dám xin hai chị rộng dung mặc dầu.”

Bấy giờ hai chị về lầu

410. Tâu với Hoàng hậu trước sau sự lòng.

Hoàng hậu lên tâu ngai vàng

Lại sai thị nữ nội cung bắt về.

 

ĐOẠN 9:  THỊ NỮ BÀY RA MỘT KẾ,

CÔNG CHÚA RỜI BỎ HẬU VIÊN

 

Thị nữ trình Chúa Bà hay:

“Chúng tôi vâng lệnh dỗ rày Chúa nghe.

415. Nhược bằng Chúa chỉ đam mê

Chúng tôi mạn phép bắt về chẳng tha.”

Chúa Bà thất trực mắng la:

“Đã hay vâng phép vua cha cho đòi,

Dẫu sao cũng tử tế lời

420. Chúng bây sao dám dễ người bấy kia.

Chẳng về thì bắt lôi về,

Ấy tao tội gì, bây nói cho ra,

Tao nhân một sự xuất gia

Ở đây vì có lệnh cha bắt đày.”

425. Thị nữ thấy ý khôn lay

Đặt ra một chước, nói ngay một bài:

“Chốn này vắng vẻ hôm mai

Tu hành dễ được lâu dài đấy ru.

Có chùa Bạch Tước cảnh mầu

430. Năm trăm Tăng đạo bấy lâu trụ trì,

Vua phán Chúa Bà trở về

Tu đấy có bề hơn chốn hậu viên.”

Chúa Bà mới giải lòng phiền

Hỏi: “Vua cha có phán truyền thế chăng?

435. Phỏng như lời có thực rằng,

Thế thì như nguyện cũng bằng lên Tiên.”

Thị nữ trở lại trong đền

Tâu cùng Hoàng hậu, gửi liền Ngự hay:

“Chúng tôi khuyên dỗ cả ngày,

440. Chúa tôi cũng chẳng chút lay tấm lòng.

Chúng tôi đặt chước nói cùng,

Rằng lệnh đền Rồng cho Chúa đi tu.

Xin Chúa hãy trở về lầu

Để sang chùa Tước mà tu với người.

445. Chúa tôi mới nói mới cười,

Rằng được như lời mới thỏa lòng xưa.

Ấy là chúng tôi chước lừa

Phải đem sau trước trình thưa giãi bày.”

Đức vua mới phán rằng: “Bây,

450. Đặt chước ra rày phải dùng chước chăng?”

Truyền đòi chùa Tước chúng Tăng

Rằng: “Mai công chúa đến chưng chùa mày,

Vỗ về cho được chớ chầy

Không thì tao giết chúng mày chẳng tha.”

455. Nói thôi mới sai người ra,

Rước lấy công chúa về tòa kim lâu[22].

Bước vào vọng bái khấu đầu

Vua cha nhìn mặt chờ lâu mới truyền,

Rằng: “Con đã đam đạo Thiền

460. Cho ra chùa Tước theo miền Tăng ni.”

 

ĐOẠN 10: CÔNG CHÚA CỐ LƯU CHÙA TƯỚC,

CHÚNG TĂNG BÀY KẾ KHỔ SAI

 

Tạ từ Chúa mới ra đi

Hai chị cầm lại một khi chẳng rời.

Các quan văn vũ trong ngoài

Cùng đưa đức Chúa mỗi người mỗi than.

465. Chúa từ văn vũ các quan:

“Xin đem quân lại chớ phiền ra đi,

Tạ lòng xin các quan về

Giúp lấy nhân chính, phù trì Thánh cung.”

Trăm quan thưa một lời chung:

470. “Xin chúa trở lại đành lòng thần dân,

Nhớ xưa lời dạy Thánh nhân

‘Thuận thân[23] là đạo, nghịch thân là tà.’

Lòng lành chẳng lọ xuất gia

Trong cung thờ Phật cũng là chân tu,

475. Ra ngoài những đứa phàm phu

Lấy làm cợt giễu, ô đồ[24] khó nghe.”

Chúa rằng: “Vời các quan về,

Cõi trần nào dễ biết chi mà rằng,.”

Nói thôi Chúa kíp rời chân

480. Trông chùa Bạch Tước đến gần tự biên[25].

Lao xao Tăng chúng mảng tin[26]

“Ấy là công chúa vua truyền ngày xưa,

Hễ người ta chẳng chối từ

Vua ắt làm tội bấy giờ chẳng dung.”

485. Bèn vời đức Chúa vào trong

Trình kể sự lòng sau trước Chúa hay:

“Chúng tôi khổ hạnh ở đây

Ăn mày lộc Phật mội ngày một lưng.

Chúa Bà quý giá ai bằng

490. Làm chi sãi vãi danh xưng thế cười.”

Chúa Bà dạy lại mấy lời:

“Sang giàu mà chẳng luân hồi vậy vay.”

Chúng Tăng cứ thực trình bày:

“Đức vua có lệnh truyền rày chúng tôi,

495. Dỗ cho được Chúa kíp hồi

Không vậy giết người, chùa đốt ra tro.”

Chúa rằng: “Chẳng phải phiền lo,

Tử sinh hữu mệnh biết hầu làm sao.”

Chúng Tăng thấy nói chẳng vào

500. Thác từ[27] cắt việc cho nao tấm lòng.

Hễ đà ở chốn trù phòng[28]

Muối dưa, gánh nước với cùng nấu cơm,

Đốt hương, quét tước Già-lam[29]

Giã gạo, bổ củi, việc làm cả ngày.

505. Bữa ăn đủ năm trăm thầy

Đóng chuông, rung trống, không ngày nào nhưng.

Chúa Bà thấy nói mừng rằng:

“Hữu thân hữu khổ lẽ hằng thế gian.

Ta đà vào chốn Thiền quan

510. Chỉ mong đắc đạo, há toan tiếc mình.”

Nói thôi vào trước tịnh đình

Chắp tay lạy Phật, tụng kinh, tham thiền,

Bao nhiêu công việc chùa chiền

Một mình gánh vác, truân chuyên chẳng từ.

515. Lòng thành động đến trên trời

Ngọc Hoàng phán lời Thái Bạch Kim Tinh,

Rằng có công chúa tu hành

Một ngày trăm việc thấy hình mà thương.

Lệnh truyền thần tướng, thần vương

520. Giúp việc công chúa giữ ràng sớm khuya,

Rồng thì tuôn nước đến kề

Hùm thì hái củi, chim thì nhặt rau.

Thổ địa thì quét trước sau

Lục đinh thần tướng đứng hầu đốt hương,

525. Quần Tiên oản quả, trà thang

Kẻ chuông, người trống, mọi đường chia nhau.

Phép trời giúp Chúa nhiệm mầu

Trăm việc một khắc, ai hầu biết ra.

Cả chùa sư vãi trẻ già

530. Tưởng rằng phép Chúa ai là chẳng kinh.

Nhủ nhau vào tấu triều đình

Kẻo e rồi lụy đến mình khốn thay.

 

ĐOẠN 11: CÔNG CHÚA KHÔNG VỀ,

TRANG VƯƠNG ĐỐT CHÙA

 

Đức Trang thấy sự tâu bày

Lôi đình thét mắng: “Chúng bây a tùng.”

535. Lệnh sai lực sĩ đùng đùng

Đốt chùa giết hết mọi phòng Tăng ni.

Tăng ni lăn khóc như ri

Bởi vì Chúa đến, nỗi này thảm thương.

Chúa Ba kêu lạy bốn phương:

540. “Vì tôi để vạ cho vương đến người.

Mười phương Phật, chín phương trời

Hoàng Thiên, Hậu Thổ[30] chứng lời cho không?”

Cầm dao cắt máu ròng ròng

Lạy trời, đem máu rảy tung lên trời.

545. Tự nhiên chuyển động dời dời,

Sấm ran, mưa xuống khắp nơi chùa chiền,

Gió êm lửa tắt được liền.

Ai cũng khen Chúa phép Tiên lạ lùng.

Lực sĩ thấy sự hãi hùng

550. Tâu về Trang Chúa cửu trùng Ngự hay,

Phán rằng: “Bắt Chúa về đây

Chẳng về thì bắt giết ngay chớ chày.”

Hoàng hậu xin khất một khi,

“Tôi xin đặt kế, họa thì phải nghe.

555. Đem ra kỹ nhạc trăm nghề

Dỗ rằng chẳng về hẳn giết chẳng chơi.”

Ai ngờ lòng sắt khôn dời

Tiệc bày mặc tiệc, tu thì lại tu.

 

ĐOẠN 12: TRANG VƯƠNG SÁT HẠI CHẲNG THA,

THẦN PHẬT CÙNG ĐẾN BẢO HỘ

 

Bấy giờ có lệnh trên lầu

560. Truyền bắt làm tội trọng tù giết ngay,

Pháp quan vâng lệnh dám chày

Đem ra trường pháp toan nay gia hình.

Thấy tin Hoàng hậu bộ hành

Ôm con lăn khóc một mình đòi phen.

565. Một giây vua đã biết tin

Lại phán chỉ truyền tha giết đi cho.

Đem về giam ở ngục u

Lãnh cung chốn ấy thảm sầu bốn bên,

Giãn ra vua lại nài khuyên

570. Đức Chúa gượng phiền quỳ lạy tâu qua:

“Đã hay đạo mẹ đức cha

Trời cao bể rộng báo đà xứng chưa.

Nhưng tôi khổ hạnh bây giờ

Mai sau cha mẹ được nhờ độ siêu,

575. Kẻo e nghiệp chướng đã nhiều

Chẳng tai bể khổ cũng nghèo sông mê.”

Vua nghe càng giận đòi khi

Lại truyền lực sĩ đem đi gia hình,

Bấy giờ thổ địa thần linh

580. Ở lãnh cung tới Thiên đình tâu lên.

Ngọc Hoàng thượng đế phán truyền

Sai các thần xuống bốn bên hộ trì,

Rằng là Bồ tát xưa kia

Thác sinh hạ giới khi nay phải nàn.

585. Chư Thần mau xuống chớ khoan

Hễ thấy có giết kíp toan cứu người,

Canh năm vừa mới rạng trời

Lực sĩ áp điệu ra nơi pháp trường.

Chúa Bà nhan sắc như thường,

590. Nghĩ lòng lên được thiên đường từ đây.

Quan quân gươm giáo sắp đầy

Bỗng đâu cơn gió thổi ngay đùng đùng.

Tối tăm trời đất mịt mùng

Hào quang sáng khắp cả trong trường hình.

595. Gươm đao chẳng phạm được mình

Pháp quan thấy thế tấu trình bề trên.

Vua Trang lại có lệnh truyền

Không trảm thì giảo giết liền xem sao.

Quan quân áp đến xôn xao,

600. Bỗng đâu mãnh hổ nhảy vào tha đi.

Các quan về tấu vua nghe

Vua rằng trời đất dung gì kẻ gian.

 

ĐOẠN 13: HỒN CÔNG CHÚA DẠO CHƠI ĐỊA PHỦ,

LÒNG TỪ CỨU THOÁT NGỤC TÙ

 

Hổ tha vào tới rừng hoang

Đức Chúa mơ màng như lúc chiêm bao.

605. Chẳng hay đây là nơi nào

Biết ai mà hỏi lối vào đường ra?

Bàng hoàng phách nguyệt hồn hoa,

Thấy Thanh Y sứ[31] đến mà hỏi han,

Tay cầm bảo cái cờ phan,

610. Hào quang sáng khắp mọi ngàn dưới trên.

Trình: “Có Diêm Vương lệnh truyền

Dạy mời đức Chúa về đền Phong Đô.”

Qua mười tám cửa ngục tù

Hỏi: “Đây là chốn ở đâu tên gì?”

615. Thưa rằng: “Địa phủ, Minh ty.”

Chúa mới ngẫm lại một khi sự lòng,

“Hẳn ta chẳng chịu lấy chồng,

Vua cha đem giết thác trong chốn này.”

Sứ rằng: “Chẳng phải vậy vay,

620. Mười vua Thập điện rước người xuống chơi.

Xin mời người hãy tới nơi,

Lại về dương thế rày mai chẳng chày.”

Chúa theo sứ giả liền đi,

Mười tám cửa ngục một khi tới gần.

625. Những quân canh ngục vui mừng,

Đầu trâu đón rước dăng dăng hai hàng.

Chúa trông vào chốn ngục đường,

Gió lạnh hơi thấu đến xương lạnh lùng.

Tối tăm ngày cũng mịt mùng

630. Quân tù eo óc[32], đứa trong, đứa ngoài.

Chúa mới hỏi sứ từng lời,

“Chẳng hay tội nghiệp những người làm sao?”

Thanh Y dẫn lại thấp cao

Tội gì cũng có xiết bao ngục tù.

635. Kìa ngục đem ném vạc dầu

Xác người sùng trụng[33] từ đầu đến chân.

Dưới thời lửa đốt cháy rân

Dầu sôi người khóc muôn phần khổ thay.

Vì trên trần thế tội dày

640. Trong lòng hiểm độc sâu cay quá chừng.

Bạo nghịch thiên địa Thánh thần

Phật, Tiên, Tổ, khảo, quân, thân[34] với thầy.

Kìa ngục Huyết hồ gớm thay

Hồ sâu những máu tanh nay lạ lùng.

645. Bắt đem nhấn đầu vào trong

Thò lên rắn rết, thuồng luồng cắn ngay,

Bởi vì trút bỏ bào thai

Gian dâm bắt tội cả hai đứa cùng.

Kìa ngục Nằm trên bàn chông

650. Chông là chông sắt, lưng hông tồi tàn.

Ngục Kiếm thụ, ngục Đao sơn[35]

Gươm dao từng đống như ngàn núi cây.

Vất lên da thịt còn gì

Bởi vì người ấy bất nghì[36], bất nhân

655. Rủ rê lừa lọc ngu dân

Để cho đến nỗi mất thân, mất nhà.

Chiết kiều[37] kia ngục Đầu hà[38]

Quỷ sứ đánh bắt cho sa xuống cầu.

Càng cao sa xuống sông sâu

660. Chó đồng, rắn sắt cắn đầu, cắn hông.

Bởi vì lấp giếng ngăn sông,

Phá việc vợ chồng, hại kẻ công danh.

Kìa bàn vả sắt[39] quỷ binh

Là ngục Chửi chị, chửi anh, chửi chồng.

665. Phẫu tâm là ngục Mổ lòng

Những loài bất hiếu, bất trung tiếc gì.

Ngục Đâm cối, ngục Dang tay.

phí của trời, bỏ giấy chữ Kinh,

Cho nên cối đâm sình sình

670. Dang hai tay, đóng những đinh sắt vào.

Kìa ngục Bạt thiệt[40] làm sao

Cầm kìm lôi lưỡi, máu trào mà kinh,

Bởi vì miệng lưỡi co quanh,

Đảo điên đơm đặt làm khuynh hãm người.

675. Kìa ngục Hay nói dối đời

Quỷ đứng vả miệng, quỷ ngồi bẻ răng.

Nào ai dò lưới bắn săn,

Hay giết trâu lợn, hay ăn thịt cầy,

Có ngục Ác thú một bầy

680. Hổ, lang, ưng, khuyển[41] cắn nhai ruột già.

Xe lửa là ngục Hỏa xa,

Quay đi quay lại thịt da tan tành,

Bởi vì cậy thế, cậy mình

Hiếp kẻ cô quả, cướp tranh ruộng vườn.

685. Cột đồng là ngục Đốt than

Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm.

Kìa ngục Rắn hổ, rắn giun,

Quấn người cắn máu lại phun mặt người

Bởi vì bới móc chê bai,

690. Ghen tuông người nọ, dông dài sự kia.

Còn như thân thích thì lìa,

Thấy kẻ đói khát chút gì chẳng cho

Tham tài giữ lợi bo bo

Kẻ cùng, kẻ bệnh, chẳng phù chẳng thương.

695. Xiết bao khoảnh độc, cơn ương[42],

Những các người ấy phải mang ngục này,

Xẻ cưa, dựng ngược gớm thay,

Đem đá ném xuống thân thây tan tành.

Ấy là các cửa ngục hình

700. Đều vì thất đức, tại mình biết sao.

Lòng trần tưởng chẳng chi nào

Ai hay quả bảo khi vào Âm ty.

Lại xem một ngục A Tỳ

Mấy tầng chông sắt đen sì tối tăm

705. Ngục này thực tội đà thâm,

Biết mấy hình nặng dưới âm mà rằng

Là người làm hại quân, thân

Làm hại thiên hạ muôn dân lắm người.

Mấy người sâu sắc nước đời,

710. Đã được hóa kiếp chẳng chừa ác tâm.

Cơ thâm thì tội cũng thâm

Ác hữu ác báo chẳng nhầm chút nao.

Dối người dối được trời nào

Giới thần[43], vua Táo soi vào con tim.

715. Dương gian chết có một phen

Phép âm bắt mãi chết liền sống ngay,

Làm cho thảm thiết đọa đày

Cho bỏ lại ngày ác nghiệp dương gian.

Chúa Bà thấy nói thở than:

720. “Chẳng đành con mắt, chẳng yên trong lòng.

Ước sao hình ngục vắng không,

Bao nhiêu tội chúng sạch trong làu làu.”

Bỗng thấy ba người đến sau,

Sụt sùi khóc lóc cúi đầu trình thưa:

725. “Bởi vì chùa Tước bữa xưa,

Can liên sự Chúa bây giờ xuống đây.”

Chúa Bà thấy nói thương thay

Gửi xin Diêm phủ tha ngay ba người.

Ba người đã được lên đời,

730. Thanh Y dẫn Chúa chân dời từ lâu.

Lại vời đến chốn kim cầu

Tràng phan, bảo cái trước sau ngất đường.

Dưới trên những pho pho trương

Rồng vàng, mây đỏ bốn phương chầu vào.
735. Chúa nghe tiếng nhạc xôn xao,
Lại nghe tù khóc lào xào nơi xa.
Thanh Y dẫn lại trình qua:
“Có phúc đàn sáo sênh ca đãi đồng.
Vô phúc dẫn vào ngục trung,
740. Phủ việt[44], chùy đồng[45] khảo đánh giam tra.”
Chúa nghe lời nói xót xa
Cảm thương trong bụng kêu ca thiên đình.
Khấn cầu chuyển chú niệm kinh,
Ngọc Hoàng cảm động chí thành tự nhiên.
745. Bảo hoa bay khắp bốn bên,
Hào quang sáng suốt dưới trên ngục thành.
Giang cầm[46] lai láng tan tành,
Bao nhiêu tù rạc nhẹ mình tỉnh ra.
Thoắt chốc vua Thập Điện qua,
750. Chào hỏi: “Chúa Bà trần thế xuống đây?”
Chúa Bà rằng: “Giã ơn[47] người,
Nhọc phiền Bệ hạ tới đây làm gì!”
Vua rằng: “Nghe đức từ bi,
Mở lòng thương xót độ trì chúng sinh.
755. Khắp mười tám cửa ngục hình,
Một giờ đại xá siêu sinh từ rày.
Thực là đắc đạo linh thay,
Chuyển trong địa ngục ra nay thiên đường.”
Phán đem bảo cái, tàn vàng
760. Hai mươi bốn cặp rỡ ràng bày ra.
Sáu tào đưa tiễn Chúa Bà,
Đến sông Nại Hà rồi mới chia tay.


ĐOẠN 14: CÔNG CHÚA HỒI SINH DƯƠNG THẾ,

PHẬT TỔ DẪN VÀO HƯƠNG SƠN


Chúa Bà hồn phách tỉnh ngay,
Vẫn còn ngọc thể như ngày giáng sinh.
765. Trông ra rừng rụ một mình,
Biết đâu có chốn am thanh nương nhờ.
 Đương khi phảng phất bơ vơ,
Thấy một người lạ lửng lơ đến gần.
Hỏi rằng: “Phải Công chúa chăng?
770. Ta kết phu phụ đạo hằng ở đây!”
Chúa rằng: “Sao nói thế hay!
Xuất gia đệ tử thân này xem không.
Mới rồi qua Địa phủ cung,
Thấy sự hãi hùng quả báo ghê thay.
775. Thôi đừng nói sự làm vầy,
Đã quyết lòng này như sắt nấu nung”.
Chúa Bà lòng chỉ biết lòng,
Nào ngờ người ấy cũng không thường mà.
Ai hay là Phật Thích Ca,
780. Ướm xem lòng Chúa có đà kiên[48] chăng?
Thấy Chúa một mực nói năng,
Ngài mới khen rằng: “Lòng đạo kiên thay!
Ta là Phật Tổ Như Lai,
Thấy kẻ có đạo ướm chơi biết tình”.
785. Chúa Bà vừa tạ vừa kinh,
Rằng: “Tôi nhục nhãn Ngài đành xá cho.”
Đức Phật mới chỉ đường tu,
Rằng: “Có một chùa ở Hương Tích Sơn,
Gần bể Nam Việt thanh nhàn,
790. Sang tu chốn ấy kíp toan viên thành.”
Chúa Bà lạy bạch chân tình:
“Bụng đói miệng khát, bộ hành làm sao?”
Đức Phật lại cho quả đào,
Dạy rằng: “Ăn vào, bất diệt bất sinh”.
795. Lạy từ Chúa mới bộ hành.
Xa xôi rừng rụ một mình gian truân.

Thái Bạch sai Hương Tích thần

Hóa làm lốt hổ đưa chân cho người.
Hổ vừa nhảy nhót đến nơi,
800. Chúa mới lạy trời mà khấn nguyện ra:
“Như tôi ở có lòng tà,
Bội nghịch, bất hiếu xin sa miệng hùm”.
Hổ liền quỳ xuống trình rằng:
“Tôi chẳng phải hổ xin đừng ngại chi.
805. Tôi là thần núi Hương kia,
Vâng lời Thái Bạch sai đi dẫn đường”.
Chúa liền theo bước đi sang,
Trèo đèo qua suối đến Hương Tích chùa.


ĐOẠN 15: CÔNG CHÚA TÔN ĐĂNG LÀM PHẬT,

KIM ĐỒNG SIÊU THOÁT THÂN PHÀM

 

Núi cao chân ngất[49] mịt mù,
810. Âm thanh, cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây.
Trên thì năm sắc tầng mây,
Dưới thì bể nước xanh rì như gương.
Cá, chim chầu lại tịnh đường,
Hạc thường tiến quả, hươu thường dâng hoa.
815. Một mình một núi Phổ Đà,
Thân là thân Phật, cảnh là cảnh Tiên.
Tu hành đã được chín niên,
Bao nhiêu phép Phật, phép Tiên vào lòng.
Lúc giờ Tam Phủ[50] công đồng,
820. Hộ thành quả phúc, phán trong lệnh truyền
Chư Phật, Bồ tát dưới trên,
Thần binh, thần tướng thiên thiên vàn vàn[51].
Động nguyên, Hải nhạc linh quan[52],
Ngũ Lôi thần tướng, Thành hoàng xã ty,
825. Đều ra tới trước lạy quỳ,
Xin tôn đức Chúa lên vì tòa sen.

Thần thông biến hóa tự nhiên
Một thân hóa được ra nghìn muôn thân.
Mắt soi khắp hết cõi trần,
830. Lắng tai nghe thấu xa gần bốn phương.
Chúa đà thành Phật, thành Tiên,
Còn một chút hiềm, đồ đệ chưa ai.
Thổ thần trình: “Có Thiện Tài,
Ở dưới Hạ giới, vốn người Duyện Châu[53].
835. Mẹ cha khuất mặt đã lâu,
Trẻ có chí mầu, lánh tục xuất gia.”
Phật Bà dạy: “Đem nó ra!”.
Hỏi nguồn cơn, hỏi kinh khoa một bài.
Bèn cho tạm ở mái ngoài,
840. Thử xem giới hạnh Thiện Tài làm sao?
Ngài đòi các tướng thần vào,
Dặn rằng giả cách làm loài kiếp nhân[54].
Nửa đêm áp đến ngoài sân,
Ngài cũng giả cách ngã lăn hãi hùng.
845. Kêu rằng: “Có ai cứu không?”
Ngài chạy sa xuống nghìn trùng hang sâu.
Thiện Tài cũng chạy theo sau,
Thương thầy, đâm đầu gieo xuống dưới hang.
Phật Bà từ ấy tin thương,
850. Thoát cho xác cũ, dẫn hồn phách lên,
Thiện Tài theo Phật về đền,


Phật hỏi: “Hang ấy, mày nhìn có ai?”
Thưa rằng: “Thấy một xác người.”
Phật rằng: “Xác ấy phàm thai của mày.
855. Thoát cho, cho sạch trần ai,
Cho biến hóa được, cho dài lâu thân.”

ĐOẠN 16: THỦY THẦN BÁO TẠ PHẬT ÂN,

NGỌC NỮ QUY Y PHẬT PHÁP


Này sự con vua Thủy thần,
Thái tử đi tuần, đội lốt lý ngư[55].
Đi lầm mắc lưới vật vờ,
860. Phỏng chậm một giờ, dao thớt phải sa.
Phật Bà trông thấy nẻo xa,
Dạy Thiện Tài kíp đi ra chớ trì.
Hóa làm hình dáng nữ nhi.
Mua lấy cá ấy tức thì phóng sinh.
865. Thái tử về được Thủy đình,
Vua mừng lấy ngọc dạ minh[56] báo người.
Con gái Thái tử lên mười,
Lòng mộ, xin nài mang ngọc ra đi.
Đến nơi lạy tạ một khi,
870. Lại xin ở lại trụ trì tụng kinh.
Dạy rằng: “Thầy hỏi thực tình,
Tu thì khổ hạnh, có đành được chăng?”
Long Nữ quỳ xuống thưa rằng:
“Thầy tu ngày trước, trăm phần khó thay!
875. Vua cha làm đọa làm đày,
Mà Thầy chịu được đắng cay nhiều bề.
Huống tôi nhờ có Thầy đây,
Tuy rằng khổ hạnh, được rày cam tâm.”
Ngài liền dạy pháp Thiền lâm[57].
880. Câu kinh câu kệ, miệng ngâm ngày ngày.
Tả Long Nữ, hữu Thiện Tài,
Cho làm huynh đệ, hôm mai đứng hầu.

ĐOẠN 17: TRANG VƯƠNG ĐA SÁT, BẤT NHÂN,

THƯỢNG ĐẾ GIÁNG CHO BỆNH NẶNG

Đoạn này nói chuyện dưới đời,
Vua Trang từ thuở nỡ hoài[58] Chúa đi.
885. Đốt chùa hại đến Tăng ni,
Long thần lúc ấy tâu quỳ thượng thiên.
Thiên đình đòi sổ ra xem,
Truyền bắt hồn phách xuống miền Âm ty.
Nam Tào[59] mở sổ tâu quỳ:
890. “Hai mươi năm nữa đến kỳ sẽ hay.”
Phán rằng: “Số thọ còn chầy
Giáng cho bệnh nặng, thuốc gì chẳng yên.”
Ôn Hoàng[60] vâng lệnh xuống liền,
Bao nhiêu khí độc vào đền Trang Vương.
895. Vua Trang phát bệnh lạ thường,
Thân hình chốc lở, chiếu giường tanh hôi.
Đêm ngày thảm thiết bồi hồi,
Thuốc thang cần khấn chẳng vơi chút nào.
Động lòng Chúa Phật trên cao,
900. Mắt Ngài trông thấu biết bao cõi trần.
Thấy vua cha phải gian truân,
Đòi Thiện Tài lại ân cần thở than:
“Ta nay phải xuống trần gian,
Giả làm Hòa thượng lo toan sự này”.


ĐOẠN 18: TRANG VƯƠNG TREO BẢNG TÌM THẦY THUỐC,

PHẬT CHÚA GIẢ LÀM TĂNG CỨU TRỊ


905. Này đoạn Hoàng hậu khổ thay,
Thương con chưa giãn lại nay lo chồng.
Tâu vua định kẻ nối dòng,
Ngự truyền chàng rể phải dùng biết sao?
Sai quan đòi Phò mã vào,
910. Phò mã nhả[61] tiệc, chén đào xướng ca.
Hai Phò mã say là đà,
Sai viên đợi chẳng thấy ra trở về.
Vua nghe giận con bất nghì,
Thêm sầu, thêm bệnh hôn mê mơ màng.
915. Chính cung lăn khóc bên giường,
Nghĩ Chúa Ba lại thêm càng đắng cay!
Con hiền mà nỡ phụ hoài
Hai giống phi loài còn để làm chi?
Thấy cha khốn khổ gian nguy,
920. Theo chồng hát xướng vui vầy cho yên.
Vua Trang bao xiết lòng phiền,
Mới phán lời truyền treo bảng văn lên:
“Ai mà chữa được trẫm yên,
Trẫm nhường thiên hạ thay quyền trị dân”.
925. Một chốc thấy ông lão Tăng,
Đến gần xé lấy bảng văn vội vàng.
Quan quân thấy kẻ dở dang[62],
Bắt đem vào nộp triều đường vua hay.
Hòa thượng đặt gối tâu bày:
930. “Tôi dùng thuốc tạng, vốn thầy chính tông.”
Vua nghe tâu vậy, mừng lòng,
Phán rằng: “Chữa được thưởng công những gì?”
Tâu rằng: “Lời ấy khó nghe,
Bảng treo chữa được nhường vì ngôi cao.
935. Bây giờ trọng thưởng làm sao?
Nói đà chẳng thực, thuốc nào dám đưa!”
Đức Vua thét mắng một giờ,
Lại cho thăm bệnh thử chờ thuốc thang.
Lão tăng vâng đến long sàng,
940. Xem rồi, rằng: “Chứng lạ thường khó thay,
Thuốc phàm dễ chữa được vay
Tiên nhân rày tu ở Hương Sơn.
Xin được tay, mắt làm hoàn[63],
Điều[64] vào với thuốc, mới toan chữa lành”.
945. Đức vua thấy nói trái tình,
Mắng rằng: “Vô lý”, chẳng đành vào tai
“Người ta hai mắt, hai tay,
Ai có thừa thãi mà Thầy nói xin.”
Tâu rằng: “Đừng giận, chớ phiền,
950. Lão tăng xin dẫn căn nguyên giải bày:
Hương Sơn là chốn thiêng thay,
Tiên nhân tu đó đã đầy chín niên.
Cứu người chỉ một tâm nguyền,
Tiếc thân, còn có làm duyên phúc gì.
955. Tiên nhân người chẳng quản chi,
Mong cho vua được yên vì trị dân.”
Đức vua thấy nói ân cần,
Hỏi: “Đem vàng bạc kim ngân lễ gì?”
Tâu rằng: “Vàng bạc làm chi,
960. Mâm trầm bạch[65] này thanh khiết mà thôi.
Đường ba nghìn dặm đến nơi,
Tôi xin ở lại năm ngày nghỉ chân.”
Lòng vua nghĩ ngợi tần ngần,
Nửa phần tin lại nửa phần còn nghi.
965. Bèn sai Triệu Chấn ra đi,
Cứ lời Tăng dặn nẻo về Tích Sơn.
Lại truyền Tả Trấn Môn quan
Nuôi lão tăng ấy giữ giàng chớ tha.
Đợi đem được thuốc về nhà.
970. Xem lão tăng nói thực thà hay không.

ĐOẠN 19: PHÒ MÃ MƯU BỎ THUỐC ĐỘC HẠI VUA,

PHẬT CHÚA LÀM LỘ MƯU GIAN


Này chuyện Phò mã lạ lùng,
Họ Hà, họ Triệu đồng lòng mưu gian.
Nghe vua dùng thầy Tích Sơn,
Sợ khi chữa được ắt toan nhường quyền.
975. Sai người gia thuộc đi đêm,
Vào nhà Tả Trấn giết liền Lão tăng.
Lại sai một người, dặn rằng:
“Cầm một phong thuốc vào dâng bệ tiền.
Nói dối rằng là thuốc tiên,
980. Đã đi lấy được ở miền Tích Sơn.”
Ấy là hai đứa mưu gian,
Nó dâng thuốc độc để toan cướp quyền.
Ai ngờ phép Phật thông huyền,
Chúa Bà biết trước Ngài liền hóa thân.
985. Giả thân là Lão tăng nhân,
Chân thân một khắc về chưng cảnh chùa.
Đòi thần Du Dịch[66] dặn dò,
Vào đền hóa tướng, giữ vua đêm ngày.
Nửa đêm có thuốc dâng ngay,
990. Rằng: “Thuốc chùa Tích đưa thầy Lão tăng”.
Du Dịch quỳ xuống tâu rằng:
“Ấy thuốc Phò mã toan chưng hại người”.
Vua Trang nghe nói rụng rời,
Chờ khi trời sáng, sai người khám tra.
995. Cứ người dâng thuốc sinh ra,
Rằng: “Hai Phò mã lòng tà kế sâu.
Bởi lo Hòa thượng giúp vua,
Một mai thiên hạ nhường cho cầm quyền.”
Vua nghe vừa giận vừa phiền,
1000. Rằng: “Loài súc sản chẳng nên giống gì.”
Truyền bắt Triệu, Hà hai ngươi,
Với đứa đem thuốc phó[67] nơi cực hình.

ĐOẠN 20: HAI CÔNG CHÚA BỊ GIAM,

THẦN THỔ ĐỊA BÁO MỘNG


Hai bà công chúa thất kinh,
Trốn vào hậu đình, kêu với Chính cung.
1005. Chính cung kêu lạy ngai rồng:
“Hai con thơ dại xin dung thứ vì.
Chúa Ba đã chết bấy chầy,
Còn hai chút này có lẽ chẳng dung?”
Phán: “Tha, đày vào lãnh cung!”
1010. Thanh, Âm hai Chúa cực lòng khốn thay.
Nhớ xưa em nói lời này:
“Bao nhiêu thế sự, phút rày như không.”
Thà giết như em cho xong,
Chẳng thà hãm ở lãnh cung làm vì.
1015. Thổ thần mộng báo cho hay:
Rằng: “Em còn sống ở rày Hương Sơn.
Nay mai trở lại Dương gian,
Trước độ Thánh hoàng, sau độ hai ngươi.”
Chiêm bao rõ biết mọi lời,
1020. Hai người từ ấy, ăn chay tu hành.
Đốt hương niệm Phật lòng thành,
Khấn nguyện xin được siêu sinh âm thầm.

ĐOẠN 21: CẮT TAY MẮT TRỊ BỆNH TRANG VƯƠNG,

HÒA THƯỢNG TỪ BỎ VƯƠNG VỊ, TRỞ VỀ HƯƠNG TÍCH SƠN


Này sự Triệu Chấn, Lưu Khâm,
Hai người lên chốn sơn lâm, đến chùa.
1025. Tiên nhân vâng thấy chiếu vua,
Tay, mắt bên tả dạy cho cắt về.
Lưu Khâm bước đến gần kề,
Cầm dao chẳng dám động hề tra tay[68].
Tiên nhân giục bảo: “Chớ chầy,
1030. Kíp lấy về rày, kẻo để vua trông.”
Cắt ra, máu chảy ròng ròng.
Hai người lễ tạ, đều cùng trở ra.
Triệu Chấn về đến nước nhà,
Ôm tay, đem mắt vào toà dâng lên.
1035. Hoàng hậu cất tay, nhìn xem:
“Giống Chúa Ba cũ như in lạ đời!”
Hai hàng nước mắt tuôn rơi,
Vua rằng: “Thiên hạ thiếu người giống nhau!”
Hoàng hậu rằng: “Chẳng sai đâu,
1040. Tôi đã nhận dấu trước sau kể tường.
Đốt ruồi chính giữa hổ quan[69],
Thực con tôi đó, còn bàn rằng ai.
Người dưng ai nỡ hoài tay,
Tình thâm cốt nhục nên rày hoài thân!”
1045. Thoắt thôi vua mới phán rằng:
“Phó giao tay, mắt Thầy tăng kíp điều”.
Thuốc cao luyện được một liều,
Phán: “Đồ[70] bên tả, bệnh tiêu tức thì.
Bệnh bên hữu hãy còn y,
1050. Vua hỏi: “Chước gì cho đỡ liền đi?”
Thầy rằng: “Tả trị hữu hay,
Bên hữu phải dùng mắt, tay bên đoài[71]”.
Vua rằng: “Tay, mắt của người,
Lẽ đâu xin được cả hai bên mà”.
1055. Thầy rằng: “Tuy thế xong mà,
Bệnh chi, thuốc nấy, ắt là mới hay!
Vả Tiên nhân cũng từ bi,
Dẫu ta xin hết, người thì cũng trao.
Huống còn phần ấy, tiếc nào,
1060. Phúc làm cho trót, quản bao đến mình.”
Lưu Khâm phụng mệnh tái hành,
Lại có lời chiếu lên trình Tiên nhân.
Trong lời chiếu chỉ ân cần:
“Xin Tiên chữa cả mười phần cho yên.
1065. Rồi ra cả nước lập đền,
Muôn năm cúng dường, chúc nguyền tôn linh”.
Chúa đà nghe biết chân tình,
Dạy Thiện Tài hóa làm hình Tiên nhân.
Lưu Khâm cầm dao đến gần,
1070. Bảo rằng: “Kíp lấy băng chừng[72] hồi gia”
Cắt thôi máu chảy chan hòa,
Tiên nhân chính sắc[73] nói ra làm vầy:
“Khen cho Hòa thượng thuốc thầy,
Đem được vương thể, mệnh này để ai?”
1075. Lưu Khâm về nộp trước đài,
Vua mới dạy với Hòa thượng vào trong.
Thuốc thang điều luyện vừa xong,
Tiến vào Cửu trùng, linh nghiệm thiêng thay!
Thần thông nào kịp trở tay,
1080. Mặt rồng tươi tốt hơn người xưa kia.
Triều đường cung cấm tư bề,
Yến mừng, tiệc hát, vui vầy xôn xao.
Luận tôn Hòa thượng quyền cao,
Trăm quan rước vào, tuyên chiếu nhường ngôi.
1085. Hòa thượng lạy, giã từ lui,
“Tính quen non nước thú vui tháng ngày.
Dám khuyên bệ hạ từ rày,
lòng nhân đức cho hay lấy mình.
Các quan văn vũ triều đình,
1090. Giúp vua, lo nước cho thành chữ trung.
Tiểu tăng đã thoát bụi hồng,
Cầu chi danh lợi mà trông ngôi nhường.”
Thoắt thôi từ tạ lên đường,
Trăm quan đưa tiễn vội vàng theo sau.
1095. Bỗng không thấy ở trên đầu,
Một tờ tiên[74] kệ bốn câu giữa trời.


Kệ rằng:
Ngô nãi Tây phương nhất Thế Tôn,
Đặc lai cứu nhĩ bệnh trừ côn
Tùng kim chính đạo vô tà sắc,
Mạc sự linh chân nhiễm tục hồn.[75]

ĐOẠN 22: TRANG VƯƠNG GIỮA ĐƯỜNG GẶP YÊU,

TRONG NƯỚC GIẶC HÀ TIẾM NGÔI


Trăm quan thấy giấy kệ rơi,
Đem vào tâu ngự xem lời làm sao
Rằng: “Ta mệnh ở Nam Tào,
1100. Ngọc Hoàng thương đến mới trao kệ này.
Trẫm nhớ ơn Tiên nhân thay,
Tính sao trả nghĩa mới hay bằng lòng!”
Bèn đòi Triệu Chấn đến cùng,
Hỏi rằng: “Tiên nữ hình dung thế nào?”
1105. Chấn rằng: “Chẳng biết làm sao,
Giống Chúa Ba ấy, hao hao dáng hình!”
Vua rằng: “Sự ấy chưa minh,
Chờ khi lễ tạ sẽ đành hỏi thăm.”
Nào hay chúa Thanh, chúa Âm,
1110. Hai Chúa mừng thầm ở chốn lãnh cung.
Từ nghe thần mộng lạ lùng,
Trông em mình chỉ một lòng đinh ninh.
Ai ngờ mắc phải yêu tinh,
Thanh Sư, Bạch Tượng biết tình mình ra.
1115. Giả làm hình dạng Chúa Ba,
Dỗ đem đi đến núi xa lạ lùng.
Hai yêu xưng ép làm chồng,
Hai bà khăng khẳng một lòng chẳng cho.
Thà chết, chẳng chịu gian ô,
1120. Nó hãm làm tù, lại quá lãnh cung.
Khi ấy, quân canh lãnh cung,
Không thấy hai Chúa, hãi hùng tấu lên.
Tức khắc vua sai người liền,
Người đón, người tìm khắp cả Tây Đông.
1125. Có con thị nữ Thuý Hồng,
Nghĩ đạo thầy tớ cố công thăm dò.
Yêu tinh thấy vậy nó lo,
Bắt giam thị nữ, làm cho dứt đường.
Quan quân tìm khắp mọi phương,
1130. Chẳng thấy tin tức ai còn căn nguyên.
Trăm quan thấy sự ngạc nhiên,
Tâu vua lên hỏi người Tiên trên chùa.
Đức vua truyền sắm đủ đồ,
Kẻ theo kiệu ngọc, kẻ phù xe loan.
1135. Phát hành chưa đến Hương Sơn,
Huyện Trừng Tâm, lại mắc nàn yêu tinh.
Ma vương sợ lộ sự mình,
Nửa đêm hóa trận phong sinh đùng đùng.
Vua Trang cùng với Chính cung.
1140. Nó bắt vào động, hãi hùng hôn mê.
Triệu Chấn vốn thuộc đường đi,
Tìm lên chùa Tích, toan bề hỏi tin.
Yêu tinh rình đón cả đêm,
Lại bắt Triệu Chấn, cũng đem giam liều.
1145. Vua Trang đã mắc con yêu,
Lại thêm một điều trong nước giặc pha[76].
Có con Phò mã họ Hà,
Giận vì ngày trước giết cha nó rày,
Trốn sang Mâu quốc[77] bấy chầy,
1150. Chiêu được binh mã đến ngoài ba muôn
Nhân khi vua ngự chùa Hương,
Nó vào tiếm vị vua Trang hững hờ.

ĐOẠN 23: PHẬT CHÚA ĐƯƠNG PHÓ HỘI THIÊN ĐÌNH,

THIỆN TÀI MỘT MÌNH TRỪ YÊU QUÁI

 

Vua Trang đương lúc vật vờ,
Chúa Bà bấy giờ có nhớ hay quên
1155. Chỉ vì có lệnh Hoàng Thiên,
Hội các chư Phật ở trên Diêu Trì.
Phật Bà giở việc chưa về,
Cho nên trong nước lắm bề gian nan.
Thiện Tài thấy sự chẳng an,
1160. Bàn với Long Nữ lo toan việc này:
“Nước nhà sư phụ, khốn thay,
Phải con Hà Phượng tiếm rày còn chi.
Thầy còn vắng vẻ chưa về,
Hai ta phải xuống phù trì quốc vương”.
1165. Thổ thần lại bảo rõ ràng:
“Quốc vương đang mắc giữa đường yêu tinh.”
Bàn nhau chiêu tập thiên binh,
Thần quan, thần tướng lệnh hành kíp đi.
Đương niên Thái Tuế[78] cũng tùy[79],
1170. Hơn một trăm lẻ những vì thần vương.
Mặc áo sắt, đội mũ vàng,
Ngọn cờ chỉ núi Thanh Lương tức thì.
Thiên binh đến động Liễu Hoa,
Bày ra bốn mặt bủa vây trùng trùng.
1175. Yêu tinh hai đứa thị hùng[80],
Thấy thiên binh đến động Liễu Hoa,
Nó thì hóa phép lạ thay,
Mình cao bốn trượng, sáu tay, ba đầu.
Sài, lang, hổ, báo như bâu,
1180. Nó đi như gió u u cả rừng.
Linh quan, thiên tướng mắng rằng:
“Chúng bây loài súc, sao chăng nộp mình?”
Hai yêu nó chẳng giao binh
Nó tung lửa độc, cháy xanh lè lè.
1185. Nó phun nước độc đen sì,
Phá vào chẳng được, giữ vây ở ngoài.
Long Nữ mới bảo Thiện Tài,
“Phải đi mượn lửa của Hồng Hài Nhi.
Mượn lửa Tam muội thần kỳ,
1190. Hai lửa ấy về mới bắt được ma.
Tôi xin về dưới vua cha,
Lĩnh nước Thủy Phủ giang hà một khi.”
Hai người, hai nẻo đều đi,
Thiện Tài mượn được, Hài Nhi giúp cùng.
1195. Long Nữ về đến Thủy cung,
Mượn được binh thủy đồng lòng đến ngay.
Nước dâng, lửa phóng tư bề,
Hai yêu lúc ấy, lực nguy, thế cùng.
Thanh sư ẩn vào động trung[81],
1200. Bạch tượng cũng trốn vào trong thạch bàn.
Dẹp loài yêu quái đã an,
Thiên binh chủ khách hợp hoan tản hồi[82].

ĐOẠN 24: PHẬT CHÚA TÌM CỨU TRANG VƯƠNG,

KIM CƯƠNG BẮT LOÀI YÊU QUÁI


Yêu tinh nọ đã dẹp rồi,
Vua Trang chưa biết ở nơi đâu là?
1205. Đến khi Chúa Phật về nhà,
Thiện Tài kể sự vua cha làm vầy.
Vội vàng lên núi trông mây,
Xem thấy phụ mẫu còn rày hang sâu.
Hai chị với một con hầu,
1210. Với quan Thừa tướng âu sầu thương thay.
Chúa lên bạch Phật Như Lai,
Kim Cương Bát Bộ[83] phụng sai vội vàng.
Xuống tìm các động các hang,
Bắt con yêu ấy, tìm vua Trang rày.
1215. Vua Trang, Hoàng hậu thấy ngay,
Còn bốn người nữa nằm mê biết gì.
Chúa cho nước phép giải đi,
Tự nhiên tỉnh lại một khi lại lành.
Đức Trang nhận rõ chân tình,
1220. Rằng: “Ai cứu mình, chẳng lại Thầy tăng
Ơn thầy, khôn xiết nói năng,
Xưa đà trị bệnh, nay chưng trị tà!”
Nói rồi, giọt ngọc tuôn sa,
“Không thầy ai dễ yên nhà nước cho.”

ĐOẠN 25: TRANG VƯƠNG TRỞ VỀ NƯỚC,

MUỐN ĐI  HƯƠNG TÍCH


1225. Lão tăng từ tạ về chùa,
Vua với Thừa tướng lại lo việc triều.
Bao nhiêu quân sĩ đi theo,
Doanh[84] kia, vệ nọ đã đều đến đông.
Thoắt thôi ngự giá về cung,
1230. Giữa đường mới biết tin trong Kinh kỳ.
Rằng con Phò mã tiếm vì,
Vua mới tức thì chỉnh sắp quan quân.
Quan quân đồng sức đồng lòng.
Tuốt gươm, nạp súng đùng đùng uy linh.
1235. Giặc Hà khi ấy bỏ thành,
Trốn về Mâu quốc, một mình nước xa.
Đức Trang chính ngự nước nhà,
Yến diên mở tiệc xướng ca đãi đồng.
Nhà yên, nước trị đã xong,
1240. Nhớ ơn Tiên nữ, tấm lòng cảm thay.
Bàn rằng xây tháp, xây đài,
Để vua vọng bái hôm mai báo đền.
Hoàng hậu nghe nói tâu lên:
“Nguyện lòng ta muốn đi lên đến chùa.
1245. Ngày xưa bán lộ tái hồi[85],
Ngày nay ta phải đến nơi mới đành.”
Phán rằng: “Trẫm cũng lòng thành,
Muốn cho đến chốn tạ tình Tiên nga.”
Lệnh truyền xa giá bày ra,
1250. Lại lên Hương Tích đến tòa Tiên đô.

ĐOẠN THỨ 26: TRANG VƯƠNG LẠI ĐI HƯƠNG SƠN,

CẢ NHÀ NHẬN RA CÔNG CHÚA


Này sự Chúa Phật về chùa,
Cảm ơn thần tướng hộ phò vua cha.
Mới bày quý vật tiên gia,
Rau vàng, măng ngọc để mà tạ ân.
1255. Tạ xong các vị tướng thần,
Bỗng nghe ngự giá dần dần đến nơi.
Phật liền phán bảo Thiện Tài,
Hóa làm thân người, đón rước phân minh.
Phật lại ngồi lên ràng rành,
1260. Tiên nữ hóa hình không mắt không tay.
Trần gian chân giả ai hay,
Dấu máu còn đầy ngọc thể chứa chan.
Đức vua đứng khấn ngoài màn:
“Giã ơn Tiên nữ muôn vàn tấm thương,
1265. Tuy rằng lễ vật tầm thường,
Xin cho soi xét tấc vuông lòng thành.”
Khấn thôi chẳng thấy động hình,
Chẳng thấy nói lại, biết tình làm sao
Trách cùng Hoàng hậu tiêu hao:
1270. “Trẫm là vua chúa ngôi cao làm vì,
Đường xa chẳng ngại đến đây,
Tiên nhân lẳng lặng trẫm nay phiền lòng.
Hay là hiềm trẫm đàn ông,
Hoàng hậu bước đến gần trông thế nào?”
1275. Hoàng hậu mới bước chân vào,
Nhác trông chín thực má đào Chúa Ba.
Khóc lên một tiếng, ngã ra,
Thanh, Âm hai Chúa đến mà ôm lên.
Vội vàng vua hỏi sự duyên,
1280. Tính ra, Hoàng hậu tâu liền rằng vầy:
“Thực là Chúa Ba chẳng sai!
Thảo nào ngày trước thấy tay tôi ngờ.”
Vua rằng: “Đem giết ngày xưa,
Hổ tha lên núi bấy giờ, còn đâu?”
1285. Vua ngờ mới đến tận nơi,
Quả nhiên là Chúa, chẳng sai chút nào.
Vỗ con, nước mắt tuôn trào,
Hỏi rằng: “Đã thác mà sao lại còn?
Bơ vơ đã chín năm tròn,
 1290. Làm sao sống được thì con nói cùng!”
Chúa Ba mới kể thủy chung[86],
Rằng : “Con dốc lòng niệm Phật quy y
Cho nên Thượng đế hộ trì,
Phán thần Địa kỳ hóa lốt hổ tinh.
1295. Đem vào đến giữa rừng xanh,
Gặp sứ Diêm đình rước xuống Âm ty.
Cứu cho tù ngục một khi,
Sứ lại đưa về, con lại tái sinh.
Đức Như Lai thấy tu hành,
1300. Dẫn cho con đến tụng kinh chùa này.
Chân tu được chín năm chầy,
Chư Thánh tôn rày: Phật Chúa chùa Hương.
Thấy cha phải bệnh phi thường[87],
Hóa làm Hòa thượng, tìm đường cứu cha.
1305. Chẳng ngờ lại gặp yêu ma,
Con lại phải hóa làm Hòa thượng ngay.
Nhờ trên đức Phật Như Lai,
Sai tám tướng trời, phá động rước ra.
Nhân vì liều mạnh cứu cha,
1310. Khoét hai con mắt, cắt hoà hai tay.
Cho nên lẫn khuất[88] làm vầy,
Thấy cha đến rày, nào có biết đâu.”
Đức vua nghe nói thảm sầu,
Ước phép gì mầu cho đủ mắt tay.
1315. Tâu rằng: “Lời ước khó thay,
Nhưng người có bụng trời rày cũng tin.
Như cha muốn được con toàn,
Thì cha khấn nguyện hối quá[89] từ đây.
Dốc niềm tu đức, Trời hay,
1320. Thì con ắt được mắt, tay lại toàn”.
Đức vua mừng vội khấn liền,
Phật Bà lại hóa tự nhiên tức thời.
Hai tay, hai mắt vẹn người,
Hai thân, hai chị, đều vui vẻ lòng.
1325. Ấy là phép Phật lạ lùng,
Giả làm chước ấy để phòng cứu cha.
Kinh Lăng Nghiêm, truyện Phật Bà,
Thiên biến vạn hóa, thực là linh thay.
Cho nên chùa tạo tượng Ngài.
1330. Làm ra nghìn mắt, nghìn tay bởi vầy.
Nghìn tay nghìn mắt thiêng thay,
Sắc Không Không Sắc, ai hay mà dò.
Thấy cha báng đạo, đốt chùa,
Phải làm thế ấy, để cho hết ngờ.

ĐOẠN 27: TRANG VƯƠNG HỐI NGỘ QUY THIỀN,

PHẬT PHÁP LINH THÔNG HÓA ĐỘ QUỶ TINH

1335. Đức vua đã được ơn nhờ,
Tu nhân từ ấy, lòng lo với lòng.
Chúa Ba lại tấu Cửu trùng:
“Dạy về lấy chồng hay để ở đây?”
Vua rằng: “Đừng nói làm vầy,
1340. Con có tu rày mới cứu được cha!”
Lại truyền tả hữu gần xa,
Ai cũng niệm đức Thích Ca trên đời.
Trẫm nay ơn Bụt, ơn Trời,
Trẫm ở chốn này, ai về mặc ai.
1345. Truyền đòi Thừa tướng nhường ngôi,
Các quan khóc tạ một thôi trở về.
Đức vua cùng bà Chính phi,
Với hai bà Chúa, trụ trì am tăng.
Phât Bà phán Thiện Tài rằng:
1350. “Làm cỗ chay để kính dâng thường ngày.”
Hóa ra lâu các, điện đài,
Hai thân, hai chị yên nơi tu hành.
Bốn người đều một bụng thành,
Đức vua càng lại đinh ninh bội phần.
1355. Hồi tâm, hồi được quỷ thần,
Bao nhiêu nghiệp chướng nợ nần rửa thanh.
Lúc ấy, hai đứa yêu tinh,
Phật Tổ bắt được gia hình nặng thay.
Phật Bà trông thấy thương vay,
1360. Lại lên xin đức Như Lai lĩnh về.
Cũng dung[90] cho ở gần kề,
Dạy theo đạo Phật, quy y tháng ngày.
Pháp Ngài, kể nhiệm mầu thay,
Dỗ được người ác đến loài quỷ tinh.

ĐOẠN 28: NGỌC HOÀNG SẮC PHONG NGÔI PHẬT,

CẢ NHÀ NHẬP VÀO GIÒNG TIÊN


1365. Xảy nghe có sắc Thiên đình,
Kim Tinh vâng mệnh phụng hành ban đi.
Khen rằng: “Đại từ, đại bi,
Cứu khổ, cứu nạn, đức dày ơn xa.
Trần gian thiện ác chính tà,
1370. Lắng tai, liếc mắt thoắt đà thấu hay.
Nam mô linh cảm thiêng thay,
Liên hoa bảo tọa, chính vị Thiền lâm.”
Sắc phong là Quan Thế Âm,
Phổ Đà Nham, cả bể Nam mình Ngài.

Thượng đế sắc phong:

Đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát,

tứ dữ liên hoa bảo tọa, nhất phó vĩnh tác Nam Hải Phổ Đà Nham Đạo tràng chi chủ.[91]

1375. Chúa Thanh, Chúa Âm hai người,
Khi gặp yêu quái, chẳng rời lòng trinh.
Lại hay mộ đạo tu hành,
Cho nên Trời chứng lòng thành phong cho:
Diệu Thanh phong là Văn Thù,
1380. Diệu Âm cũng được phong cho Phổ Hiền.
Thoát trần nhơ, được cõi Tiên,
Đại Thiện Bồ tát được liền cả đôi.
Thanh sư, Bạch tượng hai yêu,
Cho ngồi lên đó dạy theo tính lành.
1385. Văn Thù cưỡi con sư xanh,
Phổ hiền tượng trắng, rành rành sắc ban.

Thượng đế sắc phong:

Diệu Thanh vi Đại Thiện Văn Thù Bồ tát, tứ dữ Thanh sư, xuất nhập kị tọa;

Diệu Âm vi Đại Thiện Phổ Hiền Bồ tát, tứ dữ Bạch tượng, xuất nhập kị tọa, vĩnh tác Thanh Lương sơn Đạo tràng chi chủ.[92]

Vua Trang là Đô tiên quan,
Thiện Thắng Bồ tát được nhàn tâm thân.
Hoàng hậu là Đô phu nhân,
1390. Khuyến Thiện Bồ tát muôn phần phúc chung.
Thiện Tài, Long Nữ có lòng,
Trời sắc Kim Đồng, Ngọc Nữ phong cho.
Một nhà vinh hiển thơm tho,
Thiên trường địa cửu phụng thờ lửa hương.
1395. Khắp ngoài bốn bể bốn phương,
Đâu đâu là cũng cúng dường kính tin.
Sở nguyền cầu ắt như nguyền,
Cảm ứng liền liền, đội đức Chí Tôn.
Dẫu cho nước cạn đá mòn,
1400. Hương Sơn Nam Hải vẫn còn dấu thiêng.

ĐOẠN 29: CA TỤNG CÔNG ĐỨC, KHUYÊN RĂN NGƯỜI ĐỜI

Phật Bà, Ngài vốn tự nhiên,
Hóa thân biết mấy mươi nghìn ức du.
Nguyên là Bồ tát thuở xưa,
Hiện làm Công chúa độ cho xa gần.
1405. Trên thì Hiếu báo song thân,
Dưới thì Nhân cứu cõi trần, cõi ma.
Có thân ngồi núi Phổ Đà,
Thân lên trên Phật, thân qua dưới đời[93].
Thần thông nghìn mắt nghìn tay,
1410. Phổ môn hiện để độ loài ngu mông[94].
Vẫn là Sắc, vẫn là Không,
Hóa thân chớp mắt đàn ông, đàn bà.
Bảo đài sen chín thức hoa[95].
Gió Nhân mưa Pháp khắp hòa chúng sinh.
1415. Trên trời dưới đất xoay quanh,
Bao nhiêu khổ nạn, tầm thanh hộ trì[96].
Cho nên Phật hiệu làm vầy:
‘Nghe tiếng người khấn, ứng ngay cứu liền’[97]
Chỉn vì ngu tục chẳng tin,
1420. Tin mà thành ít[98] thì duyên phúc nào.
Ai hay tin kính trông vào,
Chữ Nhân,  chữ Hiếu chẳng nao tấm lòng
Dẫu khi có chút ngại ngùng,
Khấn cầu Ngài đã ứng trong khấn cầu.
1425. Trăm năm dẫu đến mai sau,
Có người chứng quả, chẳng lo não phiền
Dẫu cho lên Phật, lên Tiên,
Xiết bao là phúc, là duyên muôn đời.
Nôm na xin diễn tích Ngài.
1430. Cho người ít chữ nhớ lời kính tin.

 

 

Quảng Minh -  Hoàng Thanh Tuyên

Ngày 7 tháng 1 năm 2015


[1] Còn trì: còn chầy, còn chậm.

[2] Tử tức: con cháu.

[3] Đàn tràng chẩn tế được thiết lập theo hình thức Mạn-đà-la, bao gồm nội đàn (hình tròn) là Kim cương giới mạn-đà-la và ngoại đàn (hình vuông) là Thai tạng giới mạn-đà-la.

[4] Tạ quá: xin lỗi.

[5] Trai tiếu齋醮: Sư làm trai đàn cầu cúng.

[6] Thứu lĩnh鷲嶺: Thứu Sơn鷲山, tức núi Linh Thứu.

[7] Thi Thiện 施善.

[8] Hà Sơn 霞山.

[9] Sớ: một tờ điều trần dâng lên bậc bề trên; trong Phật giáo Việt nam gọi là sớ hay sớ đầu, có tính cách như một lời phát nguyện dâng lên Tam bảo. Điệp: bản văn có tinh cách làm sáng tỏ vấn đề để người xử dụng được dễ dàng trong việc đi lại hay thi hành nhiệm vụ.

[10] No ngày = đủ ngày.

[11] Thai dựng = có mang.

[12] Khi vua Nghiêu già yếu, Thuấn được Nghiêu nhường ngôi vị quân chủ của liên minh các bộ lạc. Ông đặt thủ đô của liên minh tại Bồ Phản 蒲阪 (Sơn Tây hiện nay). Từ đó, ông thường được gọi là Đại Thuấn 大舜 hay Ngu Thuấn虞舜. Việc Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ.

[13] Theo truyền thuyết, vua Vũ là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lich sử Trung Quốc, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Ông được nhớ tới nhiều nhất với tư cách là người đã có công phát triển kỹ thuật trị thủy chinh phục các sông ngòi Trung Quốc. Vua Thuấn rất ấn tượng trước những công việc kỹ thuật và nỗ lực của Vũ và đã đưa ông lên ngôi chứ không phải con trai mình là Thương Quân. Vũ được cho là lúc đầu từ chối ngôi vua, nhưng do quá nổi tiếng với các thủ lĩnh địa phương nên ông đã đồng ý để trở thành vua ở tuổi 53. Ông dựng đô ở An Ấp  安邑 (di tích của nó nay thuộc huyện Hạ ở phía nam tỉnh Sơn Tây), trở thành người sáng lập nhà Hạ, truyền thống coi là triều đại đầu tiên của Trung Quốc

[14] Thường nga嫦娥: Hằng nga姮娥, tức chị Hằng, là một nhân vật thần thoại trong truyền thuyết của người Trung Quốc và một số nền văn minh chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa, nữ thần của Mặt trăng.

[15] Tàn: cái tán che, tàn lọng.

[16] Hạ thọ: mừng sống lâu.

[17] Triền già廛迦 hay chiền già: chùa chiền (triền), già lam. Dân gian tại vùng của chùa Đót Sơn, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, có câu: “Đã đi làm phúc đừng cười/ Của đi làm phúc muôn đời thọ khang/ Đã đi làm vãi triền già/ Nào ai sỉ báng thì ta được nhiều.”

[18] Nhất nhật tu nhân一日修仁: một ngày tu lòng nhân.

[19] Vân vi云爲: đầu đuôi mọi lẽ, đầu đuôi sự tình.

[20] Cần quyền勤拳: khẩn thiết chân thành.

[21] Minh đồ冥途: con đường mê ám, tối tăm, chỉ cho địa ngục.

[22] Kim lâu: lầu vàng, chỉ điện vua.

[23] Thân親: Cha mẹ, như song thân雙親.

[24] Ô đồ污徒: đồ ô uế, nhớp nhúa.

[25] Tự biên寺邊: bên chùa.

[26] Mảng tin = nghe tin.

[27] Thác từ託辭: thoái thác, từ chối.

[28] Trù phòng廚房: nhà bếp.

[29] Già lam 伽藍: âm dịch là Tăng già lam ma 僧伽藍摩, gọi tắt là Tăng già lam; ý dịch là Tăng viên僧園, Chúng viên 眾園, Tăng viện 僧院), là nơi thanh tịnh, vắng vẻ phù hợp cho chư tăng tập trung tu hành.

[30] Hoàng thiên: là Hoàng thiên Thượng đế 皇天上帝 hay Hạo thiên Thượng đế 昊天上帝một trong các vị thần của Đạo Giáo. Hậu thổ 后土: là đia thần, thuộc về Tứ ngự trong hệ Tam Thanh, có chức năng về quyền tạo ra muôn vật, làm nên vẻ đẹp của núi sông. Các thần linh thuộc hạ của Hậu thổ gọi là các Thổ hoàng. Có 36 Thổ hoàng cai quản 36 tầng đất trong Cửu lũy (mỗi lũy có 4 tầng).

[31] Thanh y sứ: sứ giả áo xanh.

[32] Eo óc: rên la.

[33] Sùng trọng 崇重: sựng chín.

[34] Tổ 祖 là ông cố. Khảo 考 là ông nội. Quân là vua. Thân là cha mẹ.

[35] Kiếm thụ: rừng kiếm. Đao sơn: núi dao.

[36] Bất nghì = bất nghĩa.

[37] Chiết kiều 折橋: chặt cầu.

[38] Đầu hà 投河: ném xuống sông.

[39] Bàn vả sắt: cái mâm bằng sắt để vả miệng.

[40] Bạt thiệt 拔舌: kéo lưỡi.

[41] Cọp, chó sói, chim ưng, chó nuôi.

[42] Khoảnh và cơn đều chỉ khoảng thời gian, lúc, khi. Độc là độc ác. Ương là tai hại.

[43] Giới thần = Hộ giới thần戒神: các vị thiên thần bảo vệ người giữ giới.

[44] Phủ việt 斧鉞: Cây búa lớn.

[45] Chùy đồng 錐銅: Cái dùi đồng.

[46] Giang cầm = gông cùm. Giang là mắc vào cổ. Cầm là cầm chân.

[47] Giã ơn = cám ơn.

[48] Kiên: vững chắc, không dao động.

[49] Chân ngất =  chất ngất: cao chót vót, có nhiều lớp, nhiều tầng.

[50] Tam phủ: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ ; hay Mẫu thượng thiên, Mẫu thượng ngàn, Mẫu thoải.

[51] Thiên: ngàn. Vàn = vạn: 10 ngàn.

[52] Động nguyên洞源: hang động và nguồn suối. Hải nhạc海嶽: biển cà và núi non. Linh quan là thần tiên linh thiêng.

[53] Người đất Lạc bang ở châu Duyện.

[54] Kiếp nhân劫人: kẻ cướp.

[55] Lý ngư鯉魚: cá chép.

[56] Châu dạ minh = dạ minh châu夜明珠: trân châu có thể phát sáng vào ban đêm.

[57] Thiền lâm禪林: tên gọi khác của Thiền viện 禪院, Thiền tự 禪寺, Tùng lâm 叢林; là đạo tràng chuyên tu tập Thiền pháp, là nơi học đồ, đồng đạo ở khắp nơi tập trung về, cùng nhau khích lệ, tinh tiến học đạo

[58] Nỡ hoài: không thèm nhớ, không muốn bao dung. Nỡ là làm việc gì trái với đạo lý thông thường. Hoài懷: nhớ, bao dung.

[59] Nam Tào南曹: tức Nam Đẩu Tinh Quân 南斗星君, là vị thiên thần rất quan trọng trong Đạo giáo, chưởng quản chùm sao Nam Đẩu, ở phương Nam, trông coi về thọ mạng ngắn dài của nhân loại.

[60] Ôn hoàng 瘟㾮 = ôn dịch瘟疫. Ôn, là dịch, bệnh truyền nhiễm. Hoàng, là bệnh ung thư gan.

[61] Nhả咀: Hán Việt đọc là trớ (nhấm, nhai, thưởng thức). Nôm đọc là thở hay nhả. Nhả trong từ nhả nhớt, chỉ thái độ cười cợt thái quá. Có bản là giở tiệc.

[62] Dở dang: chưa hoàn thành.

[63] Hoàn: viên thuốc.

[64] Điều: pha trộn.

[65] Cây đàn hương檀香 (đàn thơm) còn gọi là trầm bạch.

[66] Thần Du Dịch: Cửu thiên Du Dịch sứ九天游奕使.

[67] Phó付: giao phó, trao cho.

[68] Tra tay: ra tay, cử động bàn tay.

[69] Hổ quan虎關: cửa cọp, tên một điểm trên bàn tay theo sách tướng.

[70] Đồ塗: bôi, xoa.

[71] Tay mắt bên phải chữa bên phải mới công hiệu.

[72] Băng chừng: Hán Việt Băng trừng冰澄, là chất lỏng đông đặc. Ca dao có câu: Sao Hôm chờ đợi sao Mai/ Trách lòng san vượt thương ai băng chừng. San vượt là vượt núi; băng chừng là đống băng.

[73] Chính sắc正色: vẻ mặt nghiêm trang.

[74] Tiên箋: giấy viết thư.

[75] Chữ căn根mà đọc là côn cho có vần. Tạm dịch: Ta chính Tây phương một Thế Tôn/ Riêng đến cứu ngươi diệt trừ căn/ Từ nay chính đạo không tà sắc/ Chớ để linh chân nhiễm tục trần.

[76] Giặc pha = giặc giã. Pha 坡: nghiêng, dốc.

[77] Mâu quốc牟國: một nước chư hầu thời Chu.

[78] Thái tuế太歲: tức Thái Tuế tinh quân 太歲星君, tên gọi của vị thần trong Đạo Giáo Trung Quốc. Có 60 vị thần Thái Tuế tinh quân trong 60 năm, và vị thần phụ trách mỗi năm, quản lý toàn bộ việc phước họa của con người, gọi là Đương niên Thái Tuế (Thái tuế năm nay).

[79] Tùy: đi theo, tháp tùng.

[80] Thị hùng恃雄: cậy sức mạnh mà lấn át người khác. Đoạn trường tân thanh: “Bước vào vừa ráp thị hùng ra tay.”

[81] Động trung: trong động.

[82] Hợp hoan tản hồi 合歡散回: Hợp vui, tan về.

[83] Kim Cương bát bộ = Bát bộ Kim Cương 八部金剛: tám vị thần tướng Hộ pháp trong Phật giáo Đại thừa, trong đó có Phật giáo Việt Nam. Tám vị Kim Cương là: Thanh Trừ Tai Kim Cương,  Tích Độc Thần Kim Cương, Hoàng Tuỳ Cầu Kim Cương, Bạch Tĩnh Thủy Kim Cương, Xích Thanh Hoả Kim Cương, Định Trừ Tai Kim Cương, Tử Hiền Kim Cương, Đại Thần Lực Kim Cương.

 

[84] Doanh營: trại quân.

[85] Bán lộ tái hồi: nửa đường quay về.

[86] Thủy chung: đầu đuôi.

[87] Bệnh phi thường: bệnh chẳng bình thường, tức bệnh hiểm nghèo.

[88] Lẫn khuất: không còn minh mẫn.

[89] Hối quá悔過: chừa bỏ lỗi lầm.

[90] Dung = thu nạp.

[91] Thượng đế sắc phong: Đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát, ban tặng toà báu hoa sen, trao phó vĩnh viễn làm chủ Đạo tràng núi Phổ Đà, biển Nam Hải.

[92] Thượng đế sắc phong: Diệu Thanh là Đại Thiện Văn Thù Bồ tát, ban tặng con Thanh Sư để cưỡi ngồi ra vào; Diệu Âm là Đại Thiện Phổ Hiền Bồ tát, ban tặng con Bạch tượng để cưỡi ngồi ra vào; (cả hai vị) vĩnh viễn làm chủ đạo tràng núi Thanh Lương.

[93] Thân ngồi núi Phổ Đà, là Báo thân. Thân lên trên Phật, là Pháp thân. Thân qua dưới đời, là Hóa thân.

[94] Ngu mông愚蒙: ngu tối mê muội.

[95] Chỉ đài sen chín phẩm nở hoa của những người niệm Phật.

[96] Tầm thanh hộ trì: nghe âm thanh kêu khổ mà đến bảo vệ, nắm giữ (bằng ngàn mắt, ngàn tay).

[97] Quan Thế Âm tầm thanh cứu khổ.

[98] Tin mà lòng thành ít ỏi.


 



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.