- 1. Lời Nói Đầu
- 2. Nguồn Gốc Kinh Pháp Cú
- 3. Vô Thường Và Vô Ngã
- 4. Nhân Quả Và Nghiệp Báo
- 5. Luân Hồi
- 6. Tam Độc: Tham, Sân, Si
- 7. Ái Dục
- 8. Giới, Định, Tuệ
- 9. Người Ngu Và Người Trí
- 10. Tam Quy Và Ngũ Giới
- 11. Thập Thiện
- 12. Lục Độ Ba La Mật
- 13. Tứ Diệu Đế Và Bát Chánh Đạo
- 14. Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả
- 15. Mầu Áo Cà Sa
- 16. Hương Vị Giải Thoát
- 17. Nghệ Thuật Thuyết Pháp
- 18. Đạo Phật Là Đạo Yêu Đời
- 19. Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi
- 20. Tài Liệu Tham Khảo
TÌM HIỂU KINH PHÁP CÚ
(DHAMMAPADA)
Tâm Minh Ngô
Tằng Giao
Diệu Phương Xuất
Bản - 2006
MÀU ÁO CÀ SA
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia. Những đặc điểm chính của người xuất gia là trong sạch, hoàn toàn độc thân, tự ý sống nghèo nàn, khiêm tốn, đơn giản, phục vụ một cách vị tha, nhẫn nại, bi mẫn và thanh tao nhã nhặn. Ngoài việc học hỏi giáo lý, tu trì “Giới, Định, Tuệ” người xuất gia còn có nhiệm vụ trao truyền những tinh hoa Phật Pháp cho mọi người, tạo cho họ niềm tin đối với Phật Pháp.
Y vàng, hay áo cà sa là một sắc tướng tượng trưng hạnh từ khước, dứt bỏ, xuất gia. Nhuộm y màu vàng để cho bộ y hết đẹp, không còn giá trị vật chất. Sắc tướng bên ngoài của đời sống thiêng liêng đạo hạnh không có nghĩa lý gì nếu không có sự trong sạch bên trong.
Truyện tích kể rằng phần đông thiện tín ưng thuận dâng một bộ y quý giá đến Đại đức Đề Bà Đạt Đa thay vì dâng đến Đại đức Xá Lợi Phất là vị đại đệ tử của Đức Phật. Một vài thiện tín có tâm đạo, thấy Đề Bà Đạt Đa đắp y, ngỏ ý rằng thầy không xứng đáng được danh dự ấy. Nhân cơ hội, Đức Phật dạy rằng trong một tiền kiếp Đề Bà Đạt Đa làm thợ săn voi trong rừng. Hắn thấy voi thường quỳ xuống đảnh lễ mỗi khi một vị Phật Độc Giác đi ngang qua. Hắn bèn nghĩ ra mưu kế để săn voi. Hôm sau khi vị Phật cởi áo ra tắm bên bờ suối, hắn lấy trộm y vàng để nguỵ trang cho dễ giết voi. Số voi bị giết chết đi dần dần. Khi voi đầu đàn khám phá ra mưu kế gian manh đó voi bèn xông lên trước dùng vòi quật ngã thợ săn, định giết chết, nhưng thấy bộ y vàng trên người nên tha chết cho hắn. Đức Phật dạy rằng khi tâm chưa rời bỏ những điều tham dục, không tự kiềm chế được mình và thiếu thành thật thì không xứng đáng mặc áo nhà tu :
(Pháp Cú 9)
Nếu mà mặc áo cà
sa
Lòng còn ô uế, tâm
tà quẩn quanh
Chưa tự chế, thiếu
chân tình
Xứng đâu mà khoác
vào mình áo kia.
Nhận thấy rằng xa hoa vật chất là ảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật sự, tu sĩ tự nguyện lìa bỏ tất cả sự nghiệp trên đời để khoác trên mình chiếc y vàng và cố ghép mình vào nếp sống hoàn toàn trong sạch. Tuy nhiên, không phải sắc tướng bề ngoài mà là sự thanh lọc bên trong và đời sống gương mẫu làm cho con người trở nên trong sạch. Sự thay đổi từ trong ra ngoài chứ không phải bên ngoài mà thôi.
Một ông quan đại thần sau khi đánh dẹp loạn quân đắc thắng trở về được vua ban thưởng vàng bạc rất nhiều lại tặng thêm một cô vũ nữ tuyệt đẹp. Trong bảy ngày đêm ông hưởng các lạc thú vật chất, tiệc tùng tưng bừng. Cô vũ nữ giúp vui. Hôm sau cả đoàn keó nhau ra bờ sông tắm rửa. Tắm xong lên bờ bày tiệc rượu ca hát. Chiều trở về dinh tiệc vui lại tiếp tục. Cô vũ nữ trang phục lộng lẫy, trong lúc đang múa hát thời ngã lăn ra bất tỉnh, sùi bọt mép rồi chết luôn. Ông rất âu sầu, đến hầu Phật và được nghe Đức Phật giảng giáo pháp. Sau khi nghe xong ông đắc quả A La Hán và nhập diệt luôn, mặc dầu lúc ấy ông ăn mặc rất sang trọng. Các thầy Tỳ kheo bạch hỏi Đức Phật có nên gọi vị ấy là Sa môn không. Đức Phật dạy rằng không nên đánh giá con người bằng y phục “Đặc tính thánh không tùy thuộc ở hình dáng bề ngoài. Sự trong sạch đến từ bên trong, chính sự thanh tịnh bên trong là chính yếu”:
(Pháp Cú
142)
Người nào sống
thật trang nghiêm
Thân tâm an tịnh,
giữ gìn đường tu
Bao nhiêu dục vọng
diệt trừ
Không hề buông thả
hững hờ giác quan
Lại thêm giới hạnh
chu toàn
Sinh linh chẳng
hại, tính luôn ôn hòa
Dù cho ăn mặc xa
hoa
Vẫn là tu sĩ, là
Bà La Môn.
Đức Mục Kiền Liên dùng thần thông đem hai vợ chồng một một ông chưởng khố rất giàu có nhưng tính keo kiệt đến trước mặt Đức Phật. Khi nghe thuyết Pháp xong cả hai xin quy y. Nghe những vị Tăng sĩ khác tán dương phẩm hạnh của ngài Mục Kiền Liên, Đức Phật lưu ý rằng những vị tốt như Đức Mục Kiền Liên phải làm cho người khác đặt niềm tin nơi mình mà không hề gây tổn hại đến ai, đi trì bình khất thực mà không gây phiền phức cho ai:
(Pháp Cú 49)
Sa môn khất thực
trong làng
Ví như ong lượn
nhịp nhàng bên hoa
Kiếm tìm mật nhụy
hút ra
Xong rồi tung cánh
bay qua cuối vườn
Một tăng sĩ trụ trì có lòng ganh tỵ với hai vị khách vốn là đại đệ tử của Đức Phật từ xa đến viếng, vì hai vị này được chủ nhà kính mộ. Chủ nhà nổi nóng khiển trách thầy. Thầy lăng mạ chủ nhà và đem câu chuyện bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên thầy nên sám hối, không nên ích kỷ và có nhiều tham vọng, không nên chấp điều gì là “ta” và “của ta”. Ngài dạy thêm rằng “Người si mê thường hay tìm danh vọng mà họ không xứng đáng. Muốn địa vị cao trong Tăng chúng, quyền thế trong chùa chiền, danh vọng ngoài xã hội”:
(Pháp Cú 73)
Kẻ ngu thường muốn
hư danh
Ngồi trong Tăng
chúng muốn giành chỗ trên,
Trong Tăng viện
muốn uy quyền,
Muốn người cung
kính đến xin cúng dường.
(Pháp Cú 74)
Để cho kẻ tục,
người Tăng
Phục ta và phải
nghĩ rằng ta đây:
“Chính ta làm được
việc này!”
Hay: “Ta ra lệnh
đó đây thi hành!”
Kẻ ngu cuồng vọng
khoe mình,
Lòng tham, ngạo
mạn tăng nhanh với đời.
Vị Sa di kia xuất thân từ một gia đình khả kính, được thiện tín tới tấp dâng lễ vật cúng dường. Nhưng ông chẳng màng, từ chối tất cả, chấp nhận đời sống đơn độc và nghèo nàn ở chốn rừng sâu. Một ngày tươi sáng nọ vị Sa di thành đạt đạo quả A La Hán. Các vị Tỳ kheo hết lời tán dương phẩm hạnh gương mẫu của vị này. Nghe câu chuyện, Đức Phật mô tả hai con đường khác nhau, một dẫn đến lợi lộc và một đến Niết Bàn. Ngài dạy “Không nên thoả thích trong mùi danh bả lợi của thế gian mà phải trau dồi tâm dứt bỏ”:
(Pháp Cú
75)
Một đường danh lợi
thế gian
Một đường đưa tới
Niết Bàn cao xa
Tỳ Kheo đệ tử Phật
Đà
Nhủ lòng cho rõ để
mà bước chân,
Đừng nên tham đắm
lợi trần,
Đạo mầu giải thoát
chuyên tâm trau dồi!
Các vị xuất gia là các bậc mô phạm, thực thụ sống đời sống phù hợp với lời dạy của Đức Phật. Do đó, để chế ngự việc thèm thuồng vật thực, để tâm được nhẹ nhàng khoan khoái, tu sĩ phải sống đời sống giản dị và thanh đạm. Cuộc sống xa hoa sẽ biến con người trở nên nô lệ của tham vọng. Nên ở độc thân, vì tất cả năng lực nhờ đó mà được bảo tồn trọn vẹn để có thể dùng vào việc trau dồi tinh thần và đạo đức cho mình, cho người khác. Phải kiểm soát hành động lời nói và thu thúc sáu căn chặt chẽ. Như vậy, sự tinh tấn sẽ thúc đẩy người xuất gia khước từ những lạc thú trần gian và chấp nhận đời tu sĩ, đi lang thang, rày đây mai đó, không luyến ái một nơi ở nhất định nào, hoàn toàn tự do.
Một vị Tỳ kheo cất vật thực để sau này dùng. Đức Phật khuyên thầy không nên làm như vậy và giải thích thêm tác phong chân chính của một vị Tỳ kheo thuần thành:
(Pháp Cú
92)
Không màng tài sản
chứa đầy
Uống ăn chừng mực
qua ngày để tu
Thoát vòng đau
khổ, ưu tư
Thảnh thơi theo
cánh gió đưa Niết Bàn
Như chim bay giữa
không gian
Tìm chim, dấu vết
vô vàn khó thay.
Vì thiện tín đem vật thực dồi dào dâng đến một Đại đức nên có vài vị Tỳ kheo bàn tán rằng Đại đức đã dặn dò các thí chủ làm như vậy để tỏ ra mình có nhiều uy tín. Đức Phật dạy rằng chính tâm trong sạch bố thí của thiện tín tự nhiên phát sinh chứ không phải do Đại đức xúi giục, người không ô nhiễm không mất thì giờ để nói chuyện về “tứ vật dụng” là bốn món cần thiết cho đời sống Tỳ kheo. Ngài dạy “Người đã tận diệt được lòng ham muốn, không còn nghĩ tới cao lương mỹ vị, đã thành đạt giải thoát, không còn bị dục lạc kích thích, thì đường đi của họ thênh thang, tự do và thoải mái như đường của chim bay giữa không trung”:
(Pháp Cú
93)
Nhiễm ô, ham muốn
diệt ngay
Uống ăn chừng mực
qua ngày để tu
Thoát vòng đau
khổ, ưu tư
Thảnh thơi theo
cánh gió đưa Niết Bàn
Như chim bay giữa
không gian
Tìm chim, dấu vết
vô vàn khó thay.
Tỳ kheo đúng theo nghĩa là người đi xin. Các thầy chỉ lặng lẽ đứng trước cửa để người ta sớt thức ăn vào bát và chỉ sống với vật thực nào mà người thí chủ vui lòng đặt vào bát một cách hồn nhiên. Nhưng không phải chỉ vì lý do giản dị là đi xin kẻ khác mà người ấy là Tỳ kheo. Tỳ kheo phải là người đã chấp nhận toàn thể giới luật. có liên quan đến đời sống Tỳ kheo. Một vị Bà La Môn từ bỏ thế gian để sống đời đạo sĩ du phương khất thực. Một hôm ông gặp Đức Phật và thỉnh cầu Đức Phật gọi ông là Tỳ kheo vì ông cũng đi trì bình khất thực như những tu sĩ Phật Giáo. Đức Phật đáp rằng không phải chỉ đi khất thực mà trở thành Tỳ kheo:
(Pháp Cú 266)
Chỉ đi khất thực
từng nhà
Làm sao đủ gọi
được là Tỳ Kheo,
Người tu chân
chánh phải theo
Bao nhiêu giới
luật là điều tối cao
Gọi Tỳ Kheo xứng
làm sao,
Chỉ riêng khất
thực lẽ nào xứng danh.
Đức Phật còn nhấn mạnh thêm rằng người phẩm hạnh cao, vượt khỏi cả thiện lẫn ác, có trí tuệ thông suốt, mới đáng gọi là thầy tu. Vượt xong điều thiện là siêng năng làm các điều lành, làm điều lành đã quen, đã siêng, nên chẳng cần cố gắng, chẳng thấy khó nhọc chi, nên gọi là vượt xong điều thiện. Vượt xong điều ác là bỏ dứt được các điều bất thiện:
(Pháp Cú 267)
Bao nhiêu thiện,
ác vượt xong
Tu hành thanh
tịnh, tác phong cao vời
Sống đầy hiểu biết
ở đời
Xứng danh được gọi
là người Tỳ Kheo.
Nhân một nhóm tăng sĩ trong khi an cư kiết hạ tại một vùng đã âm mưu giả vờ tâng bốc nhau. Người này khoe người kia thành đạt quả vị này hay quả vị khác nhưng thật sự không có ai chứng đắc được gì hết. Họ làm như vậy để được thiện tín cúng dường dồi dào trong khi vùng đó đang bị đói khổ, thực phẩm khan hiếm. Đức Phật chê trách thái độ “tăng thượng mạn” đó. “Tăng thượng mạn” là sự khoe khoang của người tu hành, chưa chứng đắc quả vị mà tự nhận đã chứng đắc. “Tăng” là gia tăng thêm lên. “Thượng” là trên. “Mạn” là kiêu căng, tự cao, tự đại:
(Pháp Cú
308)
Hay phá giới,
chẳng tu hành
Thà nuốt sắt đỏ
vào mình nóng ran
Như cho lửa cháy
đốt thân
Còn hơn thọ lãnh
nhân dân cúng dường.
Vị tu sĩ nọ đang hành thiền trong một khu vườn chơi. Một kỹ nữ cũng có hẹn hò
với một người đàn ông trong khu vườn ấy, nhưng người này không đến. Chờ người
hẹn mãi mà không thấy, cô gặp nhà sư đang ngồi một mình. Thấy diện mạo tuấn tú
của vị tu sĩ cô mới sinh lòng quyến luyến và lại gần trêu ghẹo, quyến rũ. Nhà
sư bị kích động, vừa sợ hãi vừa cảm thấy toàn thân được một sự thoả thích lâng
lâng tràn ngập. Dùng thiên nhãn thấy vậy, Đức Phật xuất hiện trước mặt vị Tỳ
kheo và dạy rằng khi ngồi thiền thời nên chọn nơi rừng sâu vắng vẻ mới khỏi bị
sa ngã. Người đã dứt bỏ dục vọng, thích ở ẩn dật, nơi mà người trần tục không
thích ở:
(Pháp Cú
99)
Núi rừng tịnh lạc,
nên thơ
Nhưng người phàm
lại không ưa chốn này,
Riêng người giải
thoát khác thay
Tỏ ra thích ở nơi
đây vô cùng
Vì bao dục lạc dứt
xong.
Một vị Tăng sĩ nọ có thói quen, mỗi khi tranh luận với ai mà thấy đuối lý thời mời người ấy đến một nơi khác, vào một giờ hẹn trước, để tiếp tục thảo luận cho ra lẽ. Nhưng đến ngày hẹn, thầy lại tới chỗ hẹn trước giờ và tuyên bố là vị kia đã thua tài biện luận của mình vì không thấy đến nơi hẹn. Khi câu chuyện được bạch lại với Đức Phật, Đức Phật giải thích thái độ của người thật sự đáng là Tỳ kheo “Chẳng phải cạo trọc đầu mà có được danh nghĩa Sa môn. Kẻ đã dứt trừ xong mọi ác ý mới là Sa môn”:
(Pháp Cú 264)
Người mà nói dối,
nói sai
Lại thêm phá giới,
sống đời buông lung
Dù đầu cạo tóc hết
luôn
Cũng chưa xứng gọi
Sa Môn tu hành
Huống còn tham dục
đầy mình
Làm sao lại xứng
trở thành Sa Môn.
(Pháp Cú 265)
Bao nhiêu điều ác
ở đời
Dù cho lớn, nhỏ ai
người dứt luôn
Chính nhờ điều ác
không còn
Xứng danh được gọi
Sa Môn tu hành.
Vài vị Tỳ kheo đã thành đạt những tiến bộ tinh thần khá cao nhưng không kiên trì tinh tấn để đắc quả A La Hán ngay. Họ nghĩ rằng họ đã thành công trong việc tu tập như thế thời dễ dàng có thể trở thành A La Hán lúc nào cũng được. Họ đến yết kiến Đức Phật và nói lên ý nghĩ đó. Ngài khuyên “Chẳng phải vì thuộc giới luật, học rộng, nghe nhiều, chứng ngộ tu thiền, sống cô độc mà tự mãn khi chưa thành đạt mục tiêu cuối cùng, khi mà mê lầm, phiền não còn trong tâm”. Các Tỳ kheo nhờ đó mà tinh tấn tu tập hơn và chứng quả:
(Pháp Cú 271 -
272)
Không vì giới luật
luôn theo
Không vì học rộng,
nghe nhiều giỏi thêm
Không vì chứng ngộ
tu thiền
Hay là cô độc sống
riêng một mình
Mà cho là đã đạt
thành
“Niềm vui giải
thoát, hương lành xuất gia
Phàm phu không thể
sánh qua!”
Tỳ Kheo chớ có tỏ
ra bằng lòng
Khi mà trừ diệt
chưa xong
Mê lầm, phiền não
còn trong tâm mình.
Năm thầy Tỳ kheo, mỗi thầy tự chế một giác quan. Các thầy bạch hỏi Đức Phật để biết giác quan nào khó chế ngự hơn hết. Đức Phật dạy điều phục giác quan nào, căn nào, cũng khó như nhau, nhưng người tu hành đồng thời phải chế ngự được đủ các căn mới tiến đến được giải thoát:
(Pháp Cú 360 -
361)
Người nào chế ngự
được ngay
Mắt, tai, mũi,
lưỡi: lành thay vô ngần!
Lại thêm chế ngự
được thân
Cũng như lời nói
và tâm ý mình
Nói chung quả thật
tài tình!
Tỳ Kheo nào bản
thân mình thật hay
Chế ngự xong mọi
điểm này
Khổ đau giải
thoát, đọa đày tiêu tan.
Một Tỳ kheo có tài ném đá, trăm phát trúng cả trăm. Một hôm thầy ra tắm sông cùng một số bạn đồng tu. Muốn khoe khoang tài của mình, thầy liệng cục đá vào đầu một trong hai con thiên nga đang bơi lội gần đó, làm nó bị chết. Để khuyên dạy, Đức Phật giải thích trạng thái thích đáng mà một người Tỳ kheo cần phải có:
(Pháp Cú
362)
Người nào chế ngự
tay chân
Giữ gìn lời nói và
tâm ý mình
Thích ưa thiền
định nhiệt thành
Độc thân, tự tại,
tu hành cô liêu
Biết đầy đủ, chẳng
ham nhiều
Xứng danh là bậc
Tỳ Kheo vô cùng.
Một thầy Tỳ kheo đã lăng mạ hai vị đại đệ tử của Đức Phật là các tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nên bị đọa địa ngục. Đức Phật nhân cơ hội này dạy rằng một Tỳ kheo phải kiểm soát lời nói, ăn nói hiền từ hoà nhã, không tự phụ, thì khi diễn bày ý nghĩa của kinh điển lời sẽ êm dịu rõ ràng. Ăn nói khôn khéo ở đây có nghĩa là trí tuệ:
(Pháp Cú 363)
Tỳ Kheo ngôn ngữ
thuần rồi
Nói câu khôn khéo,
tránh lời tự cao
Thì khi giảng Pháp
ngọt ngào
Muôn phần êm dịu,
xiết bao rõ ràng
Một vị Tăng sĩ biết Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, cố tránh không làm theo những vị khác. Thầy rút về tịnh thất mình, lấy giáo pháp làm đề mục hành thiền nhằm thành đạt đạo quả A La Hán. Vì hiểu lầm thái độ của thầy, các vị khác đem câu chuyện bạch lại với Đức Phật. Khi nghe thầy đó giải thích ý định của mình, Đức Phật tán dương thầy :
(Pháp Cú 364)
Tỳ Kheo chánh pháp
tuân theo
Một lòng suy
tưởng, mến yêu đạo mầu
Tư duy chánh pháp
thâm sâu
Sẽ không sa đọa.
Chẳng bao giờ rời
Mãi theo chánh
pháp tuyệt vời.
Một thầy Tỳ kheo nhận lời mời của một đệ tử của Đề Bà Đạt Đa đến tu viện riêng của Đề Bà Đạt Đa và sống vài ngày trong sự tiếp đón nồng hậu của chủ. Khi trở về chùa, các vị khác đem câu chuyện bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên dạy thầy và các vị khác là “nên biết đủ” và “đừng khinh thường những gì mình thọ lãnh”:
(Pháp Cú 365)
Điều mình thọ lĩnh
được rồi
Chớ nên coi rẻ,
buông lời khinh khi,
Người ta thọ lĩnh
được chi
Chớ thèm, chớ muốn
thứ gì của ai,
Tỳ Kheo ganh tỵ
người ngoài
Khó mà an trú cho
nơi tâm mình
Bao điều thiền
định tốt lành.
(Pháp Cú 366)
Tỳ Kheo thọ lĩnh
cúng dường
Ít nhiều cũng
chẳng coi thường khinh chê
Cứ luôn sinh hoạt
mọi bề
Siêng năng, thanh
tịnh không hề buông lơi
Từ bi chất chứa trong tâm và Tỳ kheo luôn luôn đem nguồn vui đến cho mọi người, cứu khổ mọi loài. Tỳ kheo lấy từ tâm đối xử với mọi người, vui thích với giáo pháp, sẽ đạt đến cảnh giới an lạc và được giải thoát khỏi sầu khổ:
(Pháp Cú 368)
Tỳ Kheo chất chứa
trong tâm
Từ bi hoa nở hương
thầm bay xa
Vui trong giáo
pháp Phật Đà
Sẽ mau đạt cảnh
thăng hoa Niết Bàn
Nhanh siêu thoát,
sớm bình an
Chẳng còn phiền
não, vô vàn sướng vui.
Người dứt bỏ thằng thúc sẽ vượt qua trận lụt, “vượt dòng nước lũ mênh mông”, tức là đã giác ngộ và giải thoát:
(Pháp Cú
370)
Tỳ Kheo nào cắt
đứt xong
Năm điều phiền não
chẳng còn vấn vương,
Năm điều ô trược
dứt luôn,
Năm căn lành tốt
tìm phương trau dồi,
Năm điều trói buộc
vượt rồi
Xứng danh được gọi
là người thành công
“Vượt dòng nước
lũ” mênh mông.
Cắt đứt được năm điều phiền não là: cái tôi, hoài nghi, cố chấp sai lầm trong nghi thức cúng tế, luyến ái và sân hận. Dứt bỏ được năm điều ô trược là: tham ái, sân hận, phóng dật, kiêu căng và mê muội. Trau dồi năm căn lành tốt là: lòng tin nơi “Tứ Diệu Đế”, ý niệm chánh pháp, quyết tâm tu tập, tâm không vọng động và suy xét hiểu rõ chân lý. Vượt khỏi năm điều trói buộc là: tham ái, sân hận, si mê, ngã mạn và tà kiến.
Đức Phật dạy rằng Tỳ kheo phải chuyên cần hành thiền, đừng xao lãng, phải hết
sức chú ý và tập trung tư tưởng, theo dõi hơi thở, giữ chánh niệm và tỉnh giác,
đừng để tâm chạy theo dục lạc. Không vì phóng túng mà nuốt hòn sắt nóng dục
lạc. Lúc cháy phỏng mới ăn năn, than thở thì đã muộn rồi:
(Pháp Cú 371)
Tỳ Kheo hãy cố tu
thiền
Chớ nên buông thả,
chớ nên lơ là
Tâm mình ái dục
tránh xa
Đừng chờ nuốt sắt
nóng mà kêu than:
“Thân thiêu đốt
khổ vô vàn!”
Tỳ kheo sống nơi tĩnh mịch thời tâm yên tịnh. Hiểu rõ chánh pháp thì sẽ hưởng được niềm vui cao thượng hơn các niềm vui của người trần thế:
(Pháp Cú 373)
Tỳ Kheo ẩn dật
sống nhàn
Luôn luôn yên tịnh
vô vàn trong tâm
Bao điều chánh
pháp nhận chân
Sẽ vui hưởng thú
siêu nhân hơn người.
Người suy niệm biết rõ lẽ sinh và diệt của “ngũ uẩn”, của năm nguyên tố hòa hợp lại tạo thành thân và tâm con người, thì sẽ hình dung được niềm vui và hạnh phúc của những người đã thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi:
(Pháp Cú 374)
Ai mà suy nghĩ,
nhận chân
Lẽ sinh diệt của
thân tâm này rồi
Thân tâm ngũ uẩn
con người,
Hưởng ngay hạnh
phúc, niềm vui tốt lành
Của người thoát
khỏi tử sinh.
Tỳ kheo có trí tuệ phải lo chế ngự lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), tự biết đủ, nghiêm trì giới luật, giao thiệp với những người có đức hạnh, trong sạch và chuyên cần. Phải chân thành thân thiện, đoan chính, thanh cao. Tỳ kheo đó sẽ dứt sạch phiền não, có nhiều niềm vui:
(Pháp Cú 375 -
376)
Tỳ Kheo có trí
hiểu rằng
Phải lo chế ngự
lục căn cho lành,
Tự mình biết đủ
phần mình,
Đạo mầu giới luật
nghiêm minh giữ gìn
Kết thân với các
bạn hiền
Có tài, có đức lại
thêm chuyên cần.
Chân thành giao
thiệp xa gần
Tác phong đoan
chính muôn phần thanh cao,
Được như vậy tốt
là bao
Xua đi phiền não,
đón vào sướng vui.
Năm trăm vị Tỳ kheo đi vào rừng vắng tu tập thiền định. Nơi đây các vị đó quan sát những cánh hoa lài nở tươi đẹp vào buổi sáng rồi đến chiều thì tàn úa rơi xuống đất. Các vị đó suy niệm và nung chí lên, chuyên cần hành thiền. Đức Phật biết vậy, rọi hình ảnh Ngài trước mặt các thầy và dạy “Này các Tỳ kheo! Hãy dứt bỏ trọn vẹn tham, sân, như bông lài buông rơi những cánh hoa tàn”:
(Pháp Cú 377)
Như hoa lài lúc
héo tàn
Buông rơi cánh úa
theo làn gió kia,
Tỳ Kheo theo đó
khác chi
Tham và sân xả hết
đi mọi đường.
Thuở ấy có một thầy Tỳ kheo ở chùa Kỳ Viên rất an tịnh, nhàn nhã. Tính tình trầm tĩnh, đi đứng nghiêm trang, thường ngồi, nằm nơi vắng vẻ, ít nói, ít tiếp chuyện với bạn đồng tu. Tác phong tự tại của thầy làm mọi người lưu ý. Mọi người mới đến thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật cho biết kiếp trước thầy Tỳ kheo này là một con sư tử chúa, dáng điệu rất oai vệ, săn được mồi, ăn xong liền nằm im lặng lẽ. Ngài dạy các Tỳ kheo nên noi theo gương đó:
(Pháp Cú 378)
Tỳ Kheo thanh tịnh
bản thân
Ôn hòa ngôn ngữ,
bình an tâm hồn
Ung dung tự tại
luôn luôn
Không màng dục lạc
thế nhân thường tình
Con người an tịnh
xứng danh!
Một Tỳ kheo say mê phẩm hạnh của Đức Phật, cứ mãi ngồi chiêm ngưỡng dung nhan Ngài. Đức Phật khuyên Thầy không nên làm vậy và dạy rằng người nào thấy giáo pháp tức là thấy Phật. Thầy bất mãn, trèo lên một tảng đá, toan từ đó nhảy xuống quyên sinh, Đức Phật thấy vậy xuất hiện trước mặt thầy. Gặp Đức Phật, thầy vượt qua cơn sầu và cảm thấy hoan hỷ. Nhân cơ hội Đức Phật đọc lên câu kệ sau đây. Thầy cố gắng hành thiền và về sau đắc quả A La Hán:
(Pháp Cú 381)
Tỳ Kheo hoan hỷ
bản thân
Tin theo Phật pháp
với tâm chân thành
Sẽ mau đạt cảnh an
lành
Thân tâm phiền não
sớm thanh tịnh liền.
Đức Phật tuyên ngôn những lời sau đây khi tán dương một thầy Tỳ kheo trẻ tuổi có nhiều oai lực thần thông:
(Pháp Cú 382)
Tỳ Kheo tuy trẻ
tuổi thôi
Nhưng mà Phật pháp
tu thời siêng năng
Sẽ là ánh sáng huy
hoàng
Rạng soi toàn cõi
thế gian mịt mờ
Như trăng ra khỏi
mây mù.
Đức Phật không quên nhắc nhở các vị Sa môn xuất gia, phải biết tôn trọng áo cà sa và gìn giữ giới hạnh. Đức Mục Kiền Liên thấy một con quỷ đói có hình dáng như một bộ xương khô. Lần khác thấy những con quỷ hình dáng Sa môn đang phừng phừng bốc cháy. Ngài về trình lại cho Đức Phật nghe. Ngài giải thích rằng đó là các tăng sĩ ô nhiễm trong kiếp sống ở quá khứ nay chịu hậu quả này:
(Pháp Cú 307)
Dù cho mặc lắm cà
sa
Nhưng mà hạnh ác,
gian tà chẳng ngăn
Sau vì nghiệp ác
mình làm
Chết vào địa ngục
gian nan đọa đày.
Một Tỳ kheo vô ý cắt đứt một nắm cỏ, phạm vào giới luật cấm đốn cây. Tuy đã
theo đúng thủ tục thú tội với bạn đồng tu nhưng trong tâm tu sĩ đó vẫn còn thắc
mắc. Một Tỳ kheo khác khuyên rằng đó là giới cấm nhỏ, không đáng để ý, vị này
có tính ngang nhiên tự phụ nên khuyên xong bèn tự mình cúi xuống nhổ một nắm
cỏ, coi đó là việc tầm thường. Đức Phật dạy là chớ lơ là trong việc giữ gìn
giới luật. Tương tự như lá cỏ sắc bén tựa lưỡi dao, nếu chẳng khéo cầm giữ sẽ
bị đứt tay. Kẻ tu hành mà không giữ giới hạnh nghiêm túc sẽ bị sa vào địa ngục.
Theo tà hạnh sẽ đưa đến đau khổ:
(Pháp Cú
311)
Cỏ kia sắc tựa
lưỡi dao
Những người vụng
dại nắm vào đứt tay,
Sa Môn tà hạnh còn
đầy
Tất nhiên địa ngục
đọa ngay tức thì.
(Pháp Cú 312)
Ai mà phóng đãng
buông lung
Không theo giới
cấm, vô cùng nhiễm ô
Sống đời đạo hạnh
đáng ngờ
Không sao chứng
quả, khó mà thành công.
Gặp việc đáng làm thì phải làm cho tận tâm. Tu hành mà không giữ giới cho
nghiêm túc, thì sẽ bị lục trần và dục vọng lôi cuốn vào đường tội lỗi. Đức Phật
dạy:
(Pháp Cú 313)
Việc cần làm, phải
nên làm
Làm cho hết sức,
tận tâm, nhiệt tình,
Xuất gia mà chẳng
giữ mình
Hành vi phóng
đãng, tu hành buông lơi
Chỉ gieo cát bụi
cho đời.
Sau khi đã tìm hiểu một số lời dạy của Đức Phật với chư Tăng, Ni, chúng ta đã hình dung ra được phần nào nếp sống chân chính của những người đang khoác trên mình màu áo cà sa khả kính. Trở lại với chính hình ảnh của Đức Phật từ thuở xa xưa, chúng ta thấy trên mọi nẻo đường khất thực và hoằng hóa, Ngài luôn luôn đi chân không và đi bộ với bình bát trên tay. Giản dị chỉ có thế. Dung dị trong bộ áo cà sa, trong tấm y vàng có những lúc chỉ là y phấn tảo. Tấm lót ngồi làm bằng cỏ khô đan lại. Có những lúc Ngài trú mưa qua một đêm trong một chái nhà lá của thợ làm đồ gốm một mình. Ngài sinh ra dưới cội cây, và nhập Niết Bàn cũng dưới cội cây, chỉ đơn giản nằm nghiêng trên chiếc võng dây treo giữa hai cây Ta la song đôi. Cuộc sống dung dị nhưng thơ mộng biết bao! Đẹp đẽ biết bao! Xúc cảm biết bao! Chính những hình ảnh, những nét vẽ dung dị đó là những hào quang tối thượng và kỳ diệu nhất để cho chúng ta chiêm ngưỡng. Nội dung giáo hoá của Đức Phật vẫn luôn là Giới, Định, Tuệ qua thân giáo và khẩu giáo.
Cần nhấn mạnh lại ở đây rằng Đức Phật đã định rõ giá trị lý tưởng của một người tu xuất gia phải căn cứ vào cá tính và thái độ, hơn là vào hình dáng, hơn là vào bộ áo cà sa mà quý vị đó đang khoác bên ngoài.