CHƯƠNG 4
HỌC HẠNH MỘT NGƯỜI TU
Hai mươi hai năm trước đến chùa lễ Phật, nhìn dáng thầy uy nghiêm, con cúi chào mà khơi phát xuất trần hạnh nguyện.
Hai năm sau vào chùa xuất gia, trông bóng thầy cao cả, con sụp lạy mà hưng phấn Bồ đề đạo tâm.
Cõi đạo vô biên, chân con bé bỏng, thầy dìu con bước, sáng chiều sớm tối với Tỳ ni Nhật Dụng.
Cửa pháp vô cùng, tâm con cạn cợt, thầy dạy con tu, phút giây tháng ngày trong Tịnh Độ pháp môn.
Bưng bát cơm, nâng tách nước, tam thiên oai nghi thầy chăm chút nhắc nhở.
Lau bàn thờ, tưới vườn hoa, bát vạn tế hạnh thầy tỉ mỉ khuyên răn.
Khi hoang mang, khi nản lòng nhớ lấy gương thầy mà vươn mình bước thẳng.
Lúc vấp ngã, lúc buông xuôi, ôn lại lời người mà ngước mặt đi lên.
Lời người đó, ấu thời xuất gia, tâm chưa vọng động dễ huân tập, để mai này "thiệu long thánh chủng"
Gương thầy đây, tuổi thơ vào chùa, chân còn chập chững, đã cảm nhận từ bây giờ "phát tục siêu phương"
Cơm đạm bạc nhờ thế mới nuôi bền giống Phật
Áo thô sơ do vậy mà che ấm thân phàm.
Vĩnh HảoThử thách ban đầu đến với tôi là
học thuộc lòng bài kinh Lăng Nghiêm. Nhìn cuốn kinh thầy giao với
bài kinh Lăng Nghiêm, và các bài sám tụng ban sáng mà tôi thấy ớn người. Tôi vẫn
biết mình có cái
vinh dự là được
xuất gia trước khi học thuộc bài, vì theo
truyền thống thì không ai được vậy, mà họ còn phải làm
công quả, sống
đời sống tập sự
xuất gia cả hàng năm trời trước khi được
cạo tóc. Tôi
biết mình có
may mắn, nên cái khó của việc học kinh chẳng làm tôi nản lòng, mà coi đó như là một
thử thách đầu tiên. Thế là sau đó đêm ngày tôi học, từng đoạn, từng đoạn rồi sau ráp lại và
cuối cùng việc gì đến nó cũng đến; đó là ngày tôi được kêu lên hỏi bài. Thầy tôi chọn một số đoạn trong kinh và nói tôi bắt theo đó mà đọc tiếp. Tôi cũng còn nhớ là khi đó tôi đọc cũng suôn sẻ, nên thầy rất
hài lòng.
Công việc học kinh cũng chưa hết, và tôi bắt đầu được
yêu cầu học tiếp
bài kinh A Di Đà với các
nghi thức liên hệ trong thời
công phu chiều. Một
tuần sau, tôi lên trả bài cho thầy để thầy biết là tôi đã học thuộc tất cả các
bài kinh trong một
thời gian khá kỷ lục. Thầy tôi lại cũng tỏ lòng
vui vẻ, vì thấy đứa
đệ tử mới này cũng không đến nỗi ngu đần.
Thầy tôi khoảng mươi năm trước còn rất trẻ, tôi còn nhớ khi vào chùa lần đầu tiên tôi gặp thầy đang loay hoay làm cái gì đó trong
chánh điện. Không biết đó là thầy
trụ trì, tôi bước
đến gần và hỏi: "bạch thầy, con muốn được xin gặp thầy Như Điển", thầy đáp: "thầy đây". Sau đó tôi mới
giới thiệu với thầy rằng tôi là
phật tử từ Đan Mạch đang muốn đến
lễ Phật.
Là một người được đi du học ở xứ Nhật,
thành tựu và sau có
nhân duyên sang Đức và làm việc
phật sự tại đây, thầy tôi đã
chứng tỏ là một người có khả năng và
đạo hạnh. Cái khả năng mà thầy tôi được
thừa hưởng từ nơi những ngôi chùa, tổ đình ở
Việt Nam cho đến khoảng
thời gian sống ở Nhật đã làm thầy tôi
trở thành một
con người có chí và ham học. Do đó thầy đã không mấy
dễ dãi trong việc
học hành đối với các
đệ tử, những mong về sau các
thế hệ này mới có thể đóng góp cho đạo một cách
tích cực.
Tôi và các chú lớp lớn
lúc ấy đã một phen bở vía vì cái khó của thầy. Lớp trước tôi có hai chú, đó là chú Thiện Phước và chú Thiện Thành và hai chú này
xuất gia trước tôi độ một năm.
Thời gian đầu vào chùa, tôi như con nai hiền; ai sai
đâu dạ nấy, ai bảo gì làm nấy nhưng rồi ra ngoài những giờ làm việc ấy, tôi rúc vào phòng và tìm chỗ
yên tịnh để xem kinh sách. Cuộc sống gần như lập dị đến nỗi nhiều người phải
than phiền. Có lẽ đó là cá tính riêng của mỗi người, và đôi khi tôi thấy mình cũng kỳ kỳ khi nghe người ta nói quá nhiều và muốn sửa, nhưng được một hai ngày rồi đâu cũng hoàn đó.
Khoảng hai
tuần sau ngày tôi
xuất gia, một buổi
thế phát khác cũng được tổ chức tại chùa, vậy là có thêm một chú nữa xuất gia!
Pháp danh chú là
Thiện Tín,
con người xương xương nhưng có một
nghị lực vô cùng mạnh mẽ. Ngày chú
xuất gia cũng có tôi dự lễ, ngày trước ấy có một
buổi họp của các thầy cô trong chi bộ, nên
buổi lễ hôm đó có đông quý thầy cô
tham dự. Chú cũng có hai cô em gái
tham dự trong
buổi lễ, lúc đọc lời
phát nguyện cũng như lúc cắt tóc chú, tôi
để ý thấy hai cô em gái chú khóc, má chú không đi dự lễ này vì bà ta không được vui nhưng phải
miễn cưỡng bằng lòng
cho phép chú
xuất gia.
Là con trai một trong
gia đình và được mẹ gửi ra nước ngoài từ lúc nhỏ, bà rất trông mong và
hy vọng vào tương lai tươi sáng của con mình. Có bà mẹ nào mà không mong con được
công thành danh toại với
cấp bằng kỹ sư,
tiến sĩ nọ kia. Chú cũng học giỏi và đang trên đường thành tài, cùng
thời gian ấy
bảo lãnh được mẹ và hai cô em gái sang. Không ngờ tin vui với những
thành tích học tập mà con
bà đạt được thì
nghe tin con trai đi
xuất gia. Cả một bầu trời
hy vọng tan rã và bà ta buồn bã suốt ngày, cố tìm mọi cách ngăn trở.
Thời gian nghe đâu cũng kéo dài gần một năm trời ở trong chùa làm việc
công quả, mà vẫn chưa được phép mẹ cho đi
xuất gia. Có lúc mẹ chú lên chùa khóc lóc, xỉu lên xỉu xuống khi nói chuyện với thầy và
yêu cầu thầy đừng
dụ dỗ chú đi tu.
Tuy nhiên có lẽ khi thấy tôi đến sau mà được
xuất gia trước nên chú cũng
háo hức, tìm
phương cách khác để mong
thành tựu ý nguyện của mình. Thế là buộc lòng chú phải về nhà
thuyết phục và làm
áp lực với mẹ: "nếu mẹ cho con đi
xuất gia, thì con còn ở gần mẹ, còn không con sẽ đi thật xa sang một nước nào đó ở tận bên kia chân trời". Nghe người con nói vậy, bà có lẽ biết rằng con mình giờ đây đã vượt khỏi tầm tay của mình, nên
miễn cưỡng gật đầu mà hai hàng lệ chảy tuôn. Vậy là
ý chí và
nghị lực của chú
rốt cuộc cũng được tương thưởng bằng lễ
thế phát xuất gia sau đó.
Kể từ khi có thêm bạn mới và đông các
đệ tử, thầy tôi lập
chương trình và giảng dạy
chúng tôi kỹ hơn. Về
giới luật có các phần về
oai nghi tế hạnh của một người
xuất gia, về tu niệm có pháp
niệm tâm nương theo các
bài kệ trong Tỳ ni
Nhật dụng, về kinh thầy giảng về
ý nghĩa các
bài kinh quan trọng và
phổ thông hàng ngày, về
chữ nghĩa thầy dạy Hán văn của các
bản kinh thường tụng và về phần
nghi thức, thầy dạy cách đánh chuông mõ và âm điệu nhịp
tán tụng. Thầy chăm chút nhắc nhở và
dạy bảo từng ly cho
chúng tôi như người cha, người mẹ hiền
thương yêu chăm sóc cho những đứa con đầu lòng.
Chúng tôi đã là những người con biết lễ, vì trong
thời gian đầu ấy
vâng lời thầy một cách kính cẩn; các thời khóa tụng
công phu buổi sáng, buổi chiều không khi nào
bỏ sót.
Khi còn nhỏ tôi
thường có cảm tình và
quý mến các thầy không những vì các
câu chuyện đạo
hấp dẫn, mà cũng bởi một phần trong các phong cách
của quý thầy. Ở nơi
cử chỉ của một người tu, tôi thấy có gì đó nhẹ nhàng và
thánh thiện, chứ không như những hành động thông thường của
anh chị em tôi, hoặc ở nơi các bạn cùng trang lứa. Tôi không hiểu rằng đó là do cái nhìn
chủ quan của tôi khi thấy họ mặc chiếc áo
nhà tu đạm màu, hay do từ một
nguyên nhân nào khác. Thế nhưng giờ đây khi bước vào
nếp sống ấy tôi mới thật sự hiểu được cái chất liệu gì
tiềm ẩn bên trong chốn
thiền môn, để có thể tái tạo ra những người
tu hành hiền lành, có
đời sống đạo đức với những
ý nghĩ và hành động nhu hòa khác tục. Dù cho những
phật tử thuần thành hay đến chùa
lễ phật,
tụng kinh hoặc
thường hay tham dự những buổi thọ
bát quan trai, thì cũng chẳng ai có thể hiểu được hoặc cảm nhận đúng như là khi người ta
chính thức xuất gia. Có lẽ cái tâm tha thiết khi
cầu đạo xuất gia, chiếc áo đang mặc và lòng tín thành
thanh tịnh của một người tu đối với vị thầy, mới có thể đem lại những cảm nhận ngây ngất trong
thời gian đầu
học đạo.
Nếu người đời
quan niệm rằng những kỷ niệm đẹp nhất là trong thời
thơ ấu của lứa tuổi học trò, hoặc trong
thời gian ban đầu của tình yêu thì với một người tu,
thời gian mới bước vào chùa làm
chú tiểu,
tu học sẽ là
thời gian của những kỷ niệm đẹp nhất
trong đời. Giờ đây đã mười năm qua rồi, tôi không màng những kỷ niệm thời
thơ ấu nhưng với kỷ niệm của thời ở chùa,
thời gian học đạo ban đầu với thầy vẫn còn
man mác và bàng bạc trong tôi. Bắt đầu vào chùa tu là bắt đầu bước vào một ngưỡng cửa mới, một khúc quanh ngã rẽ của
cuộc đời. Ờ đó tôi được thầy
dạy bảo từng ly từng tí. Làm một người tu không phải là
đơn giản vì làm một người tu là làm một người mẫu mực để cho thế nhân nhìn vào mà noi theo. Thầy tôi có lần còn nói: "người tu là người làm dâu cho trăm họ". Thế đấy, có
đơn giản và dễ dàng đâu! Một người con gái khi
lập gia đình thì phải về làm dâu nhà chồng. Sớm hôm tận tụy trong các công việc trong ngoài, công
dung ngôn hạnh đều thông để có thể làm
vui lòng gia đình chồng. Thế mà người tu nào cũng phải
trải qua sự
chịu đựng, sự
than phiền trách cứ nào đâu của một người, một
gia đình đâu
mà cả một
nhân thế.
Thế nên việc đào luyện một người tu ngay từ trong
trứng nước là cả một
công trình của một vị thầy. Thầy tôi và ngôi chùa
Viên Giác tựa như người chủ và một lò rèn, mà ở đó
chúng tôi như những đồ vật mẫu được đưa vào để rèn lại hầu có ích và hữu dụng hơn cho đời. Từ cách nói văng tục, những
ngôn từ thô lỗ ngoài đời, tôi được chỉnh và sửa lại với những
từ ngữ nhẹ nhàng, có
ý vị đạo để làm cho những người
buồn phiền được vui, những người vui được
thấm nhuần lý đạo. Rồi
cách đi, cách ngồi
thô lỗ ngoài đời, tôi cũng được thầy dạy lại, chỉ bày
cặn kẽ về những
oai nghi tế hạnh khi đi, khi ngồi của một người tu để người ta nhìn vào sanh lòng
mát mẻ dễ chịu vì những sự đoan chánh,
trang nghiêm của một kẻ sống đời khác tục. Những điều này cũng chẳng dễ đâu vì tôi cứ hay bi quên hoài là khi đi hai tay đánh lắc lư thật mạnh, khi quên thì chạy xốc áo xốc quần, khi ngồi thì gác chân lên bàn, lên ghế hoặc ngồi dãng cả hai chân. Toàn là những
cử chỉ thô tháo dị hợm của những người thiếu học. Những lúc thầy tôi gặp vậy, thầy
thường hay cười và ký vào đầu tôi một cái để nhắc nhở, tôi giật mình chợt hiểu và
trở về cái
tế hạnh mà tôi vừa mới học. Thật là ngu, vì sao khi bị ăn ký thì tôi mới hiểu và
ý thức được điều ấy nhỉ!
Không phải chỉ nơi những
lời nói và các hành động bên ngoài mới cần
sửa đổi mà ngay cả các
quan niệm,
nhận thức, lối hiểu của tôi theo
phàm lệ cũng được chùi rửa và
đánh bóng lại. Tôi không được nghĩ nhiều dù là những chuyện đúng ở ngoài đời, huống hồ là
nghĩ tưởng đến những chuyện bậy. Cái đúng, phải hợp theo thế nhân dần được
loại bỏ, trong tôi
cần phải được thay thế bằng những giây phút
chánh niệm, có ích cho sự
tu tập bằng cách làm khởi phát những
tâm niệm lành, có lợi cho mình và
chúng sinh.
Lúc ấy tôi thấy sao đâu đâu? cái gì cũng có
chúng sinh ở trong đó và tại sao phải vậy? khi mà chính mình cũng chưa có được những
lợi ích như vậy. Thầy tôi phải rộng
nghĩa giải bày, khi gần khi xa cái
lý nhân duyên và quan hệ
sâu xa giữa mình và
chúng sanh thì đầu óc ngu tối của tôi khi ấy mới được
rõ ràng.
Những thao tác hàng ngày của tôi lúc bấy giờ bắt đầu được đi kèm với
chánh niệm qua các
bài kệ ngắn trong Tỳ ni
Nhật dụng. Ngay từ tờ mờ sáng
thức dậy, lúc còn nằm trên giường tôi đã được dạy phải niệm thầm
bài kệ: "Ngủ nghỉ mới dậy, cầu cho
chúng sinh,
trí tuệ tỏa biết, khắp đoái mười phương", nghĩa là: khi tôi mới
thức dậy, tôi
cầu nguyện cho tất cả
chúng sinh có được
trí tuệ sáng suốt chiếu rộng khắp cả
mười phương.
Trước khi bước chân xuống giường cũng phải niệm một
bài kệ khác: Giờ đây buổi sáng giờ Dần
cho đến lúc tối,
cầu nguyện cho hết thảy các loài
chúng sanh đều tránh gây tạo các
nghiệp ác, khi bước chân xuống dưới giường và vo tình chạm phải những
chúng sinh nào để nó phải chết, tôi xin
cầu nguyện cho nó được
vãng sinh vào
cảnh giới an vui của tinh độ, án...
Khi bước vào nhà tắm, lấy nước để rửa mặt cũng có lời niệm: "Lấy nước rửa mặt, cầu cho
chúng sinh, được
pháp môn sạch, hàng không
dơ bẩn, bàn lam toa ha", nghĩa là: khi tôi lấy nước rửa mặt, tôi
cầu nguyện cho tất cả
chúng sinh chọn được một
pháp môn tu
thanh tịnh, không bị những ô uế
dơ bẩn, An...
Khi lấy nước rửa tay cũng khởi niệm: "Lấy nước rửa tay, cầu cho
chúng sinh, được tay
trong sạch, vâng giữ pháp Phật, án chú ca ra da toa ha", nghĩa là : khi tôi lấy nước rửa tay, tôi
cầu nguyện cho tất cả
chúng sinh, đều có được những bàn tay
trong sạch để
duy trì và làm sáng rạng
giáo lý của
đức Phật, Án...
Đến khi đi vệ sinh, khởi niệm: "Khi đi đại tiện, cầu cho
chúng sinh, bỏ
tham sân si, dứt hết các tội, Án ngận lỗ đà da tóa ha", nghĩa là: khi tôi đi vệ sinh, tôi
cầu nguyện cho tất cả
chúng sinh,
loại bỏ được hết tất cả
tham sân si và dứt trừ hết tất cả mọi
tội lỗi, Án...
Tiếp theo là một dọc dài các
bài kệ để niệm mỗi khi đi, đứng, ngồi, nằm, khi nói chuyện, khi ăn, khi uống v.v..
cho đến khi tối bước chân lên giường để ngủ:
"Đến khi ngủ nghỉ, cầu cho
chúng sinh: Đến khi tôi
nằm ngủ này đây, tôi
cầu nguyện cho tất cả
chúng sinh có được một
trạng thái tâm
an ổn và cõi lòng không bị náo loạn.
Tất cả có 45
bài kệ niệm để giữ tâm
chánh định và
phát khởi lòng bi mẫn đối với mọi loài
chúng sanh.
Tâm niệm của một người tu dù là mới bước vào cửa đạo, cũng được
uốn nắn và
thuần thục với những niệm lành và
ý nghĩ cao thượng như vậy. Những
tâm niệm vọng động,
ích kỷ nhỏ nhen
cần phải bỏ lại tất cả cho
cuộc đời.
Hèn chi mà tôi ngay từ lúc nhỏ đã
cảm thấy nơi những người tu có những
cử chỉ và hành động nhẹ nhàng
đoan trang khác với những người thường. Tôi chợt
nhận ra nơi người tu là có cả một quá trình luyện tập và làm chủ tâm ý mỗi khi làm việc, hoặc nói năng. Những điều ấy làm sao có được nơi một người
thế tục dù rằng ở nơi họ có đủ bằng cao chức trọng. Nếu ở nơi người
thế gian họ trang điểm chính họ bằng những vật trang sức hay ở những mảnh
cấp bằng thì nơi người tu, trang sức
đẹp đẽ nhất chính là
chánh niệm và những
giới hạnh trong cuộc sống. Chính những điều này mới là trang sức
trang nghiêm và làm đẹp người tu.
Đức Phật đã dạytrong
kinh Pháp cú:
Hương các loại hoa thơm,
Không ngược bay chiều gió.
Nhưng hương người đức hạnh,
Ngược gió khắp tung bay.
Thì ra có phải đâu là người tu khi chỉ
đơn giản mặc vào chiếc áo lam, áo nâu hoặc khi đầu được cạo nhẵn, mà bề sâu bên trong họ còn phải
trải qua cả một quá trình luyện tập về tâm và làm chủ lấy tâm. Chính những điều này lại là điều mà thế nhân
lơ là và bỏ mặc. Họ thường sống với các
hình tướng hư ảo bên ngoài,
căn cứ vào đó để
nhận định và
đánh giá về người. Không những chỉ riêng họ
đối đãi với nhau như
vậy mà sau này, họ còn áp đặt và đưa những
quan niệm và
đánh giá như vậy vào một người tu nữa.
Sống trong
xã hội ngày nay, tôi càng thừa hiểu và thấm thía hơn tự bao giờ về những điều mà
con người ta thường tự
ước định. Một người tốt hoặc
lịch sự phải là người có
học thức, có áo quần thật đẹp với những bộ áo vét thẳng, thắt nơ cà ra vát. Vượt ra ngoài những ước lệ đó là ta sẽ bị nhìn với đôi mắt
nghi ngờ và dò xét. Thế nhưng có phải
mỉa mai thay khi cũng có rất nhiều người rất có
học thức, có áo quần thật đẹp nhưng lại là những người
xấu xa và
thô tục nhất. Nếu chiếc áo không làm nên ông thầy tu, thì làm sao những cái
hình tướng giả tạo bên ngoài ấy lại có thể tạo nên những
con người tốt và
lịch sự được, như
con người ta thường tưởng và
ước định. Thế nhưng đó lại gần như là cái nhìn và
quy luật chung của
con người trên
thế gian này. Chính cái tạm bợ và
giả dối ấy mà đức Dalai Lama cũng phải than rằng: "Con người ta thường sống
không thật với chính họ. Họ cười nhưng không phải cười,
vui vẻ,
niềm nở và
lịch sự nhưng không phải
vui vẻ niềm nở và
lịch sự. Phải chi
con người biết sống thật thì
thế giới này sẽ ít hiểm họa, và
nhân loại sẽ được
an bình hơn".
Tôi
công nhận rằng người tu ngày nay cũng ít nhiều bị
lệ thuộc vào cái
ước định chung của
nhân thế, để
dần dần thay đổi bản sắc của chính mình, dù rằng mình là những người có
trách nhiệm soi sáng những
sai lầm trên cho người
thế tục. Một cái danh từ
Đại đức hay
Thượng tọa khi được kèm vào câu thưa gửi cũng làm cho người tu vui thêm lên, một chiếc y vàng có thêm những đường kim tuyến cũng làm người tu
cảm thấy sang hơn và
hãnh diện hơn thường lệ, tất cả những thứ đó nếu khởi đầu không
xuất phát từ những người chung quanh thì là ai. Hình như
con người có cái
tâm lý thích được tôn vinh và
sùng bái; nhưng tiếc thay đó lại là bề trái của cái ngã, cái mà người tu
cần phải thường xuyên ý thức và đoạn trừ.
Có những người đời thường đem
so sánh những
chú tiểu hoặc các thầy trẻ tuổi với hàng con cháu của họ:
"Chào chú, chào thầy! sau khi chuyện trò một lúc, à! thầy cũng bằng tuổi con, cháu của tôi, đứa út tôi năm nay cũng bằng tuổi thầy đó, thầy đi tu bao lâu rồi?
Tội nghiệp thầy quá,
tu hành cực khổ, trẻ mà đã đi tu rồi! Thầy tôi thường kể những chuyện như vậy cho
chúng tôi nghe, cũng có
lắm khi đáp lại cho các
phật tử ấy rằng: cho dù bác có 70, 80 tuổi đi nữa thì với đạo bác vẫn còn là con số không, còn khờ khạo và ngây thơ
vô cùng. Tôi lấy làm
thú vị với những
giải thích của thầy tôi lắm, vì ít ra tôi cũng có cái để hơn họ, hơn những người đã từng
đi trước tôi cả một hai
thế hệ. Những điều thầy tôi nói là
sự thật vì họ tuy lớn tuổi và
quá khứ dù có những
kinh nghiệm thành tích phi thường trong cuộc sống, họ vẫn là những chú bé nhồi bông của người thợ
vô minh. Để rồi trong cuộc sống từ cách
suy nghĩ, đi đứng,
ăn uống nói năng đều căn cứ và chấp vào thân này, cái tôi này,
vợ con tôi, nhà cửa và
tài sản của tôi này. Có một phút giây nào chăng trong
cuộc đời, họ
giác tỉnh theo lời dạy của
đức Phật về cái
vô nghĩa của
thân mạng họ,
vợ con và
tài sản họ một mai này khi mất đi:
Con tôi,
tài sản tôi, Người ngu sanh ưu não;
Tự ta, ta không có, Con đâu,
tài sản đâu?
Mấy khi họ
ý thức được điều này về cái giả tạm,
vô thường của thân xác,
gia đình và
cuộc đời để bớt
bám víu vào, bớt
chấp thủ vào hầu
dần dần cởi bỏ để đi tìm một lối thoát cao cả, và
lợi ích hơn cho
tha nhân.
Thế mà họ còn nhìn người
tu hành với những cặp mắt
tội nghiệp và
thương xót, đối với họ người
tu hành là người
đáng tội và đáng thương. Tôi đã từng nghe nhiều người tỏ lòng thương không đúng chỗ lên những người
tu hành. Tôi không hiểu có bao giờ họ đặt lại
vấn đề đó nơi ho, để
tội nghiệp và
thương xót cho chính họ hay không.
Dĩ nhiên là khó thấy quá, ngay cả một số người tu
chúng tôi cũng khó thấy nếu họ không được trang bị
niềm tin chính kiến và sự
hiểu biết trí tuệ. Có lần nọ một thầy ngồi nói chuyện với tôi: "Thầy sống làm sao
cố gắng sống để cho người
phật tử họ thương mình."Tôi không bằng lòng lắm với câu nói trên và
đáp lại rằng: "Dĩ nhiên là đừng làm cho họ ghét người tu; nhưng nếu để làm cho họ thương theo kiểu
tội nghiệp người tu, thì con không cần. Con không cần họ thương mình theo kiểu
tội nghiệp, vì mình có làm gì đâu để họ
tội nghiệp, họ phải
tội nghiệp cho chính họ mới đúng. Họ sống trong cái giây nhợ chằng chịt buộc ràng của
đời sống gia đình, họ sống trong cái tôi của
bản thân, cái tôi giùm cho vợ, con, nhà cửa và
tài sản và cho trăm nghìn cái vật
linh tinh khác mà không một chút
ý thức.
Toàn bộ năng lực của thân người họ đều dùng vào
mục đích kiếm tiền để
bảo vệ cho cái tôi của họ, của người thân và tài vật của họ dù rằng những thứ ấy họ phải
miễn cưỡng buông xuôi, một khi nhắm mắt từ giã cõi đời với hai bàn tay trắng. Họ sống mà không một chút
ý thức về
sự thật và
chân lý chắc thật như vậy, thì họ mới đáng là người cho
chúng ta tội nghiệp chứ". Nghe tôi
trả lời như vậy, thầy ấy
im lặng.
Thời gian không lâu sau, thầy ấy cởi áo
hoàn tục.
Những tháng ngày đầu trong chùa
trôi qua êm ả và nhanh như một
giấc mộng. Tôi bắt đầu thấy mình
chín chắn hơn trước, qua những
lễ nghi phép tắc của người tu mà tôi phải giữ.
Tuy nhiên tôi thấy mình
cô đơn trong môi trường mới. Thầy tôi là một khoảng cách xa mà tôi chẳng với tới được và thầy chỉ có nói chuyện gì
cần thiết với tôi khi có chuyện mà thôi,
ngoài ra các
huynh đệ khác họ dường như chỉ
thân mật và chơi chung
với nhau. Tôi như một thằng lính mới vừa vào quân đội, lại chẳng mấy cởi mở nên rồi chỉ biết sống với
thế giới riêng tư của mình. Chùa
Viên Giác lúc ấy còn ở nơi cũ, một kho hàng
cũ mèm đã được thầy tôi cùng các
phật tử sửa sang và tân trang
trở lại và đặt tên cho nó là: "chùa
Viên Giác." Thế nên cái chùa mà tôi ở đó tuy
thanh tịnh và rất
hiền hòa nhưng những tháng năm đầu quả là những tháng năm
chật vật,
mùa đông, mùa hè
chúng tôi đều phải ngủ dưới hầm với những không khí khi thì lạnh như băng giá, khi thì
ẩm thấp chật chội. Trong cái khó khăn và không khí ấy tôi đã dần dà
trưởng thành.
Làm
chú tiểu ở chùa không sướng đâu, vì tôi phải đảm xuyến hết mọi công việc trên
chánh điện; những công việc mà tôi thường chẳng thích mấy. Cũng may có chú
Thiện Tín phụ giúp tôi mọi chuyện, nên tôi cũng đỡ khổ ở những
việc làm này. Tôi không có khéo tay trong
mọi việc nên việc gì thầy giao tôi thường làm sai hoặc hư hỏng, do đó khi được giao những công
việc làm thì tôi thường
cảm thấy rất sợ. Thầy tôi
lúc ấy dữ lắm chứ chẳng hiền như hàng ngày đâu? Nếu tôi làm sai hoặc hư hỏng thì việc ăn đòn chắc không thể nào tránh. Thế nên chuyện gì tôi làm không xong là
tìm cách bán cái qua cho chú
Thiện Tín. Ở trong chùa chú có tâm tốt không ai bằng, nên tôi cũng
cảm thấy gần gũi và được
an ủi phần nào những lúc
cô đơn. Có lẽ cái tính hư đốn của mình trong các công việc, nên tôi rất sợ
việc làm nhất là những
việc làm có
tính cách trưng bày,
sắp đặt trên
chánh điện. Những lúc tôi bị sai chưng bông, đổ nước, lau chùi, rửa ly tách, chà bình và các cây đèn trên chính điện là những lúc tôi
cảm thấy khổ sở nhất.
Lúc ấy tôi hay
than phiền và càm ràm trong lòng rằng: "Sao mà cứ làm hoài!
Bàn thờ gì mà nhiều bình bông quá! Đèn cầy sao lại đốt hoài?
Bàn thờ đâu thấy bụi mà sao cứ bắt lau mãi! Thì ra khi vào chùa rồi, tôi mới thấy được những công việc mà khi ở ngoài tôi không thể thấy.
Cũng may ngoài những giờ phút làm việc không mấy vui ấy là
thời gian tôi được học, xem kinh sách và
bàn tán chuyện đạo với mấy chú bạn. Kể từ khi tôi
xuất gia tôi chẳng mấy khi chơi với người ngoài nữa mà chỉ
quanh quẩn trong chùa và đôi khi chuyện trò với mấy chú. Cái
thế giới bên ngoài dường như đã xa khỏi tôi rồi và tôi chẳng mấy
để ý tới nữa. Một phần thầy tôi cũng không muốn cho tôi
tiếp xúc nhiều với các
phật tử, nhất là với các
phật tử nữ vì sợ tôi yếu lòng sẽ dễ
bị sa ngã.
Thế nên
vâng lời thầy và tự trong tôi
lúc ấy cũng chẳng ham
kết bạn, nên tôi vẫn cứ thường
tìm cách xa lánh
mọi người. Đôi khi những
buổi lễ tổ chức ở chùa,
phật tử đến đông và người người
vui vẻ, tôi vẫn thấy mình
cách biệt và
xa lạ với họ. Họ và tôi khác nhau nhiều quá, họ và tôi là hai
thế giới riêng biệt. Dù rằng cũng có một vài
phật tử thấy tôi là lính mới, nên cũng tò mò tìm đến gạ chuyện và
tìm hiểu, nhưng tôi lại đáp cho qua chuyện và
tìm cách lẩn tránh.
Sáu tháng
trôi qua, một hôm tôi biết được tin có
giới đàn, một buổi
truyền giới Tỳ kheo,
Tỳ kheo ni và
Sa di. Tôi biết được và tỏ vẻ
háo hức lắm. Đi tu mà cứ mặc những chiếc áo màu lam hoài không có một chút gì màu vàng thì thật là buồn tẻ. Các chú
Sa di, các thầy khi làm lễ đều có
đắp y vàng nên trông thật đẹp, thật oai và ai cũng
để ý, tôi thầm nghĩ như vậy, còn mình thì chỉ có màu lam thật là
xấu hổ. Mang những
ý niệm đó trong lòng, tôi đi gặp thầy để xin được
thọ giới Sa di.
Sau khi mặc chiếc áo lam nhật bình cho ngay ngắn, tôi vào phòng thầy
đảnh lễ thưa về
ý định cầu xin thọ giới. Thầy bèn đáp lời mà không cần
suy nghĩ: "chú còn sớm lắm chưa thể
thọ giới được đâu! " Tôi
cảm thấy thất vọng và buồn
tiu nghỉu ra mặt. Thầy nhìn như cũng có chút
cảm thông, nhưng rồi tấn kịch tôi đóng với
vẻ mặt thiểu não cũng không làm thầy thay
đổi ý định. Thầy nói phụ thêm: "vài tháng nữa có
giới đàn khác thầy sẽ cho chú thọ giới". Tôi biết ý - thầy đã
quyết định nên
đảnh lễ mà lui ra.
Sau
giới đàn lần ấy chú Thiện Phước, người
sư huynh trước tôi, - mang về chiếc y còn mới tinh, chiếc
y Sa di có một lằn sọc ở giữa,
tượng trưng cho cái
phước điền ít ỏi của người mới vào đạo. Còn tôi với chiếc áo lam như người
cư sĩ đã chẳng có một chút sọc,
tượng trưng cho chút ít
phước điền nào. Tôi cũng chưa có chữ Thích ở đầu
pháp danh nữa nên tuy được
cạo tóc rồi, tôi vẫn chưa được xem là một người tu đúng nghĩa. Về
giới luật tôi cũng chẳng có giới nào mới để giữ, ngoại trừ
năm giới thông thường của người
tại gia. Thế nên thấy
thiên hạ thọ giới mà tôi lại không được thọ, nên cũng rất lấy làm ấm a ấm ức trong lòng: Cùng đợt
xuất gia khi trước với chú Thiện thước còn có chú Thiện Thành, nhưng do vì không ở chùa và về nhà ở quá lâu nên trong đợt
giới đàn này, mặc dù được thầy thương và chú cũng xin phép nhiều lần nhưng vẫn không được. Thầy tôi khó tính và
gắt gao như vậy nên có lẽ điều này đã làm chú buồn không ít, một
thời gian không lâu sau, chú ra ngoài đời.
Thế là tôi đã mất đi người
bạn đạo đầu tiên trong
cuộc đời, dù rằng
thời gian quen và
hiểu biết chú chẳng là bao, nhưng tôi
cảm thấy như mình mất đi một cái gì thân thương và gần gũi nhất
trong đời. Tôi thật sự
cảm thấy rất buồn trong nhiều ngày. Đôi khi tôi
cảm thấy ngỡ ngàng và
hối tiếc làm sao, dù rằng việc chú ra đi đã chẳng phải là lỗi của tôi. Người tu ở hải ngoại này đã quá ít ỏi rồi, thế mà tôi lại mất đi, mất thêm một người bạn nữa. Chú
Thiện Tín cũng
cảm thấy buồn không ít qua việc này và rồi qua đó
tự nhiên hai
chúng tôi trong
tình trạng không mấy thân lắm bỗng
cảm thấy gần lại. Còn ai nữa đâu,
chúng tôi chỉ còn có ba người mà.
Nổi buồn của thầy tôi vì mất đi một người
đệ tử, đã không làm thầy bớt
nghiêm khắc hơn thường lệ. Việc học của
chúng tôi vẫn được thầy kèm sát nút. Các buổi học kinh,
giới luật và
nghi thức được thầy tận tình
chỉ bảo, trong nhóm
đệ tử có lẽ tôi là người
cứng cổ nhất trong
vấn đề học
nghi lễ. Không hiểu cái
thành kiến và ác cám về các
nghi lễ tán tụng đến với tôi
hồi nào, lúc học, không thể nào tôi
cảm thấy vui được. Học những bài
tán tụng và các cách đánh khánh, đánh chuông tôi
cảm thấy như mình đang phải chịu một hình phạt nào đó. Thầy
tinh ý nhận thấy và biết tôi
không vui nên những lần học sau đó, tôi nghỉ học và thầy cũng chẳng la. Còn các thời khóa khác như thời Lăng Nghiêm buổi sáng, thì có mấy khi mà
trốn thoát được với thầy. Hôm nào tôi
cảm thấy mệt và hơi làm biếng không dậy để tụng là có chuyện ngay. Thường thì ngay sau buổi
công phu sáng, là tới có điện báo mời vô phòng thầy làm việc. Những
lúc ấy thầy không đánh hoặc mắng tôi khi thầy có đủ quyền của một vị thầy mà thầy chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo: "Sao hôm nay chú không
tụng kinh, chú
biết mình là người tu, thọ nhận của
đàn na tín thí rất nhiều mà một việc
tụng kinh buổi sáng mình cũng không làm được thì làm sao đáp trả ân ấy. Mình không khéo tu những
kiếp sau, mình phải chịu
quả báo mang lông đội sừng".
Lời thầy nói
nhỏ nhẹ nhưng tôi
cảm thấy thấm thía, đối với tôi nó còn có
giá trị hơn những ngọn roi hoặc lời
la mắng. Từ đó về sau tôi không dám bỏ buổi
công phu tụng kinh buổi sáng nữa.
Một năm sau ngày
xuất gia, tôi và chú Thiên Tín được thầy cho đi
thọ giới Sa di. Đó là ngày tôi
cảm thấy vui sướng nhiều nhất, vì ngày ấy là ngày tôi đã
trông đợi từ sáu tháng trước. Nếu để dòng đời
tự nhiên trôi thì
thời gian sáu tháng có đáng là bao, so với cuộc xoay vần đêm ngày của
vũ trụ; nhưng với tôi
thời gian lúc ấy quả thật là một
thời gian chịu đựng dài
thăm thẳm. Tôi biết rằng sau buổi
thọ giới này mình sẽ đổi khác, vì sự đổi khác đây không chỉ đổi khác là nơi tôi có thêm những
giới luật mới để giữ, mà tôi còn có thêm một cái gì của người tu, cái màu vàng trên mình! Trước ngày
thọ giới khoảng một tháng là tôi đã được thầy nhắc đến việc
lễ lạy sám hối, để khi
thọ giới được thêm phần
công đức và
thanh tịnh. Do đó tôi và chú
Thiện Tín đã đến chùa
Pháp Hoa, nơi tổ chức
giới đàn để lo
phụ giúp vào việc tổ chức
giới đàn và cũng là để
lễ lạy sám hối.
Chúng tôi đã
trải qua hai
tuần lễ bái,
sám hối với thời khoá
lễ lạy vài trăm lạy mỗi ngày. Buổi
giới đàn hôm đó
kết thúc tết đẹp,
chúng tôi hai người ra về với những niềm
hân hoan trên gương mặt. Kể từ đó tôi đã được mang trên người chiếc y vàng đầu tiên trong
cuộc đời. Đó là chín năm về trước.
Được thọ thêm
giới luật là một
hình thức nâng cấp nào đó
trong đời sống
tu hành. Trong quân đội khi người lính được thăng lon tiến chức thì họ rất mừng, nhưng
trong đời sống
tu hành khi được thọ thêm giới và nâng cấp lẽ ra một người
tu chân chánh sẽ không nên mừng. Mừng và tự hãnh trong lòng với những chức vị mới trong cái tên gọi mới, là một
trạng thái của sự
si mê chấp ngã vào danh này và cái tôi này. Thế mà tôi vẫn thấy mình mừng và
sung sướng trong cái tên gọi mới và bộ
tăng y mới.
Quý thầy Trí Minh và
Thiện Huệ đôi khi còn nói chuyện tếu
với nhau về những cấp bậc so với ngoài đời
Sa di là thiếu úy, tân
Tỳ kheo là trung úy, cựu
Tỳ kheo là đại úy, tân
Thượng tọa là thiếu tá, cựu
Thượng tọa là trung tá, đại tá và hàng
Hòa thượng trở lên là hàng cấp tướng rồi. Tôi không biết khi người tu
giác ngộ rồi sẽ được phong cái chức tước nào đây.
Tuy nhiên với tôi thì ái chà? Tuy đã qua khỏi hàng binh nhất binh nhì và bước vào hàng thiếu úy rồi, nhưng để được thăng đến cấp tướng cũng phải đến bạc đầu.
Con đường phía trước còn xa xôi lắm.
Sau
buổi lễ được vài ngày, một hôm thầy gọi hai thúng tôi vào phòng để nói chuyện. Thầy hỏi han mọi điều kể cả việc
thọ giới mấy ngày trước đó, và tâm trạng của
chúng tôi ra sao.
Dĩ nhiên là
chúng tôi ai nấy cũng đều vui như tết,
hài lòng lắm với những gì mà mình đã thọ nhận. Được
thọ giới vẫn là
ước mơ từ lâu của bọn tôi kia mà (không biết chú
Thiện Tín có cùng tâm trạng mong sớm được
thọ giới như tôi không, nhưng tôi đành ghép đại vào chung với tâm trạng tôi cho có bạn), thế nên có lẽ thầy
tinh ý cũng sẽ
nhận ra điều này từ nơi gương mặt của tôi và chú
Thiện Tín. Một lát sau thầy nói rằng thầy sẽ cho
chúng tôi một tên mới gọi là
pháp tự, tên mới này có thể được thay thế tên
pháp danh dùng trước đó. Tên thầy cho tôi là
Hạnh Nguyện, còn chú
Thiện Tín là Hạnh Tấn. Khi thoạt nghe tên mới, tôi lấy làm bỡ ngỡ
vô cùng.
Hạnh Nguyện, Hạnh Tấn; tên Hạnh Tấn thì chắc là chú
Thiện Tín thích rồi vì tên ấy ra vẻ nam nhi, còn tên tôi sao là lạ vì
Hạnh Nguyện có vẻ giống tên con gái quá! Tôi phân vân lấy chính mình, không biết rằng có nên thay đổi tên cũ ra tên mới hay không, nhưng ngẫm lại thấy tên cũ là Tấn thì còn có vẻ là tên con gái hơn nữa vì cái "Lệ" đó, thế nên tôi đành
chấp nhận tên
Hạnh Nguyện như là chính của mình. Sao cái số tôi cứ hay mãi được đặt cho cái tên giống con gái! Một vài tháng sau ngày
thọ giới, tôi xin phép thầy được về Đan Mạch để
tiếp tục chương trình học của mình. Thầy tôi bằng lòng vì không muốn do việc đi tu mà tôi phải bỏ
dở dang việc học, và thế là tôi
ung dung xách gói về Đan Mạch. Tôi được phép tu và sống theo
lối tu và kiểu sống của mình mà không ngại phải
phiền lòng người khác và
nghịch ý thầy. Vốn thích
tu thiền và ghét những lễ cúng đám, chuộng màu
hình thức phô trương bên ngoài, tôi
dần dần chợt
nhận ra một khoảng cách nào đó giữa
lối tu của mình và thầy, giữa
quan niệm sống đạo của mình và những
sinh hoạt có
tính cách văn hóa của chùa. Qua cá tính khá kỳ cục của tôi trong cách
giao thiệp và đối xử với
mọi người, nên ai ai trong chùa cũng chẳng mến. Tôi thì lại luôn luôn
cố chấp với những
tính tình quen thuộc của mình, nên lại cũng chẳng ưa ai. Thế nên càng
thời gian về sau, tôi càng
cảm thấy lạt lẽo và
vô vị đối với chùa và những người ở đây.
Do đó được
trở về Đan Mạch để học cũng là được một dịp để tôi có thể tránh chùa và thầy.
Ở Âu châu không có cái lề người tu mặc áo đời đi học hoặc đi làm, nên theo
thông lệ ấy tôi làm bộ phớt tỉnh mang chiếc áo nhật bình dài
thườn thượt đến trường. Tụi bạn học cùng lớp ai ai cũng ngó chăm chăm trong
thời gian ban đầu, nhưng rồi sự việc gì cũng qua, tôi
trở thành quen thuộc giữa cách
ăn mặc khác thường của mình với người, và họ cũng chẳng xầm xì với cái mốt
ăn mặc lạ lùng của tôi nữa. Dẫu sao tôi đang tập sống cho chính mình, thay vì sống bị
lệ thuộc người nên dần trở nên chai mặt khi bị người đời nhìn vào và
bàn tán.
Là một người dốt học và cũng đã mấy năm rồi không cắp sách đến trường, do chuyện buôn bán giúp đỡ má tôi và
thời gian vượt biên sau này tại
Việt Nam, nên lần này tới phải học lại lớp 10. Khó khăn và
chật vật đã không phải là ít, vì tự
thâm tâm tôi cũng chẳng muốn học nữa, vì đi tu rồi mà còn phải học để làm gì, tôi tự
nghĩ thầm trong lòng như vậy. Tôi cho rằng cái học của đạo, học
nội điển thì dù học suốt cả
một đời cũng không xong, thì hơi đâu mà
phí phạm thời giờ với cái học rất đời ở nhà trường. Tôi chưa từng bao giờ sợ
học đạo, dù cái học này khó khăn và dài hạn đến đâu, nhưng cái học đời thì thật là quá chán.
Tuy nhiên thể theo ý thầy thì tôi cũng gắng mài ghế nhà trường thêm vài năm nữa
cho đến cuối trung học.
Cũng trong
thời gian về ở lại Đan Mạch, tôi ít nhất phải dời chỗ đôi ba lần, lúc thì tỉnh này lúc thì tỉnh nọ
cho đến sau một số lần, sự định cư của tôi mới có phần
yên ổn. Có phải
đâu đó cũng nói lên được cái số long đong lang bang của tôi
trong đời sống
xuất gia tu hành về sau này.
Tuy nhiên đi đến đâu tôi cũng gắng chọn cho mình một môi trường có không khí
tu hành.
Thiết lập bàn thờ trang nghiêm, tạo không khí
thanh tịnh để
tụng kinh,
ngồi thiền là những
tiêu chuẩn mực thước căn bản của tôi
trong đời sống vừa đi học vừa tu hàng ngày. Quanh tôi không có bậc thầy nào lớn để hướng dẫn, mà tôi đôi khi lại phải đóng vai thầy để hướng dẫn cho người.
Tại một tỉnh lỵ nhỏ bé, tôi được mời về và ở một ngôi
niệm Phật đường.
Hoan hỷ với tấm lòng sùng đạo của người
phật tử, tôi bèn nhận
lời mời với
tinh thần phấn khởi và vui
vô cùng. Tôi
dự định tập cho họ tu chung với, những thời khóa
tụng kinh buổi sớm chiều, nghe giảng từ các băng đĩa (tape), cùng
thảo luận các đề tài
Phật học với nhau. Khoảng tháng đầu, thấy cũng có vẻ được lắm nhưng rồi tháng thứ hai, ba sau này, người ta không còn muốn đến
niệm Phật đường để tu và
học đạo nữa; họ chỉ đến để
bàn tán chuyện làm ăn và nói các chuyện đời
với nhau. Tôi thật sự
buồn phiền về điều này,
cảm thấy chán nản
vô cùng với cái gọi là người
phật tử. Không lâu sau đó, tôi
xin lỗi họ phải ra đi và dời đến một thành phố khác.
Thành phố mới có tên là Aahus, thành phố lớn hàng thứ hai sau thủ đô Copenhagen, nơi đây có số lượng người
phật tử sống tập trung gần như đông nhất ở Đan Mạch.
Niệm Phật đường cũng được người
phật tử tại đây lập ra từ nhiều năm trước, nhưng khi dời đến thành phố này, tôi không còn muốn tìm đến và sống dưới mái
niệm Phật đường do
kinh nghiệm không
thiện cảm đã gặp phải trước đây.
Thà sống trong căn phòng của tôi với
đời sống riêng nhưng
thanh tịnh với chính mình, còn hơn sống một nơi
mang tiếng niệm Phật đường, nhưng lại là chỗ tụ hội của
vui đùa và chuyện
thế gian. Chốn đông người tôi đã từng không thích rồi, mà đông người với chuyện
ăn uống bàn tán cái được mất hơn thua càng làm tôi thấy khó chịu. Vì lẽ đó mà tuy sống gần cái gọi là
niệm Phật đường, tôi lại chẳng bao giờ đặt chân đến chốn này.
Sống riêng tư với cái
thế giới của mình, ít
giao thiệp với người là
lối sống tu hành của tôi giữa một
xã hội vật chất và đông người hưởng thụ. Có những
phật tử quen biết và có
tâm đạo đến chơi, tôi tiếp chuyện và hướng dẫn họ
tu tập; không có khách là
phật tử, tôi lập những thời khóa
tu tập cho riêng mình. Trong
thời gian này, tôi đã không ngừng
lễ bái sám hối các kinh, ngũ bách danh và
vạn Phật, nguyện cầu sao tâm tôi càng ngày càng hướng về sự
tu tập, và trở nên một vị tăng đúng nghĩa để
ích lợi cho đạo, cho
đời sau này.