- Lời Người Dịch
- Tóm Tắt
- Phần I: Ba-la-di (Pārājika-dharmā)
- Phần Ii: Tăng-già-bà-thi-sa (Saṃghāvaśeṣa Dharmā)
- Phần Iii: Bất Định Pháp (Aniyata Dharmā)
- Phần Iv: Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề (Niḥsargika-pāyantika Dharmā)
- Phần V: Giới Ba-dật-đề (Pāyantika Dharmā)
- Phần Vi: Ba-dật-đề-đề-xá-ni (Pratideśanīya Dharmā)
- Phần Vii: Chúng Học Pháp (Śaikṣa Dharmā)
- Phần Viii: Diệt Tránh Pháp (Adhikaraṇ-śamatha Dharmā)
- Phần Ix: Bát Kính Pháp (S. Guradharmā [1]; P. Aṭṭha Garudhammā Chỉ Áp Dụng Cho Tỳ-kheo-ni)
******
Tụ thứ ba của Giới Bổn Tỳ-kheo là Bất Định Pháp (S. aniyata; P. aniyatā) tụ này không có trong Giới Bổn Tỳ-kheo-ni. Bất Định Pháp được định nghĩa như vầy: “Vì bản chất của tội chưa được xác định, nên tụ này của Giới Bổn được gọi là Bất Định Pháp, tức là “sẽ được xác định.” [1] Charles S. Prebish nói: “Các tội trong tụ này được xem là những tội chưa xác định.” [2] Aniyata dharmā được dịch sanh tiếng Hoa là pu ting fa (Bất Định Pháp) [3] nghĩa là không rõ ràng hay chưa xác định. Hai giới Bất Định này chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo, điều này làm cho chúng ta phải ngạc nhiên và nhận thấy mức độ tin cậy đối với phụ nữ để xác chứng về một vị Tỳ-kheo phạm một trong hai giới Bất Định. Bất Định Pháp được trình bày như dưới đây:
Người dịch tạm mặc ước hai giới Bất Định của Tỳ-kheo như sau: thứ nhất là trật tự của giới, thứ hai là nội dung của giới [4].
1. Cấm ngồi với phụ nữ chỗ kín, chỗ che khuất, thích hợp cho quan hệ tình dục.
2. Cấm ngồi với người nữ chỗ trống trải hoặc chỗ che khuất, không thích hợp với quan hệ tình dục.
Tôi bàn về hai giới này của Tỳ-kheo có lẽ là không thích hợp lắm. Tuy nhiên, chúng cũng cho chúng ta thấy quan điểm Phật giáo đối với phụ nữ. Như Prebish chỉ ra, “Hai tội trong phần Bất Định Pháp phản ảnh một mức nào đó về lòng tin tưởng đối với nữ cư sĩ Phật tử làm cho chúng ta phải ngạc nhiên.” [5] Nếu một vị Tỳ-kheo ngồi chung với phụ nữ chỗ kín thích hợp có khả năng liên hệ đến tình dục hoặc ngồi ở chỗ trống trải không thích hợp để sinh lòng tham dục, thì vị Tỳ-kheo ấy có thể phạm một trong những tội trong các tụ Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa hoặc Ba-dật-đề tuỳ theo lời khai của nữ cư sĩ. [6] Điều đáng chú ý ở đây là lời nói của phụ nữ được đánh giá cao như vậy, và thật là lạ lùng khi vị trí của phụ nữ vào thời đó rất thấp mà giới luật lại quy định như vậy. Các hình phạt cho hai tội của Bất Định Pháp này giành cho Tỳ-kheo lại đặt niềm tin vào nữ giới, mà lại không áp dụng cho chư Ni.
Bà Hornor nói: “Hai giới Bất Định này cho chúng ta thấy sự tôn trọng và lòng tin tưởng đối với phụ nữ vào thời đó. Họ không bị khinh bỉ, gạt qua một bên như đồ ngồi lê đôi mách hoặc như người ba hoa vô tích sự, mà lời nói của họ được xem là quan trọng.” [7]
--------------------------------------------------------------------------------
[1] C. S. Upasak, Dictionary of Early Buddhist Monastic Terms (Varanasi: Bharati Prakashan, 1975), p. 14.
[2] Charles S. Prebish, Buddhist Monastic Discipline: The Sanskrit Prāṭimokṣa Sūtras of the Mahāsāṃghikas and Mūlasarvāstivādins (New York: The Pennsylvania State University Press, 1975), p. 13.
[3] Đại Chánh Tạng, Tập XII, pp. 600-601.
[4] Sách đã dẫn, pp. 600-601, 1017.
[5] Prebish, p. 13.
[6] Đại Chánh Tạng, Tập XII, p. 1017.
[7] Sacred Buddhist Books. Tập X, p. xxxiii.
Đọc Thêm: Tứ Phần Luật, Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng