Phép Quán Niệm Về Phật

13/01/20158:16 CH(Xem: 4424)
Phép Quán Niệm Về Phật

KINH NGƯỜI ÁO TRẮNG
Thích Đạt Ma Phổ Giác


PHÉP QUÁN NIỆM VỀ PHẬT

Tâm cao thượng một: Đệ tử áo trắng quán niệm Như Lai là bậc Giác ngộ không còn dính mắc, bậc Minh Hạnh Túc, là bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, là Thiên Nhân Sư, là Phật, Thế Tôn. Nhờ quán niệm này, vọng tâm, dục niệm thảy đều tiêu diệt; không còn yếu tố bất thiện, uế nhiễm, sầu khổ, lo âu ảnh hưởng, chi phối. Nhờ quán tưởng Phật, tâm được lắng trong, đạt an vui lớn.       

Bốn tâm cao thượng còn được gọi là bốn tăng thượng tâm. Tăng thượng  nghĩa là có khả năng phát triển và đi lên. Bốn tăng thượng tâm hoặc bốn tâm cao đẹp này là bốn pháp quán niệm về Phật, quán niệm về Pháp, quán niệm về Tăng và quán niệm về Giới. Những phép quán niệm này giúp cho người tại gia có thêm niềm tin vững chắc đối vơi Tam bảo, khiến mình và người hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.   

Nhờ tưởng niệm tới Như lai mà tâm tư người ấy lắng trong, có được niềm vui, và người ấy đạt tới tâm cao thượng thứ nhất, an trú hạnh phúc trong hiện tại một cách dễ dàng, không khó khăn gì.

Phậttiếng gọi tắt của chữ Phật-đà trong tiếng Phạn ý chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni và chư vị đại Bồ-tát đã hoàn toàn giác ngộgiải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Phật là người đã hoàn thiện chính mình, không còn bị trói buộc bởi tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, mặc đẹp và ngủ kỹ mà đa số người thế gian khó bề vượt qua nổi.

Phật là một con người giống như tất cả mọi người, Ngài là một hoàng thái tử dám từ bỏ quyền uy thế lực, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, từ bỏ tất cả những gì chúng ta hằng mong muốn, để đi tìm chân lý sống cho con người.

Như lai là một trong những danh hiệu của Phật. Như lai là bậc giác ngộ chân chính, không còn dính mắc hay bị ràng buộc các pháp của thế gian về phải quấy, tốt xấu, đúng sai, ta, người, chúng sinh….. Giác ngộ có nghĩa là tỉnh thứchiểu biết đúng như thật.

Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật mà Ngài thường dùng trong các bản Kinh, chúng tôi tạm gọi là “không từ đâu đến và cũng không đi về đâu”. Nó là một thực tại nhiệm mầu không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, Như Lai là Bậc giác ngộ, Bậc tỉnh thức và thấy biết đúng như thật.

Như Lai là người giác ngộ hoàn toàn, không còn bị ràng buộc và dính mắc các pháp thế gian như tham lam, sân giận, si mê, mạn nghi và ác kiến.

Như Lai là Bậc Ứng Cúng xứng đáng được trời người tôn trọngcung kính cúng dường, là Bậc đã phá trừ các phiền não khổ đau.

Như Lai là Bậc Chánh Biến Tri, là người đã giác ngộ rộng lớn, thấy biết chân chính và không còn dính mắc các Pháp trần tục ở đời như si mê, tham ái, giận dữ, ghen ghét, hận thù, cống cao ngã mạn và các sự trói buộc khác. Ngài tự do an lạc, thảnh thơi và sống có hiểu biết, thương yêu chân thành mà không phân biệt người thân hay thù.

Như Lai là bậc Minh Hạnh Túc, có nghĩa là cái thấy đầy đủ về nhận thức, hành động đạt đến mức sáng suốt tột cùng. Cái thấy về vô số kiếp về trước làm gì, ở đâu, cái thấy tất cả chúng sinh luân hồi sinh tử, tái sinh trong ba cõi sáu đường đều do mình tạo ra và cái thấy biết cách làm cho con người không còn bị sinh-già-bệnh-chết chi phối.

Như Lai là Bậc Thiện Thệ, là người đã khéo vượt qua sống chết, đã hoàn toàn được giải thoát một cách viên mãn. Có nghĩa là khéo vượt qua mọi thứ dính mắc, trói buộc của cuộc đời. Nói cách khác, cuộc đời vốn nhiều khổ đau, và đức Phật đã khéo léo vượt qua mọi thứ khổ đau, trói buộc của cuộc đời, sống tỉnh thức, an lạc, và giải thoát trong từng phút giây hiện tại bằng con đường đúng đắn.

Như Lai là Bậc Thế Gian Giải, là người đã thấu hiểu được tâm tư, tình cảm, bản chất của mọi chúng sinh, cũng như tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này.

Như Lai là Bậc Vô Thượng Sĩ, là người đạt tới nhân cách, phẩm chất cao thượng nhất.

Như Lai là Bậc Điều Ngự Trượng Phu, là người có khả năng chinh phục, chế ngự, điều động, rèn luyện, giúp cho con người vượt qua cạm bẫy cuộc đời, kể cả những người khó điều phục.

Như Lai là Bậc Thiên Nhân Sư, là thầy của trời người. Loài trời ở đây chúng ta thường gọi là chư thiên, là loài có phước báu hơn con người.

Như Lai là Phật, nói cho đủ là Phật Đà, là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người thấy biết đúng như thật.

Như Lai là Bậc Thế Tôn, là người tôn quý trong thế gian. Sở dĩ được tôn quý vì nhân cách, phẩm chất sống của Người luôn từ bitrí tuệ, hiểu biếtyêu thương, dấn thân và phục vụ, bao dungtha thứ, sẻ chia và thông cảm vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Người cư sĩ tại gia, thường xuyên quán niệm như thế về Phật thì tâm tư càng ngày càng có sức định tĩnh, lắng trong, nhờ vậy mà chúng ta luôn có được niềm an vui hạnh phúc, bằng trái tim yêu thươnghiểu biết.

Niệm Phật là một pháp môn hành trì đem lại nhiều an vui, lợi lạc. Nhờ niệm Phật mà ta có niềm tin vững vàng hơn nơi Phật và chính ta, tại vì trong ta đã có sẵn tính biết sáng suốt, nghĩa là khả năng giác ngộ.

Khi quán niệm về Phật ta có sự an ổn, vì nhân cách sống đạo đức và các đức tính cao quý của Ngài, được thể hiện qua tâm từ bi hỷ xả. Khi niệm Phật ta cảm thấy được an ổn nhẹ nhàng, nhờ biết quay lại chính mình. Niệm Phật đúng pháp sẽ giúp cho an vui, hạnh phúc và hóa giải được những nỗi khổ niềm đau.

Khi chúng ta thuần chất niệm Phật, giúp ta có công năng khai mở nguồn tuệ giác sâu kín mà chúng quen gọi Tịnh độ là lòng trong sạch. Trong truyền thống hiện nay còn có nhiều cách thức như trì danh niệm Phậtquán tưởng niệm Phật. Trì danhtrì niệm danh hiệu của Phật, ví dụ như "Nam mô Phật Thích Ca Mâu Ni". Quán tưởng niệm Phậtchúng ta hình dung Phật với những hình tướng trang nghiêm, đang thuyết pháp độ sinh đem lại lợi lạc cho nhiều người.

Nhưng dù trì danh hay quán tưởng niệm Phật, ta cũng phải nhớ rằng tỉnh giác trong từng phút giây mới là Phật của chính mình, ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Phật là nơi nương tựa của ta nên hàng ngày ta đọc: “Con xin nương tựa Phật, nguồn tuệ giác từ bi, người đưa đường chỉ lối cho con giác ngộ phát tâm lành. 




Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 58765)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :