ĐỨC PHẬT BÀ TRUYỆN NAM HẢI QUÁN ÂM PHẬT SỰ TÍCH CA 德 佛 婆 傳 南 海 觀 音 佛 事 蹟 歌 QUAN ÂM CHÂN KINH DIỄN NGHĨA 觀音真經演義 Quảng Minh biên dịch
NAM HẢI QUAN ÂM PHẬT SỰ TÍCH CA 1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra, Này trong bể nước Nam ta Phổ môn có đức Phật Bà Quan Âm. Niệm ngài thường niệm tại tâm 10. Dẫn xem sự tích ca ngâm cho tường:
ĐOẠN 1: TRANG VƯƠNG CẦU TỰ
Đời xưa vua Diệu Trang Vương Hưng Lâm nước ấy bốn phương một nhà, Chính phi Bảo Đức Bá Nha Sáu cung đủ cả ngọc ngà thiếu chi. 15. Chỉ lo dưới gối còn trì[1] Mai sau được kẻ nối vì Đế Vương, Mới cùng Hoàng hậu lo lường Rằng: “Sao tử tức[2] muộn màng bấy ru. Hay vì giặc giã đâu đâu 20. Mà ta giết nó bấy lâu đã nhiều. Phép binh như lửa cháy đều Há không oan uổng luống tiêu mệnh người.” Chính cung tâu lại mấy lời: “Trong cơ báo ứng đạo trời chi không 25. Có đền Tây Nhạc đế cung Khấn sao được nấy như lòng thế gian, Dám xin vua lập một đàn Cầu thai ta lại giải oan cho người.” Đức vua nghe nói mừng cười 30. Sai người Triệu Chấn vâng lời truyền mau Sắm sinh hương quả, đèn dầu Bao nhiêu lễ khấn, lễ cầu đủ no. Lại sai Đát-nam, Chi-đô Lễ nghi đem đến đền chùa đế cung. 35. Truyền cho Sư cả Chí Không Rằng vâng lệnh Ngự một lòng kính thay. Đàn chay làm bảy đêm ngày Việc ngài cầu tự, việc thầy tụng kinh. Chí Không vâng lệnh rành rành 40. Năm mươi thầy tớ tập tành trống chuông. Bàn trong án ngoại tròn vuông[3] Mưa bay nước phép, hương tuôn khói đàn Ngày ấy vua ngự xe loan Hành hương tiến lễ trông đàn dâng lên 45. Lên đàn Sư giữa, Vua trên Một bên Hoàng hậu, một bên Cung tần Đức vua quỳ xuống khấn rằng: “Tôi từ trị nước nuôi chưng dân trời Cũng may dân được yên vui 50. Mà sao Hoàng tử nối đời chưa sinh. Hay là trong lúc dụng binh Nhiều khi sát phạt oan tình chúng chăng? Lòng thành lễ bạc kính dâng Rầy tôi tạ quá[4] xin thần chứng minh. 55. Xin đem sớ tấu Thiên đình Cho Hoàng tử được giáng sinh tôi nhờ.” Chúc xong Vua phán bấy giờ “Các Sư thành kính phụng thờ cho ta May mà sinh Hoàng tử ra 60. Thời Trẫm ắt thưởng cho mà hậu thay.” Phán rồi xa giá về ngay Gió đưa nghi ngút hương bay trong đền.
ĐOẠN 2: TIỀN THÂN BỒ TÁT
Miếu thần thấy sớ đốt lên Bàn cùng bộ hạ sự duyên gót đầu, 65. Vua Trang thành kính kêu cầu Lập đàn trai tiếu[5] mong hầu có thai. Hóa sinh cho đáng kiếp người Thử coi thượng giới có ai chăng là, Mắt thần thiên lý trông ra 70. Rằng bên Thứu Lĩnh[6] có nhà họ Thi. Ba đời phúc đức đã dày Đến ông Trưởng giả càng ngày càng nhân, Chẳng tham phú quý phù vân Một niềm hiếu thiện xa gần đều khen. 75. Sinh được ba con đều hiền Thi Văn, Thi Phổ là tên đó mà Rất hiền là con thứ ba[7] Nhân đức hiền hòa nhất cả hai anh. Ở hiền sao chẳng gặp lành 80. Nhân vì một sự cháy thành vạ lây Vì người Vương Cật bên kia Nó ở nơi khác, nó thì đứa gian. Nó thường quấy chốn Hà San[8] Binh trời đánh nó tồi tàn chẳng dung, 85. Cùng đường vào lạy Thi ông. Ông thấy đói khát chạnh lòng cho ăn Ba con đã can ông rằng: “Nó là trộm cướp cho gần chẳng nên Binh trời đã dẹp nó yên. 90. Mà ta dung lấy, nữa phiền lụy chăng?” Vương Cật lúc ấy hung hăng Bỏ ra ngoài rừng, vào phá Nho gia Giết người, lấy của, đốt nhà Trăm thây tử khí hơi đà xung thiên. 95. Ngọc Hoàng phán hỏi sự duyên Trách họ Thi ở nhân hiền để đâu, Gần nhau mà chẳng cứu nhau Để cho trăm mệnh âu sầu vì ai. Truyền bắt Thi thị ba trai 100. Chuyển vào trong động, bỏ dài chẳng tha. Ấy sự con ông Thi gia Xin thần xét lại tấu qua Thiên đình Cho ba người ấy giáng sinh, Thì Trang Vương cũng được đành đội ân. 105. Khi ấy đức Tây Nhạc thần Mới lên tâu ở trước sân Ngọc Hoàng, Tâu rằng: “Hạ giới Trang Vương Thành tâm sớ điệp[9] lập đàn cầu thai Nhà Thi thị có ba trai 110. Vốn dòng tích phúc xưa nay đã nhiều. Vì chẳng biết được cứu nhau Tai bay vạ buộc tình đầu nên thương, Dám xin xét lại tỏ tường Rộng tha lỗi ấy, mở đường đầu thai. 115. Trước cho Trang Vương dài đời Sau cho cứu độ những loài chúng sinh.” Ngọc Hoàng mới phán phân minh, Truyền thần vào động lệnh hành tha ra, Chuyển trai làm gái cả ba 120. Tam hồn cửu phách đợi mà thác sinh.
ĐOẠN 3: BỒ TÁT GIÁNG SINH
Trang Vương vốn ở chẳng lành Nhưng có lòng thành ước cũng được nên Cơ mầu chuyển động tự nhiên Chính cung Hoàng hậu mới liền thụ thai. 125. Lòng vua mừng rỡ hôm mai Ơn thần cảm ứng chẳng sai đâu là, No ngày[10] kết tử khai hoa Đựợc một công chúa tên là Diệu Thanh. Lòng Vua dường có bất bình 130. Rằng: “Sinh con gái thời sinh làm gì.” Năm sau thai dựng[11] đến kỳ Nghĩ được Hoàng tử ắt thì vui thay Chẳng ngở mãn tháng no ngày Lại sinh gái nữa toan rầy giết đi. 135. Triều thần can gián một khi Xá cho mới đặt tên là Diệu Âm. Mưa qua gió lại âm thầm Chính cung mừng lại tin nhằm có thai. Trong cung nức những hương trời 140. Hào quang sáng khắp mọi nơi bảo đài. Lòng Vua bao xiết vui vầy Kỳ này hẳn khác hai kỳ năm xưa, Hẳn sinh Hoàng tử chẳng ngờ Không sao điềm tốt bây giờ thấy ra. 145. Thoi đưa tháng lại ngày qua Lại sinh công chúa mặt hoa đầy đầy, Đào trên mây, hạnh trên trời Cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa. Vẻ thanh trong ngọc trắng ngà 150. Trăng tròn nét mặt, núi xa dạng mày, Ngắm xem cốt cách thanh kỳ Bụi trần chẳng có mảy may chút nào. Sắc tuy rằng sóng sánh đào Nhưng mà đoan chính, trông vào nghiêm trang. 155. Trẻ thơ mà đã khác thường Ai ai cũng kính tiên nương dưới trần. Lòng vua sao một tần ngần Nghe sinh công chúa mười phần chẳng tươi, Phán rằng: “Tuổi ngoại năm mươi 160. Chẳng được Hoàng tử lấy ai nối vì. Sinh ba con gái làm chi Sự bất đắc dĩ rồi thì làm sao?” Triệu Chấn đặt gối tâu vào “Bởi trời định thế, lòng nào có hay. 165. Những xem trong sách xưa nay Vua Nghiêu nhường vị, Thuấn thay lấy quyền[12], Thuấn trao cho Vũ người hiền[13] Ấy trong truyện sách có truyền phải không? Dám xin Thánh đế yên lòng 170. Nuôi ba công chúa để mong trưởng thành, Kén tài phò mã anh hùng Thay quyền Thái tử nối dòng tổ tiên.” Nghe thôi vua giải lòng phiền Ban cho thị nữ giữ gìn Chúa Ba.
ĐOẠN 4: CÔNG CHÚA MỘ PHẬT
175. Cõi trần mà có Thường Nga[14] Khỏi vòng trứng nước thoắt đà cả khôn Êm đềm trong chốn khuê môn Lạ thay tình tính dung ngôn khác người. Không trang điểm, chẳng chơi bời 180. Ăn chay niệm Phật, nói lời từ bi, Một mình nào có ai hay Thân này trần thế, lòng này Phật, Tiên. Có hôm ra chốn Xuân Viên Theo cùng hai chị vui miền thưởng hoa. 185. Diệu Thanh công chúa nói ra “Chúng ta đội đức mẹ cha dường này. Thanh nhàn vô sự vui thay Kẻ thường ví được thế này cho chăng.” Diệu Âm công chúa nói rằng 190. “Một mai khôn lớn định chưng vợ chồng. Bấy giờ cách trở Tây Đông Dễ ta hầu được ở cùng nhau chăng?” Chúa Ba chẳng nói chẳng rằng Trông hoa rồi lại tần ngần với hoa. 195. Thấy em chẳng nói chẳng hề Hai chị mới hỏi tỷ tê sự lòng. Thưa rằng: “Sắc vẫn như Không Thử suy giấc mộng ngắm trong người đời, Đua danh, đua lợi tơi bời 200. Như đem trò rối làm chơi là thường. Dù ba mươi sáu tàn[15] vàng Tuổi ngoài ba vạn sáu ngàn ngày thôi, Huống chi kẻ tục trần ai Lại có luân hồi mấy kiếp mà thương. 205. Phu thê là đạo cương thường Trăm năm chung được chén vàng mãi ru, Nghĩ ra nên cũng buồn dù Sao bằng mượn cảnh mà tu lấy mình. May ra siêu thoát tử sinh 210. Yên thân nước Phật, vui hình cõi Tiên, Trên thời báo đức sinh thành Mai sau người ở tòa sen đời đời. Giữa thì tế độ cho người Dưới những quỷ loài cứu lấy nơi nơi.”
ĐOẠN 5: HAI CÔNG CHÚA GẢ CHỒNG, HAI PHÒ MÃ KHÔNG HIỀN
215. Nói chăng chưa kịp hết lời Đức Vua có lệnh truyền đòi ba con. Rằng: “Rày công chúa cả khôn Toan bề gia thất lại còn đợi chi.” Bấy giờ hai chị tâu qùy 220. “Vua cha định liệu vậy thì con vâng.” Thấy con tâu vậy vua mừng Định hai phò mã kén chưng triều thần, Trạng nguyên họ Triệu quan văn Gả bà Chúa Nhất dành phần truyền gia. 225. Lại có quan vũ họ Hà Hay nghề cung kiếm gả bà Chúa Hai. Hai chàng tin dụng hôm mai Kẻ cung Đông, kẻ cung Đoài ở riêng. Ra vào chầu chực mấy niên 230. Đức Trang Vương đã tuổi liền sáu mươi, Mặt rồng khi ấy tốt tươi Làm yến Hạ thọ[16] cho vời trăm quan. Vua tôi họp mặt đoàn loan Phò mã công chúa tả ban chầu gần. 235. Chén mừng chén chúc mấy tuần Đức vua vui uống có phần quá say Ngự vào nằm nghỉ bấy chầy Trăm quan bái tạ chia tay lui về. Giấc rồng tỉnh lại ban khuya 240. Hỏi hai phò mã nay thì chầu đâu. Ai ngờ về phủ đã lâu Giọt đồng hồ điểm ban đầu trống ba. Lôi đình vua mới mắng ra Rằng: “Cho quyền bính để mà cậy trông, 245. Hôm mai chầu chực điện rồng Bên tả, bên hữu đề phòng chẳng ly. Có đâu đêm hãy còn khuya Tao say chưa tỉnh bỏ về chẳng coi. Giang sơn này phó có người 250. Thứ ba phò mã được tài trẫm trao.” Tức thì mời Hoàng hậu vào Sự con, sự rể tiêu hao giãi bày. Hoàng hậu nghe phán mới hay Tâu: “Chúa Ba rầy tuổi cũng đã nên, 255. Kén dùng may được rể hiền Để sau xem sóc cho yên nghiệp nhà.”
ĐOẠN 6: TRANG VƯƠNG MUỐN GẢ, CÔNG CHÚA CỐ TỪ
Đức Trang truyền chỉ phán ra Dạy đòi công chúa thứ ba vào chầu. Chúa Ba vâng lệnh lên hầu 260. Đức vua mới phán trước sau sự tình: “Ba con tuổi đã trưởng thành Hai chị con đã yên lành thất gia, Hiềm vị sự yến hôm qua Việc nước, việc nhà đành để con xem. 265. Trong triều văn vũ hai bên Mặc lòng đẹp ý đâu nên cha dùng, Quyền cao chức trọng cha phong Cũng như hoàng tử để phòng mai sau.” Chúa Ba đứng lặng từ lâu 270. Từ nghe cha dạy lòng sầu xót xa, Cúi đầu lạy trước thềm hoa Tâu rằng: “Con đội đức cha sinh thành. Nói sao nghe vậy mới đành Lẽ đâu con dám trái tình mẹ cha, 275. Nhưng sao con khác người ta Bẩm sinh từ thuở sinh ra đến rầy. Chỉ tin đạo Phật đêm ngày Thấy đường gia thất lòng rầy dửng dưng.” Vua nghe cả tiếng mắng rằng: 280. “Con đâu quái đản nói năng lạ lùng. Ta làm vua chúa điện rồng Đất tôn nghiêm cấm là trong lâu đài, Con đâu mà để ra ngoài Đi theo sãi vãi dông dài xấu xa.” 285. Chúa Ba lạy lại tâu qua: “Lầu loan gác phượng ai là chẳng yêu, Trân châu ai cũng muốn nhiều Phu thê ai cũng dập dìu đoàn viên. Song lòng con vốn tự nhiên 290. Xuất gia chỉ dốc một niềm mà thôi. Cũng vì tư bẩm tính trời Xin đừng ép uổng lòng tôi làm gì.” Đức Trang thêm giận một khi Như sấm như sét ai thì chẳng kinh, 295. Chúa Ba lại lạy, lại trình “Xin xét tấm tình kẻo mệt Thánh cung. Cha thương dù cố ép lòng, Thời con xin lấy kẻ giòng lương y.” Vua rằng: “Văn vũ thiếu gì 300. Mình châu vóc ngọc sánh chi kẻ thường.” Tâu rằng: “Kẻ ấy tuy thường, Có bề cứu thế, có đường độ dân.” Vua nghe nổi giận trăm phần Bắt đem đày đoạ ra chưng sau vườn.
ĐOẠN 7: TRANG VƯƠNG PHÓNG XUẤT HẬU VIÊN, CÔNG CHÚA NHẤT TÂM MỘ PHẬT
305. Chúa Ba từ ấy cảm thương Nghĩ đem điều hiếu suy lường mà coi, Thuận cha được một bề thôi Trăm năm đến lúc sau rồi nào hay. Tưởng cha xét phạt đã đầy 310. Mai sau về kiếp luân hồi ai lo? Mắt trần nào đã thấy cho, Lòng trần báng bổ nói dầu có tin. Thôi thôi dốc một lòng nguyền Đành thân chịu khó giữ bên triền già[17]. 315. Thân này thành Phật may ra Hộ nước, hộ nhà thì mới có phương. Giữ chi hiếu nhỏ tầm thường Giữ đường hiếu lớn mới đường báo ân. Càng xem nghiệp chướng cõi trần 320. Càng say đạo Phật muôn phần chẳng khuây. Sau vườn ở đó đêm ngày Trông sao, trông tuyết, trông mây một mình. Một mình niệm Phật, niệm kinh Gió thanh là quạt, trăng thanh là đèn. 325. Cũng mừng khỏi chốn trần duyên Ở đây càng được tinh chuyên kẻo còn. Đêm khuya Hoàng hậu bồn chồn Nhớ con vắng vẻ, thương con âm thầm. Truyền hai thị nữ ra thăm 330. Nơi ăn, nơi ở, nơi nằm làm sao? Hai người đến đó bước vào Khuyên dỗ đức Chúa thấp cao sự lòng: “Phủ son, gác tía, lầu hồng Nhân sao chẳng nhớ, bạn cùng cỏ hoa?” 335. Chúa Ba tình thực nói ra: “Tao ở thanh mát, chẳng ưa lâu đài. Càng nhiều chầu chực gái trai, Càng nhiều phiền não, luân hồi khổ thân. Chữ rằng nhất nhật tu nhân[18] 340. Mấy kiếp phong trần giữ sạch như không. Tao từ khỏi chốn bụi hồng Như khỏi địa ngục, lên vòng thiên cung, Bạn cùng gió mát trăng trong Tự tại mặc lòng kẻo lụy trần ai.” 345. Nói thôi ngửa mặt lên trời “Chứng minh xin chớ để sai lòng này.” Thoát thôi thị nữ lui về Tâu bà Hoàng hậu vân vi[19] rạch ròi: “Hai tôi dỗ đã hết lời 350. Khăng khăng Chúa quyết say nơi đạo Thiền. Thưa đi thưa lại cần quyền[20] Chúa chỉ một niềm kinh giáo say mê.”
ĐOẠN 8: TRANG VƯƠNG KHUYÊN TRỞ VỀ GẢ CHỒNG, CÔNG CHÚA NGUYỆN LƯU LẠI TU HÀNH
Hoàng hậu nét mặt ủ ê Thương con mà luống nằn nì cho con, 355. Hẹp gì gác tía lầu son Liễu đào thơ yếu, nước non dãi dầu. Vừa than vừa thở từ lâu Xảy nghe ngự giá lui chầu vào cung, Lên triều tâu trước ngai rồng 360. Rằng: “Nay Cửu trùng sao sắc kém tươi. Việc gì phán bảo chúng tôi, Vâng biết mọi lời kẻo để lo âu.” Rằng: “Đày công chúa đã lâu Nhớ con Trẫm những âu sầu chẳng yên.” 365. Hoàng hậu quỳ xuống tâu liền: “Con thơ dại dột dám xin thứ tình.” Bấy giờ xa giá phát hành Cùng bà Hoàng hậu dạo quanh sau vườn. Chúa Ba đón rước xe loan 370. Tâu rằng: “Con tội muôn vàn đã cam.” Đức Vua phán rằng: “Tha giam, Cho về cung cấm chớ đam tu hành.” Chúa Ba từ tạ đinh ninh: “Con xin tu hành ở chốn hậu viên.” 375. Hoàng hậu lăn khóc một bên “Thế thì lòng mẹ chẳng yên được nào!” Chúa quỳ ren rén thưa vào: “Lòng con chỉ một ước ao triền già. Nguyên vì cõi Phật lâu xa, 380. Trần gian sống mấy mươi mà chẳng tu. Vì tham danh lợi tranh đua Sau đến Minh đồ[21] biết thuở nào lên.” Đức Vua nhịn giận mà khuyên: “Rằng con sao nỡ để phiền cho cha. 385. Công trình khó nhọc sinh ra, Nuôi con mong để tuổi già cậy trông. Bây giờ bỏ chốn lầu hồng Cha khuyên mẹ dỗ quyết lòng đi tu. Hay gì sãi vãi ở chùa 390. Rau dưa khổ hạnh, bo bo tháng ngày, Như con còn có thiếu gì Mà con lại bỏ làm điều ấy ru.” Thoắt thôi hai kiệu về lầu Lại thấy hai chị đến sau dỗ dành: 395. “Tự em đày đọa một mình Hai chị thảm thiết tâm tình lắm thay. Em về chớ có ở đây, Kẻo Vua cha giết mất rày mà thương.” Chúa rằng: “Sinh tử là thường, 400. Dẫu có nghìn vàng dễ đổi được vay. Em xin tu ở chốn này Hai chị về rày chầu chực trong cung.” Thấy em nói chẳng chuyển lòng, Nặng lời thét mắng đùng đùng một khi. 405. Chúa thấy hai chị chẳng vì Thưa rằng: “Bớt giận, làm chi nhọc lòng, Thân đồng nhưng bụng chẳng đồng Dám xin hai chị rộng dung mặc dầu.” Bấy giờ hai chị về lầu 410. Tâu với Hoàng hậu trước sau sự lòng. Hoàng hậu lên tâu ngai vàng Lại sai thị nữ nội cung bắt về.
ĐOẠN 9: THỊ NỮ BÀY RA MỘT KẾ, CÔNG CHÚA RỜI BỎ HẬU VIÊN
Thị nữ trình Chúa Bà hay: “Chúng tôi vâng lệnh dỗ rày Chúa nghe. 415. Nhược bằng Chúa chỉ đam mê Chúng tôi mạn phép bắt về chẳng tha.” Chúa Bà thất trực mắng la: “Đã hay vâng phép vua cha cho đòi, Dẫu sao cũng tử tế lời 420. Chúng bây sao dám dễ người bấy kia. Chẳng về thì bắt lôi về, Ấy tao tội gì, bây nói cho ra, Tao nhân một sự xuất gia Ở đây vì có lệnh cha bắt đày.” 425. Thị nữ thấy ý khôn lay Đặt ra một chước, nói ngay một bài: “Chốn này vắng vẻ hôm mai Tu hành dễ được lâu dài đấy ru. Có chùa Bạch Tước cảnh mầu 430. Năm trăm Tăng đạo bấy lâu trụ trì, Vua phán Chúa Bà trở về Tu đấy có bề hơn chốn hậu viên.” Chúa Bà mới giải lòng phiền Hỏi: “Vua cha có phán truyền thế chăng? 435. Phỏng như lời có thực rằng, Thế thì như nguyện cũng bằng lên Tiên.” Thị nữ trở lại trong đền Tâu cùng Hoàng hậu, gửi liền Ngự hay: “Chúng tôi khuyên dỗ cả ngày, 440. Chúa tôi cũng chẳng chút lay tấm lòng. Chúng tôi đặt chước nói cùng, Rằng lệnh đền Rồng cho Chúa đi tu. Xin Chúa hãy trở về lầu Để sang chùa Tước mà tu với người. 445. Chúa tôi mới nói mới cười, Rằng được như lời mới thỏa lòng xưa. Ấy là chúng tôi chước lừa Phải đem sau trước trình thưa giãi bày.” Đức vua mới phán rằng: “Bây, 450. Đặt chước ra rày phải dùng chước chăng?” Truyền đòi chùa Tước chúng Tăng Rằng: “Mai công chúa đến chưng chùa mày, Vỗ về cho được chớ chầy Không thì tao giết chúng mày chẳng tha.” 455. Nói thôi mới sai người ra, Rước lấy công chúa về tòa kim lâu[22]. Bước vào vọng bái khấu đầu Vua cha nhìn mặt chờ lâu mới truyền, Rằng: “Con đã đam đạo Thiền 460. Cho ra chùa Tước theo miền Tăng ni.”
ĐOẠN 10: CÔNG CHÚA CỐ LƯU CHÙA TƯỚC, CHÚNG TĂNG BÀY KẾ KHỔ SAI
Tạ từ Chúa mới ra đi Hai chị cầm lại một khi chẳng rời. Các quan văn vũ trong ngoài Cùng đưa đức Chúa mỗi người mỗi than. 465. Chúa từ văn vũ các quan: “Xin đem quân lại chớ phiền ra đi, Tạ lòng xin các quan về Giúp lấy nhân chính, phù trì Thánh cung.” Trăm quan thưa một lời chung: 470. “Xin chúa trở lại đành lòng thần dân, Nhớ xưa lời dạy Thánh nhân ‘Thuận thân[23] là đạo, nghịch thân là tà.’ Lòng lành chẳng lọ xuất gia Trong cung thờ Phật cũng là chân tu, 475. Ra ngoài những đứa phàm phu Lấy làm cợt giễu, ô đồ[24] khó nghe.” Chúa rằng: “Vời các quan về, Cõi trần nào dễ biết chi mà rằng,.” Nói thôi Chúa kíp rời chân 480. Trông chùa Bạch Tước đến gần tự biên[25]. Lao xao Tăng chúng mảng tin[26] “Ấy là công chúa vua truyền ngày xưa, Hễ người ta chẳng chối từ Vua ắt làm tội bấy giờ chẳng dung.” 485. Bèn vời đức Chúa vào trong Trình kể sự lòng sau trước Chúa hay: “Chúng tôi khổ hạnh ở đây Ăn mày lộc Phật mội ngày một lưng. Chúa Bà quý giá ai bằng 490. Làm chi sãi vãi danh xưng thế cười.” Chúa Bà dạy lại mấy lời: “Sang giàu mà chẳng luân hồi vậy vay.” Chúng Tăng cứ thực trình bày: “Đức vua có lệnh truyền rày chúng tôi, 495. Dỗ cho được Chúa kíp hồi Không vậy giết người, chùa đốt ra tro.” Chúa rằng: “Chẳng phải phiền lo, Tử sinh hữu mệnh biết hầu làm sao.” Chúng Tăng thấy nói chẳng vào 500. Thác từ[27] cắt việc cho nao tấm lòng. Hễ đà ở chốn trù phòng[28] Muối dưa, gánh nước với cùng nấu cơm, Đốt hương, quét tước Già-lam[29] Giã gạo, bổ củi, việc làm cả ngày. 505. Bữa ăn đủ năm trăm thầy Đóng chuông, rung trống, không ngày nào nhưng. Chúa Bà thấy nói mừng rằng: “Hữu thân hữu khổ lẽ hằng thế gian. Ta đà vào chốn Thiền quan 510. Chỉ mong đắc đạo, há toan tiếc mình.” Nói thôi vào trước tịnh đình Chắp tay lạy Phật, tụng kinh, tham thiền, Bao nhiêu công việc chùa chiền Một mình gánh vác, truân chuyên chẳng từ. 515. Lòng thành động đến trên trời Ngọc Hoàng phán lời Thái Bạch Kim Tinh, Rằng có công chúa tu hành Một ngày trăm việc thấy hình mà thương. Lệnh truyền thần tướng, thần vương 520. Giúp việc công chúa giữ ràng sớm khuya, Rồng thì tuôn nước đến kề Hùm thì hái củi, chim thì nhặt rau. Thổ địa thì quét trước sau Lục đinh thần tướng đứng hầu đốt hương, 525. Quần Tiên oản quả, trà thang Kẻ chuông, người trống, mọi đường chia nhau. Phép trời giúp Chúa nhiệm mầu Trăm việc một khắc, ai hầu biết ra. Cả chùa sư vãi trẻ già 530. Tưởng rằng phép Chúa ai là chẳng kinh. Nhủ nhau vào tấu triều đình Kẻo e rồi lụy đến mình khốn thay.
ĐOẠN 11: CÔNG CHÚA KHÔNG VỀ, TRANG VƯƠNG ĐỐT CHÙA
Đức Trang thấy sự tâu bày Lôi đình thét mắng: “Chúng bây a tùng.” 535. Lệnh sai lực sĩ đùng đùng Đốt chùa giết hết mọi phòng Tăng ni. Tăng ni lăn khóc như ri Bởi vì Chúa đến, nỗi này thảm thương. Chúa Ba kêu lạy bốn phương: 540. “Vì tôi để vạ cho vương đến người. Mười phương Phật, chín phương trời Hoàng Thiên, Hậu Thổ[30] chứng lời cho không?” Cầm dao cắt máu ròng ròng Lạy trời, đem máu rảy tung lên trời. 545. Tự nhiên chuyển động dời dời, Sấm ran, mưa xuống khắp nơi chùa chiền, Gió êm lửa tắt được liền. Ai cũng khen Chúa phép Tiên lạ lùng. Lực sĩ thấy sự hãi hùng 550. Tâu về Trang Chúa cửu trùng Ngự hay, Phán rằng: “Bắt Chúa về đây Chẳng về thì bắt giết ngay chớ chày.” Hoàng hậu xin khất một khi, “Tôi xin đặt kế, họa thì phải nghe. 555. Đem ra kỹ nhạc trăm nghề Dỗ rằng chẳng về hẳn giết chẳng chơi.” Ai ngờ lòng sắt khôn dời Tiệc bày mặc tiệc, tu thì lại tu.
ĐOẠN 12: TRANG VƯƠNG SÁT HẠI CHẲNG THA, THẦN PHẬT CÙNG ĐẾN BẢO HỘ
Bấy giờ có lệnh trên lầu 560. Truyền bắt làm tội trọng tù giết ngay, Pháp quan vâng lệnh dám chày Đem ra trường pháp toan nay gia hình. Thấy tin Hoàng hậu bộ hành Ôm con lăn khóc một mình đòi phen. 565. Một giây vua đã biết tin Lại phán chỉ truyền tha giết đi cho. Đem về giam ở ngục u Lãnh cung chốn ấy thảm sầu bốn bên, Giãn ra vua lại nài khuyên 570. Đức Chúa gượng phiền quỳ lạy tâu qua: “Đã hay đạo mẹ đức cha Trời cao bể rộng báo đà xứng chưa. Nhưng tôi khổ hạnh bây giờ Mai sau cha mẹ được nhờ độ siêu, 575. Kẻo e nghiệp chướng đã nhiều Chẳng tai bể khổ cũng nghèo sông mê.” Vua nghe càng giận đòi khi Lại truyền lực sĩ đem đi gia hình, Bấy giờ thổ địa thần linh 580. Ở lãnh cung tới Thiên đình tâu lên. Ngọc Hoàng thượng đế phán truyền Sai các thần xuống bốn bên hộ trì, Rằng là Bồ tát xưa kia Thác sinh hạ giới khi nay phải nàn. 585. Chư Thần mau xuống chớ khoan Hễ thấy có giết kíp toan cứu người, Canh năm vừa mới rạng trời Lực sĩ áp điệu ra nơi pháp trường. Chúa Bà nhan sắc như thường, 590. Nghĩ lòng lên được thiên đường từ đây. Quan quân gươm giáo sắp đầy Bỗng đâu cơn gió thổi ngay đùng đùng. Tối tăm trời đất mịt mùng Hào quang sáng khắp cả trong trường hình. 595. Gươm đao chẳng phạm được mình Pháp quan thấy thế tấu trình bề trên. Vua Trang lại có lệnh truyền Không trảm thì giảo giết liền xem sao. Quan quân áp đến xôn xao, 600. Bỗng đâu mãnh hổ nhảy vào tha đi. Các quan về tấu vua nghe Vua rằng trời đất dung gì kẻ gian.
ĐOẠN 13: HỒN CÔNG CHÚA DẠO CHƠI ĐỊA PHỦ, LÒNG TỪ CỨU THOÁT NGỤC TÙ
Hổ tha vào tới rừng hoang Đức Chúa mơ màng như lúc chiêm bao. 605. Chẳng hay đây là nơi nào Biết ai mà hỏi lối vào đường ra? Bàng hoàng phách nguyệt hồn hoa, Thấy Thanh Y sứ[31] đến mà hỏi han, Tay cầm bảo cái cờ phan, 610. Hào quang sáng khắp mọi ngàn dưới trên. Trình: “Có Diêm Vương lệnh truyền Dạy mời đức Chúa về đền Phong Đô.” Qua mười tám cửa ngục tù Hỏi: “Đây là chốn ở đâu tên gì?” 615. Thưa rằng: “Địa phủ, Minh ty.” Chúa mới ngẫm lại một khi sự lòng, “Hẳn ta chẳng chịu lấy chồng, Vua cha đem giết thác trong chốn này.” Sứ rằng: “Chẳng phải vậy vay, 620. Mười vua Thập điện rước người xuống chơi. Xin mời người hãy tới nơi, Lại về dương thế rày mai chẳng chày.” Chúa theo sứ giả liền đi, Mười tám cửa ngục một khi tới gần. 625. Những quân canh ngục vui mừng, Đầu trâu đón rước dăng dăng hai hàng. Chúa trông vào chốn ngục đường, Gió lạnh hơi thấu đến xương lạnh lùng. Tối tăm ngày cũng mịt mùng 630. Quân tù eo óc[32], đứa trong, đứa ngoài. Chúa mới hỏi sứ từng lời, “Chẳng hay tội nghiệp những người làm sao?” Thanh Y dẫn lại thấp cao Tội gì cũng có xiết bao ngục tù. 635. Kìa ngục đem ném vạc dầu Xác người sùng trụng[33] từ đầu đến chân. Dưới thời lửa đốt cháy rân Dầu sôi người khóc muôn phần khổ thay. Vì trên trần thế tội dày 640. Trong lòng hiểm độc sâu cay quá chừng. Bạo nghịch thiên địa Thánh thần Phật, Tiên, Tổ, khảo, quân, thân[34] với thầy. Kìa ngục Huyết hồ gớm thay Hồ sâu những máu tanh nay lạ lùng. 645. Bắt đem nhấn đầu vào trong Thò lên rắn rết, thuồng luồng cắn ngay, Bởi vì trút bỏ bào thai Gian dâm bắt tội cả hai đứa cùng. Kìa ngục Nằm trên bàn chông 650. Chông là chông sắt, lưng hông tồi tàn. Ngục Kiếm thụ, ngục Đao sơn[35] Gươm dao từng đống như ngàn núi cây. Vất lên da thịt còn gì Bởi vì người ấy bất nghì[36], bất nhân 655. Rủ rê lừa lọc ngu dân Để cho đến nỗi mất thân, mất nhà. Chiết kiều[37] kia ngục Đầu hà[38] Quỷ sứ đánh bắt cho sa xuống cầu. Càng cao sa xuống sông sâu 660. Chó đồng, rắn sắt cắn đầu, cắn hông. Bởi vì lấp giếng ngăn sông, Phá việc vợ chồng, hại kẻ công danh. Kìa bàn vả sắt[39] quỷ binh Là ngục Chửi chị, chửi anh, chửi chồng. 665. Phẫu tâm là ngục Mổ lòng Những loài bất hiếu, bất trung tiếc gì. Ngục Đâm cối, ngục Dang tay. Vì phí của trời, bỏ giấy chữ Kinh, Cho nên cối đâm sình sình 670. Dang hai tay, đóng những đinh sắt vào. Kìa ngục Bạt thiệt[40] làm sao Cầm kìm lôi lưỡi, máu trào mà kinh, Bởi vì miệng lưỡi co quanh, Đảo điên đơm đặt làm khuynh hãm người. 675. Kìa ngục Hay nói dối đời Quỷ đứng vả miệng, quỷ ngồi bẻ răng. Nào ai dò lưới bắn săn, Hay giết trâu lợn, hay ăn thịt cầy, Có ngục Ác thú một bầy 680. Hổ, lang, ưng, khuyển[41] cắn nhai ruột già. Xe lửa là ngục Hỏa xa, Quay đi quay lại thịt da tan tành, Bởi vì cậy thế, cậy mình Hiếp kẻ cô quả, cướp tranh ruộng vườn. 685. Cột đồng là ngục Đốt than Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm. Kìa ngục Rắn hổ, rắn giun, Quấn người cắn máu lại phun mặt người Bởi vì bới móc chê bai, 690. Ghen tuông người nọ, dông dài sự kia. Còn như thân thích thì lìa, Thấy kẻ đói khát chút gì chẳng cho Tham tài giữ lợi bo bo Kẻ cùng, kẻ bệnh, chẳng phù chẳng thương. 695. Xiết bao khoảnh độc, cơn ương[42], Những các người ấy phải mang ngục này, Xẻ cưa, dựng ngược gớm thay, Đem đá ném xuống thân thây tan tành. Ấy là các cửa ngục hình 700. Đều vì thất đức, tại mình biết sao. Lòng trần tưởng chẳng chi nào Ai hay quả bảo khi vào Âm ty. Lại xem một ngục A Tỳ Mấy tầng chông sắt đen sì tối tăm 705. Ngục này thực tội đà thâm, Biết mấy hình nặng dưới âm mà rằng Là người làm hại quân, thân Làm hại thiên hạ muôn dân lắm người. Mấy người sâu sắc nước đời, 710. Đã được hóa kiếp chẳng chừa ác tâm. Cơ thâm thì tội cũng thâm Ác hữu ác báo chẳng nhầm chút nao. Dối người dối được trời nào Giới thần[43], vua Táo soi vào con tim. 715. Dương gian chết có một phen Phép âm bắt mãi chết liền sống ngay, Làm cho thảm thiết đọa đày Cho bỏ lại ngày ác nghiệp dương gian. Chúa Bà thấy nói thở than: 720. “Chẳng đành con mắt, chẳng yên trong lòng. Ước sao hình ngục vắng không, Bao nhiêu tội chúng sạch trong làu làu.” Bỗng thấy ba người đến sau, Sụt sùi khóc lóc cúi đầu trình thưa: 725. “Bởi vì chùa Tước bữa xưa, Can liên sự Chúa bây giờ xuống đây.” Chúa Bà thấy nói thương thay Gửi xin Diêm phủ tha ngay ba người. Ba người đã được lên đời, 730. Thanh Y dẫn Chúa chân dời từ lâu. Lại vời đến chốn kim cầu Tràng phan, bảo cái trước sau ngất đường. Dưới trên những pho pho trương Rồng vàng, mây đỏ bốn phương chầu vào.
PHẬT TỔ DẪN VÀO HƯƠNG SƠN
Thái Bạch sai Hương Tích thần Hóa làm lốt hổ đưa chân cho người.
KIM ĐỒNG SIÊU THOÁT THÂN PHÀM
Núi cao chân ngất[49] mịt mù, Thần thông biến hóa tự nhiên Phật hỏi: “Hang ấy, mày nhìn có ai?” Thưa rằng: “Thấy một xác người.” Phật rằng: “Xác ấy phàm thai của mày. 855. Thoát cho, cho sạch trần ai, Cho biến hóa được, cho dài lâu thân.” ĐOẠN 16: THỦY THẦN BÁO TẠ PHẬT ÂN, NGỌC NỮ QUY Y PHẬT PHÁP
ĐOẠN 17: TRANG VƯƠNG ĐA SÁT, BẤT NHÂN, THƯỢNG ĐẾ GIÁNG CHO BỆNH NẶNG Đoạn này nói chuyện dưới đời,
PHẬT CHÚA GIẢ LÀM TĂNG CỨU TRỊ
ĐOẠN 19: PHÒ MÃ MƯU BỎ THUỐC ĐỘC HẠI VUA, PHẬT CHÚA LÀM LỘ MƯU GIAN
ĐOẠN 20: HAI CÔNG CHÚA BỊ GIAM, THẦN THỔ ĐỊA BÁO MỘNG
ĐOẠN 21: CẮT TAY MẮT TRỊ BỆNH TRANG VƯƠNG, HÒA THƯỢNG TỪ BỎ VƯƠNG VỊ, TRỞ VỀ HƯƠNG TÍCH SƠN
ĐOẠN 22: TRANG VƯƠNG GIỮA ĐƯỜNG GẶP YÊU, TRONG NƯỚC GIẶC HÀ TIẾM NGÔI
ĐOẠN 23: PHẬT CHÚA ĐƯƠNG PHÓ HỘI THIÊN ĐÌNH, THIỆN TÀI MỘT MÌNH TRỪ YÊU QUÁI
Vua Trang đương lúc vật vờ, ĐOẠN 24: PHẬT CHÚA TÌM CỨU TRANG VƯƠNG, KIM CƯƠNG BẮT LOÀI YÊU QUÁI
ĐOẠN 25: TRANG VƯƠNG TRỞ VỀ NƯỚC, MUỐN ĐI HƯƠNG TÍCH
ĐOẠN THỨ 26: TRANG VƯƠNG LẠI ĐI HƯƠNG SƠN, CẢ NHÀ NHẬN RA CÔNG CHÚA
ĐOẠN 27: TRANG VƯƠNG HỐI NGỘ QUY THIỀN, PHẬT PHÁP LINH THÔNG HÓA ĐỘ QUỶ TINH 1335. Đức vua đã được ơn nhờ, ĐOẠN 28: NGỌC HOÀNG SẮC PHONG NGÔI PHẬT, CẢ NHÀ NHẬP VÀO GIÒNG TIÊN
Thượng đế sắc phong: Đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát, tứ dữ liên hoa bảo tọa, nhất phó vĩnh tác Nam Hải Phổ Đà Nham Đạo tràng chi chủ.[91] 1375. Chúa Thanh, Chúa Âm hai người, Diệu Thanh vi Đại Thiện Văn Thù Bồ tát, tứ dữ Thanh sư, xuất nhập kị tọa; Diệu Âm vi Đại Thiện Phổ Hiền Bồ tát, tứ dữ Bạch tượng, xuất nhập kị tọa, vĩnh tác Thanh Lương sơn Đạo tràng chi chủ.[92] ĐOẠN 29: CA TỤNG CÔNG ĐỨC, KHUYÊN RĂN NGƯỜI ĐỜI Phật Bà, Ngài vốn tự nhiên,
Quảng Minh - Hoàng Thanh Tuyên Ngày 7 tháng 1 năm 2015[1] Còn trì: còn chầy, còn chậm. [2] Tử tức: con cháu. [3] Đàn tràng chẩn tế được thiết lập theo hình thức Mạn-đà-la, bao gồm nội đàn (hình tròn) là Kim cương giới mạn-đà-la và ngoại đàn (hình vuông) là Thai tạng giới mạn-đà-la. [4] Tạ quá: xin lỗi. [5] Trai tiếu齋醮: Sư làm trai đàn cầu cúng. [6] Thứu lĩnh鷲嶺: Thứu Sơn鷲山, tức núi Linh Thứu. [7] Thi Thiện 施善. [8] Hà Sơn 霞山. [9] Sớ: một tờ điều trần dâng lên bậc bề trên; trong Phật giáo Việt nam gọi là sớ hay sớ đầu, có tính cách như một lời phát nguyện dâng lên Tam bảo. Điệp: bản văn có tinh cách làm sáng tỏ vấn đề để người xử dụng được dễ dàng trong việc đi lại hay thi hành nhiệm vụ. [10] No ngày = đủ ngày. [11] Thai dựng = có mang. [12] Khi vua Nghiêu già yếu, Thuấn được Nghiêu nhường ngôi vị quân chủ của liên minh các bộ lạc. Ông đặt thủ đô của liên minh tại Bồ Phản 蒲阪 (Sơn Tây hiện nay). Từ đó, ông thường được gọi là Đại Thuấn 大舜 hay Ngu Thuấn虞舜. Việc Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. [13] Theo truyền thuyết, vua Vũ là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lich sử Trung Quốc, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Ông được nhớ tới nhiều nhất với tư cách là người đã có công phát triển kỹ thuật trị thủy chinh phục các sông ngòi Trung Quốc. Vua Thuấn rất ấn tượng trước những công việc kỹ thuật và nỗ lực của Vũ và đã đưa ông lên ngôi chứ không phải con trai mình là Thương Quân. Vũ được cho là lúc đầu từ chối ngôi vua, nhưng do quá nổi tiếng với các thủ lĩnh địa phương nên ông đã đồng ý để trở thành vua ở tuổi 53. Ông dựng đô ở An Ấp 安邑 (di tích của nó nay thuộc huyện Hạ ở phía nam tỉnh Sơn Tây), trở thành người sáng lập nhà Hạ, truyền thống coi là triều đại đầu tiên của Trung Quốc [14] Thường nga嫦娥: Hằng nga姮娥, tức chị Hằng, là một nhân vật thần thoại trong truyền thuyết của người Trung Quốc và một số nền văn minh chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa, nữ thần của Mặt trăng. [15] Tàn: cái tán che, tàn lọng. [16] Hạ thọ: mừng sống lâu. [17] Triền già廛迦 hay chiền già: chùa chiền (triền), già lam. Dân gian tại vùng của chùa Đót Sơn, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, có câu: “Đã đi làm phúc đừng cười/ Của đi làm phúc muôn đời thọ khang/ Đã đi làm vãi triền già/ Nào ai sỉ báng thì ta được nhiều.” [18] Nhất nhật tu nhân一日修仁: một ngày tu lòng nhân. [19] Vân vi云爲: đầu đuôi mọi lẽ, đầu đuôi sự tình.[20] Cần quyền勤拳: khẩn thiết chân thành. [21] Minh đồ冥途: con đường mê ám, tối tăm, chỉ cho địa ngục. [22] Kim lâu: lầu vàng, chỉ điện vua. [23] Thân親: Cha mẹ, như song thân雙親. [24] Ô đồ污徒: đồ ô uế, nhớp nhúa. [25] Tự biên寺邊: bên chùa. [26] Mảng tin = nghe tin. [27] Thác từ託辭: thoái thác, từ chối. [28] Trù phòng廚房: nhà bếp. [29] Già lam 伽藍: âm dịch là Tăng già lam ma 僧伽藍摩, gọi tắt là Tăng già lam; ý dịch là Tăng viên僧園, Chúng viên 眾園, Tăng viện 僧院), là nơi thanh tịnh, vắng vẻ phù hợp cho chư tăng tập trung tu hành. [30] Hoàng thiên: là Hoàng thiên Thượng đế 皇天上帝 hay Hạo thiên Thượng đế 昊天上帝một trong các vị thần của Đạo Giáo. Hậu thổ 后土: là đia thần, thuộc về Tứ ngự trong hệ Tam Thanh, có chức năng về quyền tạo ra muôn vật, làm nên vẻ đẹp của núi sông. Các thần linh thuộc hạ của Hậu thổ gọi là các Thổ hoàng. Có 36 Thổ hoàng cai quản 36 tầng đất trong Cửu lũy (mỗi lũy có 4 tầng). [31] Thanh y sứ: sứ giả áo xanh. [32] Eo óc: rên la. [33] Sùng trọng 崇重: sựng chín. [34] Tổ 祖 là ông cố. Khảo 考 là ông nội. Quân là vua. Thân là cha mẹ. [35] Kiếm thụ: rừng kiếm. Đao sơn: núi dao. [36] Bất nghì = bất nghĩa. [37] Chiết kiều 折橋: chặt cầu. [38] Đầu hà 投河: ném xuống sông. [39] Bàn vả sắt: cái mâm bằng sắt để vả miệng. [40] Bạt thiệt 拔舌: kéo lưỡi. [41] Cọp, chó sói, chim ưng, chó nuôi. [42] Khoảnh và cơn đều chỉ khoảng thời gian, lúc, khi. Độc là độc ác. Ương là tai hại. [43] Giới thần = Hộ giới thần 護戒神: các vị thiên thần bảo vệ người giữ giới. [44] Phủ việt 斧鉞: Cây búa lớn. [45] Chùy đồng 錐銅: Cái dùi đồng. [46] Giang cầm = gông cùm. Giang là mắc vào cổ. Cầm là cầm chân. [47] Giã ơn = cám ơn. [48] Kiên: vững chắc, không dao động. [49] Chân ngất = chất ngất: cao chót vót, có nhiều lớp, nhiều tầng. [50] Tam phủ: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ ; hay Mẫu thượng thiên, Mẫu thượng ngàn, Mẫu thoải. [51] Thiên: ngàn. Vàn = vạn: 10 ngàn. [52] Động nguyên洞源: hang động và nguồn suối. Hải nhạc海嶽: biển cà và núi non. Linh quan là thần tiên linh thiêng. [53] Người đất Lạc bang ở châu Duyện. [54] Kiếp nhân劫人: kẻ cướp. [55] Lý ngư鯉魚: cá chép. [56] Châu dạ minh = dạ minh châu夜明珠: trân châu có thể phát sáng vào ban đêm. [57] Thiền lâm禪林: tên gọi khác của Thiền viện 禪院, Thiền tự 禪寺, Tùng lâm 叢林; là đạo tràng chuyên tu tập Thiền pháp, là nơi học đồ, đồng đạo ở khắp nơi tập trung về, cùng nhau khích lệ, tinh tiến học đạo. [58] Nỡ hoài: không thèm nhớ, không muốn bao dung. Nỡ là làm việc gì trái với đạo lý thông thường. Hoài懷: nhớ, bao dung. [59] Nam Tào南曹: tức Nam Đẩu Tinh Quân 南斗星君, là vị thiên thần rất quan trọng trong Đạo giáo, chưởng quản chùm sao Nam Đẩu, ở phương Nam, trông coi về thọ mạng ngắn dài của nhân loại. [60] Ôn hoàng 瘟㾮 = ôn dịch瘟疫. Ôn, là dịch, bệnh truyền nhiễm. Hoàng, là bệnh ung thư gan.[61] Nhả咀: Hán Việt đọc là trớ (nhấm, nhai, thưởng thức). Nôm đọc là thở hay nhả. Nhả trong từ nhả nhớt, chỉ thái độ cười cợt thái quá. Có bản là giở tiệc. [62] Dở dang: chưa hoàn thành. [63] Hoàn: viên thuốc. [64] Điều: pha trộn. [65] Cây đàn hương檀香 (đàn thơm) còn gọi là trầm bạch. [66] Thần Du Dịch: Cửu thiên Du Dịch sứ九天游奕使. [67] Phó付: giao phó, trao cho. [68] Tra tay: ra tay, cử động bàn tay. [69] Hổ quan虎關: cửa cọp, tên một điểm trên bàn tay theo sách tướng. [70] Đồ塗: bôi, xoa. [71] Tay mắt bên phải chữa bên phải mới công hiệu. [72] Băng chừng: Hán Việt Băng trừng冰澄, là chất lỏng đông đặc. Ca dao có câu: Sao Hôm chờ đợi sao Mai/ Trách lòng san vượt thương ai băng chừng. San vượt là vượt núi; băng chừng là đống băng. [73] Chính sắc正色: vẻ mặt nghiêm trang. [74] Tiên箋: giấy viết thư. [75] Chữ căn根mà đọc là côn cho có vần. Tạm dịch: Ta chính Tây phương một Thế Tôn/ Riêng đến cứu ngươi diệt trừ căn/ Từ nay chính đạo không tà sắc/ Chớ để linh chân nhiễm tục trần. [76] Giặc pha = giặc giã. Pha 坡: nghiêng, dốc. [77] Mâu quốc牟國: một nước chư hầu thời Chu. [78] Thái tuế太歲: tức Thái Tuế tinh quân 太歲星君, tên gọi của vị thần trong Đạo Giáo Trung Quốc. Có 60 vị thần Thái Tuế tinh quân trong 60 năm, và vị thần phụ trách mỗi năm, quản lý toàn bộ việc phước họa của con người, gọi là Đương niên Thái Tuế (Thái tuế năm nay). [79] Tùy: đi theo, tháp tùng. [80] Thị hùng恃雄: cậy sức mạnh mà lấn át người khác. Đoạn trường tân thanh: “Bước vào vừa ráp thị hùng ra tay.” [81] Động trung: trong động. [82] Hợp hoan tản hồi 合歡散回: Hợp vui, tan về. [83] Kim Cương bát bộ = Bát bộ Kim Cương 八部金剛: tám vị thần tướng Hộ pháp trong Phật giáo Đại thừa, trong đó có Phật giáo Việt Nam. Tám vị Kim Cương là: Thanh Trừ Tai Kim Cương, Tích Độc Thần Kim Cương, Hoàng Tuỳ Cầu Kim Cương, Bạch Tĩnh Thủy Kim Cương, Xích Thanh Hoả Kim Cương, Định Trừ Tai Kim Cương, Tử Hiền Kim Cương, Đại Thần Lực Kim Cương.
[84] Doanh營: trại quân. [85] Bán lộ tái hồi: nửa đường quay về. [86] Thủy chung: đầu đuôi. [87] Bệnh phi thường: bệnh chẳng bình thường, tức bệnh hiểm nghèo. [88] Lẫn khuất: không còn minh mẫn. [89] Hối quá悔過: chừa bỏ lỗi lầm. [90] Dung = thu nạp. [91] Thượng đế sắc phong: Đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát, ban tặng toà báu hoa sen, trao phó vĩnh viễn làm chủ Đạo tràng núi Phổ Đà, biển Nam Hải. [92] Thượng đế sắc phong: Diệu Thanh là Đại Thiện Văn Thù Bồ tát, ban tặng con Thanh Sư để cưỡi ngồi ra vào; Diệu Âm là Đại Thiện Phổ Hiền Bồ tát, ban tặng con Bạch tượng để cưỡi ngồi ra vào; (cả hai vị) vĩnh viễn làm chủ đạo tràng núi Thanh Lương. [93] Thân ngồi núi Phổ Đà, là Báo thân. Thân lên trên Phật, là Pháp thân. Thân qua dưới đời, là Hóa thân. [94] Ngu mông愚蒙: ngu tối mê muội. [95] Chỉ đài sen chín phẩm nở hoa của những người niệm Phật. [96] Tầm thanh hộ trì: nghe âm thanh kêu khổ mà đến bảo vệ, nắm giữ (bằng ngàn mắt, ngàn tay). [97] Quan Thế Âm tầm thanh cứu khổ. |